Tải bản đầy đủ (.pdf) (48 trang)

ảnh hưởng của mật độ sạ đến năng suất giống lúa ir50404 vụ đông xuân 20122013 tại huyện bình tân tỉnh vĩnh long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.46 MB, 48 trang )


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG





NGUYỄN THỊ HẰNG





ẢNH HƯỞNG CỦA MẬT ĐỘ SẠ ĐẾN NĂNG SUẤT
GIỐNG LÚA IR50404 VỤ ĐÔNG XUÂN
2012-2013 TẠI HUYỆN BÌNH TÂN
TỈNH VĨNH LONG





Luận văn tốt nghiệp
Ngành: NÔNG HỌC









CẦN THƠ - 2013

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG





Luận văn tốt nghiệp
Ngành: NÔNG HỌC



Tên đề tài:
ẢNH HƯỞNG CỦA MẬT ĐỘ SẠ ĐẾN NĂNG SUẤT
GIỐNG LÚA IR50404 VỤ ĐÔNG XUÂN
2012-2013 TẠI HUYỆN BÌNH TÂN
TỈNH VĨNH LONG






Cán bộ hướng dẫn: Sinh viên thực hiện:
GS.TS. Nguyễn Bảo Vệ Nguyễn Thị Hằng
ThS. Trần Thị Bích Vân MSSV: 3103502

Lớp: Nông học K36



CẦN THƠ - 2013
i
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN DI TRUYỀN GIỐNG NÔNG NGHIỆP

Luận văn tốt nghiệp kĩ sư nghành Nông Học

ĐỀ TÀI
“ẢNH HƯỞNG CỦA MẬT ĐỘ SẠ ĐẾN NĂNG SUẤT
GIỐNG LÚA IR50404 VỤ ĐÔNG XUÂN
2012-2013 TẠI HUYỆN BÌNH TÂN
TỈNH VĨNH LONG”


Do sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Hằng
Kính trình hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp xem xét.

Cần Thơ, ngày …… tháng …… năm 2013
Cán bộ hướng dẫn




GS.TS. Nguyễn Bảo Vệ ThS. Trần Thị Bích Vân
ii

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG
BỘ DI TRUYỀN GIỐNG NÔNG NGHIỆP

Hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp đã chấp thuận luận văn với đề tài:
“ẢNH HƯỞNG CỦA MẬT ĐỘ SẠ ĐẾN NĂNG SUẤT
GIỐNG LÚA IR50404 VỤ ĐÔNG XUÂN
2012-2013 TẠI HUYỆN BÌNH TÂN
TỈNH VĨNH LONG”

Do sinh viên: Nguyễn Thị Hằng thực hiện và bảo vệ trước hội đồng ngày
tháng năm 2013.
Luận văn đã được hội đồng chấp nhận và đánh giá ở mức: …………………………
Ý kiến hội đồng: ………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
Cần Thơ, ngày …… tháng ……năm 2013
Thành viên Hội đồng



DUYỆT KHOA
Trưởng khoa Nông nghiệp và Sinh học Ứng dụng




iii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân. Các số liệu, kết

quả trình bày trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất
kỳ công trình luận văn nào trước đây.


Tác giả luận văn


Nguyễn Thị Hằng












iv
LỜI CẢM TẠ
Kính dâng Ba Mẹ những người suốt đời tận tụy vì chúng con.
Xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy Nguyễn Bảo Vệ và cô Trần Thị Bích
Vân đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian thực hiện đề tài luận văn
tốt nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn cô cố vấn học tập Trần Thị Thanh Thủy, cùng toàn
thể quý thầy cô khoa Nông nghiệp & Sinh học Ứng dụng vì những kiến thức mà
quý thầy cô đã truyền dạy cho em trong suốt thời gian học tập tại trường. Đây sẽ là
hành trang vững chắc giúp em bước vào đời.

Gửi lời cảm ơn đến các bạn Nông học khoá 36 đã đóng góp, động viên và
giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập và thực hiện đề tài.



Nguyễn Thị Hằng










v
LÝ LỊCH CÁ NHÂN

1. LÝ LỊCH
Họ và tên: Nguyễn Thị Hằng Giới tính: Nữ
Sinh ngày: 24/11/1992
Nơi sinh: Tân Lược – Bình Minh – Vĩnh Long
Dân tộc: Kinh
Con Ông: Nguyễn Văn Năm Sinh năm: 1969
Con Bà: Đặng Thị Tạo Sinh năm: 1965
Quê quán: ấp An Thới, xã Tân An Thạnh, huyện Bình Tân, tỉnh Vĩnh Long.
2. QUÁ TRÌNH HỌC TẬP
Năm 1998-2002: Trường tiểu Tân An Thạnh C.
Năm 2003-2006: Trường trung học cơ sở Tân An Thạnh.

Năm 2007-2009: Trường trung học phổ thông Tân Lược.
Năm 2010-2013: Vào trường Đại học Cần Thơ, theo ngành Nông học, khoá 36,
khoa Nông nghiệp và Sinh học Ứng dụng.











vi
NGUYỄN THỊ HẰNG. “Ảnh hưởng của mật độ sạ đến năng suất giống lúa
IR50404 vụ Đông Xuân năm 2012-2013 tại huyện Bình Tân, tỉnh Vĩnh Long”.
Luận văn tốt nghiệp kỹ sư Nông học, khoa Nông nghiệp & Sinh học Ứng dụng,
trường Đại học Cần Thơ. Cán bộ hướng dẫn: GS.TS. Nguyễn Bảo Vệ và ThS. Trần
Thị Bích Vân.

TÓM LƯỢC
Đề tài “Ảnh hưởng của mật độ sạ đến năng suất lúa IR50404 vụ Đông
Xuân 2012-2013 tại huyện Bình Tân, tỉnh Vĩnh Long” được thực hiện nhằm mục
tiêu xác định mật độ gieo sạ thích hợp đến năng suất giống lúa IR50404 góp phần
mang lại năng suất và lợi nhuận cho người nông dân. Thí nghiệm được thực hiện từ
tháng 11 năm 2012 đến tháng 2 năm 2013. Thí nghiệm được bố trí theo thể thức
khối hoàn ngẫu nhiên 1 nhân tố, 3 lần lặp với 3 nghiệm thức: nghiệm thức 1 đối
chứng: sạ mật độ 250 kg/ha (theo nông dân), nghiệm thức 2: sạ mật độ 187,5 kg/ha,
nghiệm thức 3: sạ mật độ 125 kg/ha. Kết quả thí nghiệm cho thấy sạ mật độ 125

kg/ha cho số chồi/m
2
, số bông/m
2
thấp nhất nhưng chiều dài bông, số hạt/bông, số
hạt chắc/bông, tỉ lệ hạt chắc cao nhất. Giảm được chi phí giống đồng thời đem hiệu
quả kinh tế cao nhất khi lợi nhuận tăng thêm 1.345.000 đồng/ha so với sạ mật độ
250 kg/ha.













vii
MỤC LỤC

Trang phụ bìa i
Lời cam đoan iii
Cảm tạ iv
Lí lịch cá nhân v
Tóm lược vi
Mục lục vii

Danh mục bảng ix
Danh mục hình x
Danh sách các chữ viết tắt xi
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1 LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU 2
1.1 ĐẶC ĐIỂM THỰC VẬT 2
1.1.1 Rễ 2
1.1.2 Thân. 2
1.1.3 Lá 3
1.1.4 Phát hoa và hoa lúa……………………………………………………………….3
1.2 SINH TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN 4
1.2.1 Giai đoạn tăng trưởng 4
1.2.2 Giai đoạn sinh sản 4
1.2.3 Giai đoạn chín 5
1.3 YÊU CẦU CỦA CÂY LÚA 6
1.3.1 Một số yêu cầu về đất canh tác 6
1.3.2 Yêu cầu sử dụng phân bón 6
1.4 MẬT ĐỘ SẠ 8
1.4.1 Mật độ sạ cho lúa cao sản 8
1.4.2 Ảnh hưởng của mật độ sạ đến sâu bệnh, sinh trưởng và năng suất lúa 9
1.5 NĂNG SUẤT VÀ THÀNH PHẦN NĂNG SUẤT 11
1.5.1 Số bông trên mét vuông 11
1.5.2 Số hạt/bông 11
1.5.3 Phần trăm hạt chắc 12
1.5.4 Khối lượng 1000 hạt 12
CHƯƠNG 2 PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP 13
2.1 PHƯƠNG TIỆN 13
2.1.1 Thời gian và địa điểm thí nghiệm 13
2.1.2 Vật liệu thí nghiệm 13
2.2 PHƯƠNG PHÁP THÍ NGHIỆM 14

2.2.1 Bố trí thí nghiệm 14
2.2.2 Kĩ thuật canh tác 15
viii
2.2.3 Các chỉ tiêu theo dõi 15
2.2.4 Phương pháp phân tích số liệu 16
CHƯƠNG 3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN. 17
3.1 GHI NHẬN TỔNG QUAN 17
3.2 ẢNH HƯỞNG CỦA MẬT ĐỘ GIEO SẠ ĐẾN CÁC CHỈ TIÊU NÔNG
HỌC. 17
3.2.1 Chiều cao cây. 17
3.2.2 Số chồi/m
2
19
3.2.3 Chiều dài bông 20
3.3 ẢNH HƯỞNG CỦA MẬT ĐỘ GIEO SẠ ĐẾN THÀNH PHẦN NĂNG SUẤT
VÀ NĂNG SUẤT. 21
3.3.1 Các thành phần năng suất 24
3.3.2 Năng suất. 24
3.4 ẢNH HƯỞNG CỦA MẬT ĐỘ SẠ ĐẾN HIỆU QUẢ KINH TẾ 25
CHƯƠNG 4 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 27
4.1 KẾT LUẬN 27
4.2 ĐỀ NGHỊ 27
TÀI LIỆU THAM KHẢO 28
PHỤ CHƯƠNG
ix
DANH MỤC BẢNG



Bảng

Tựa bảng
Trang
3.1

3.2

3.3

3.4

3.5

3.6
Chiều cao cây qua các giai đoạn sinh trưởng của giống lúa IR50404
vụ Đông Xuân 2012-2013 tại Bình Tân-Vĩnh Long
Số chồi qua các giai đoạn sinh trưởng của giống lúa IR50404 vụ
Đông Xuân 2012-2013 tại Bình Tân-Vĩnh Long
Chiều dài bông của giống lúa IR50404 vụ Đông Xuân 2012-2013
tại Bình Tân-Vĩnh Long
Các thành phần năng suất của giống lúa IR50404 vụ Đông Xuân
2012-2013 tại Bình Tân-Vĩnh Long
Năng suất của giống lúa IR50404 vụ Đông Xuân 2012-2013 tại
Bình Tân-Vĩnh Long
Hiệu quả kinh tế của giống lúa IR50404 vụ Đông Xuân 2012-2013
tại Bình Tân-Vĩnh Long

18

19


20

22

24

26














x
DANH MỤC HÌNH


Hình
Tựa hình
Trang
2.1
Sơ đồ bố trí thí nghiệm

14





















xi
DANH SÁCH CÁC CHỮ VIẾT TẮT


BVTV : Bảo vệ thực vật
ctv, : cộng tác viên
ĐBSCL : Đồng bằng sông Cửu Long
ha : hecta

NSS : Ngày sau sạ
Rep : Replication (lần lặp lại)
PTNT : Phát triển nông thôn




1

MỞ ĐẦU
Cây lúa (Oryza Satival L.) là cây lương thực quan trọng trên thế giới, với hơn
một nửa dân số lấy lúa gạo làm nguồn lương thực chính, đặc biệt là các quốc gia
Châu Á, Châu Phi và Mỹ La Tinh. Bên cạnh đó nước ta là một nước có nền kinh tế
nông nghiệp từ hàng ngàn năm nay, từ một nước thiếu lương thực trầm trọng trong
những năm chiến tranh, đến nay nền nông nghiệp nước ta không chỉ sản xuất ra đủ
một lượng lớn lương thực đáp ứng chương trình an ninh lương thực cho cả nước mà
còn xuất khẩu sang nhiều thị trường thế giới. Đưa Việt Nam là nước xuất khẩu gạo
đứng hàng thứ hai thế giới (Faostat, 2010). Để đạt được năng suất cao đáp ứng nhu
cầu tiêu thụ trên thị trường còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, trong đó mật độ gieo
sạ ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình hình thành bông, yếu tố quan trọng nhất của
năng suất (Nguyễn Văn Luật, 2001).
Ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), những nghiên cứu về mật độ sạ,
phương pháp sạ và đã khuyến cáo sạ ở mật độ 100 kg giống/ha cho năng suất tương
đương hoặc cao hơn sạ ở mật độ 200 kg giống/ha, sạ thưa có số bông ít hơn sạ dày,
nhưng bông dài và số hạt chắc trên bông nhiều. Nếu sạ hàng thì mật độ sạ 50, 75,
125 kg giống/ha cho năng suất lúa không khác biệt nhau (Trịnh Quang Khương,
2010). Tuy nhiên, trong thực tế sản xuất người trồng lúa thường theo tập quán sạ
với mật độ cao, lượng giống gieo sạ từ 200-300 kg giống/ha (Nguyễn Văn Luật,
2001). Bởi nông dân cho rằng sạ với mật độ cao sẽ cho nhiều bông hơn năng suất sẽ
cao hơn, mặt khác sạ với mật độ cao để trừ hao cho những cây lúa bị ốc và chuột

cắn phá đồng thời tăng khả năng cạnh tranh giữa lúa và cỏ dại. Tuy nhiên, việc bố
trí mật độ sạ còn tùy thuộc vào giống, nếu sạ với mật độ quá cao cây lúa sẽ đẻ
nhánh ít hoặc không đẻ nhánh, tỉ lệ chồi vô hiệu cao, thậm chí cây bị chết do cạnh
tranh sinh tồn, tiêu tốn nhiều phân đạm mà không mang lại hiệu quả tối ưu. Do đó,
mật độ sạ thích hợp sẽ tạo điều kiện cho cây lúa phát triển tốt, tận dụng có hiệu quả
các chất dinh dưỡng, nước và ánh sáng. Mật độ cây thích hợp còn tạo nên sự tương
tác hài hòa giữa các cá thể cây lúa và quần thể ruộng lúa để đạt mục đích cuối cùng
là cho năng suất cao (Hiraoka, 1996). Vì vậy, gieo sạ thưa với mật độ vừa phải được
các nhà khoa học khuyến cáo áp dụng là một giải pháp nhằm làm giảm sự gây hại
của sâu bệnh, giảm được lượng giống gieo sạ, tăng năng suất và hiệu quả kinh tế.
Do đó, đề tài “Ảnh hưởng của mật độ gieo sạ đến năng suất của giống lúa
IR50404 trong vụ Đông Xuân 2012-2013 tại huyện Bình Tân, tỉnh Vĩnh Long”
được thực hiện nhằm mục tiêu xác định mật độ gieo sạ thích hợp đến năng suất lúa
IR50404 góp phần nâng cao năng suất và lợi nhuận cho người dân.




2

CHƯƠNG 1
LƯC KHO TI LIU

1.1 ĐC ĐIM THC VT
Cây lúa trồng có tên khoa học là Oryza sativa L. là cây trồng xuất hiện sớm,
thuộc một trong những loại cây trồng cổ xưa nhất. Oryza sativa L. là cây thân thảo
sống hằng năm, thời gian sinh trưởng tùy theo các giống dài ngắn khác nhau, nằm
trong phạm vi từ 60 - 250 ngày (Đinh Thế Lộc và Phạm Văn Duệ, 2006).
1.1.1 R
Rễ có nhiệm vụ hút nước và chất dinh dưỡng để nuôi cây đồng thời giúp cây

bám chặt vào đất. Bộ rễ khỏe cây mới phát triển tốt được. Cây lúa gồm 2 loại rễ
chính là: rễ mầm và rễ phụ (rễ bất định).
- Rễ mầm mọc ra đầu tiên khi hạt nảy mầm, dài 10-15 cm, ít phân nhánh, rễ dễ
chết sớm trong 15 ngày đầu lúc cây mạ non có 3-4 lá; nhiệm vụ chính là hút nước
cung cấp cho phôi hạt phát triển.
- Rễ phụ mọc ra từ các đốt trên thân lúa với 2 vng rễ với vng phía trên khỏe
mạnh và vng phía dưới km phát triển hơn, mi đốt có từ 5-25 rễ, rễ này mọc dài
thành chm với nhiều rễ nhánh và lông hút, thường mọc sâu trong khoảng 18-20 cm
đất mặt; đặc biệt cấu tạo rễ lúa có những ống thông khí ăn thông với thân và lá nên
vn giúp cây lúa sống được trong điều kiện ngập nước (Nguyễn Thành Hối, 2011).
1.1.2 Thân
Thân gồm nhiều đốt và lóng, thân lóng rng và được ôm chặt bởi b lá. Các
lóng bên dưới ngắn nên rất sát nhau, khoảng 5-6 lóng trên cng vươn dài nhanh
chóng khi lúa có đng (tượng bông, tượng khối cơ sở), đặc biệt trên các giống lúa
nổi địa phương có khả năng vươn lóng rất nhanh để kịp ngoi khỏi mặt nước (có khi
10 cm/ngày) và các lóng thì dài 30-40 cm nên thân lúa đo được khi nước rút cạn có
khi lên đến 5 m (biến động từ 2-5 m). Tại mi đốt trên thân có một chồi mầm, khi
cung cấp đầy đủ các điều kiện cho sinh trưởng và phát triển các mầm chồi này sẽ
phát triển thành chồi hoàn thiện cấp 1 (chồi sơ cấp), và có thể từ đây sẽ hình thành
ra chồi cấp 2 (chồi thứ cấp) rồi cấp 3 (chồi tam cấp); nếu chăm sóc tốt, các chồi này
sẽ mang bông với rất nhiều hạt (chồi hữu hiệu) (Nguyễn Thành Hối, 2011).







3


1.1.3 L
Lúa là cây đơn tử diệp (một lá mầm). Cấu tạo của một lá lúa bao gồm phiến lá,
b lá và cổ lá. Phiến lá là phần phơi ra ngoài ánh sáng, có một gân chính ở giữa và
nhiều gân phụ chạy song song từ cổ đến chót lá, phiến lá càng đứng và chứa nhiều
diệp lục (xanh đậm) sẽ quang hợp càng mạnh để tạo chất khô chuyển vị nuôi cây và
bông lúa về sau. B lá là phần tiếp theo phiến và ôm sát thân cây lúa giúp cây càng
đứng vững và ít đổ ngã, là nơi trung gian tích trữ và vận chuyển không khí và dinh
dưỡng cho các phận khác của cây lúa. Cổ lá là nơi tiếp giáp giữa phiến và b lá, có
2 bộ phận đặc biệt cần chú  ở đây là tai lá và thìa lá, đủ hai bộ phận này là đặc
điểm để phân biệt giữa cây lúa và các cây cỏ cng họ khác tương tự như cây lúa; tai
lá là phần ko dài của 2 bên mp phiến lá có dạng lông chim và uốn cong như hình
chữ C, thìa lá là phần ko dài của b lá và chẻ đôi ở cuối ngọn (Nguyễn Thành Hối,
2011).
Do là cây một lá mầm (đơn tử diệp) nên lá lúa có dạng hình thon dài với nhiều
gân lá chạy dọc trên phiến lá. Các lá mọc liên tiếp đối diện nhau trên thân lúa, lá
cuối cng của đời sống cây lúa thường có chiều dài rút ngắn khác thường nên gọi là
lá cờ (lá đng), lá cờ quá ngắn thì khi chín lúa khoe bông và ngược lại thì giấu
bông, lá cờ dài và đứng ngoài việc có khả năng quang hợp để nuôi bông tốt cn
giúp hạn chế chim gây hại khi lúa vào giai đoạn chín. Trong chu k sống cây lúa
ngắn ngày không quang cảm có từ 10-18 lá, nhưng các giống dài ngày và bị ảnh
hưởng quang cảm có khi cho số lá nhiều hơn 20 lá (13-23 lá) (Yoshida, 1981).
1.1.4 Pht hoa v hoa la.
Phát hoa hay thường gọi là bông lúa gồm rất nhiều gi mang hoa. Từ lúc
tượng cổ bông đến khi trổ hoàn toàn (hạt phấn chín) mất khoảng 30 ngày (25 - 30
ngày). Do tác động vươn dài của các lóng thân trên cng đã đẩy bông lúa thoát ra
khỏi b của lá cờ. Hoa lúa là hoa lưỡng tính tự thụ (hầu hết), cấu tạo gồm vỏ với
trấu lớn (dưới) và trấu nhỏ (trên), một vi nhụy cái chẻ đôi thành 2 nướm và 6 nhị
đực mang bao phấn; khi trổ khỏi thân, các hoa lúa sẽ phơi màu trong nắng (đa số
trong buổi sáng từ 8 - 13 giờ) để qua giai đoạn thụ phấn và thụ tinh tạo nên hạt gạo;
hạt phấn chỉ sống khoảng 5 phút sau khi tung phấn (hạt phấn mất sức nảy mầm ở

43
o
C trong 7 phút) nhưng nướm nhụy cái có thể sống tới 1 tuần lễ và ít bị ảnh
hưởng do nhiệt độ cao.






4

1.2 SINH TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIN
Quá trình sinh trưởng và phát triển của cây lúa bắt đầu từ lúc hạt nảy mầm cho
đến khi lúa chín hoàn toàn dài hay ngắn phụ thuộc vào nhiều điều kiện mà trước hết
là vào giống, khoảng từ 90 đến dưới 200 ngày. Trong thời gian đó, cây lúa trải qua
các thời k sinh trưởng và các giai đoạn phát triển khác nhau. Có thể chia làm 3 giai
đoạn chính: giai đoạn tăng trưởng, giai đoạn sinh sản và giai đoạn chín.
1.2.1 Giai đoạn tăng trưởng
Giai đoạn này bắt đầu từ khi hạt nảy mầm đến phân hóa đng (tượng mầm
hoa). Giai đoạn này dài hay ngắn là tùy theo giống lúa, các giống cao sản ngắn ngày
(có thời gian sinh trưởng dưới 100 ngày) thì giai đoạn này từ 45 - 50 ngày, nhưng
các giống lúa mùa dài ngày có khi giai đoạn này kéo dài 4 - 6 tháng. Đối với vùng
Đồng bằng sông Cửu Long, các giống lúa có thời gian sinh trưởng là 90 ngày thì
giai đoạn này chiếm khoảng 30 ngày.
Giai đoạn này cây phát triển về thân lá, chiều cao tăng dần và ra nhiều chồi
mới. Cây ra lá ngày càng nhiều và kích thước ngày càng lớn giúp cây lúa nhận được
nhiều ánh sáng mặt trời để quang hợp, hấp thụ dinh dưỡng, gia tăng chiều cao, nở
bụi và chuẩn bị cho các giai đoạn sau. Trong điều kiện đầy đủ chất dinh dưỡng, ánh
sáng và thời tiết thuận lợi, cây lúa có thể bắt đầu nở bụi khi có lá thứ 5-6 (Nguyễn

Ngọc Đệ, 2008).
Nhờ sự phát triển của rễ và lá diễn ra cùng lúc nên thúc đẩy sự phát triển mạnh
của thân chính và quá trình đẻ nhánh diễn ra đều đặn làm tăng dần số nhánh trên
một bụi lúa. Quá trình đẻ nhánh của cây lúa chỉ diễn ra trong một thời gian nhất
định được gọi là thời gian đẻ nhánh và thời gian này kết thúc khi cây lúa đạt được
số chồi tối đa trên một đơn vị diện tích. Mật độ gieo sạ thưa thì thời gian đẻ nhánh
dài hơn so với gieo sạ dày (Nguyễn Đình Giao và ctv., 1997).
1.2.2 Giai đoạn sinh sản
Giai đoạn sinh sản bắt đầu từ lúc phân hóa đng đến trổ bông, thời gian này
khoảng 30 ngày. Thời gian của giai đoạn sinh sản này có thể dao động từ 25 - 30
ngày tùy theo giống lúa (kể cả lúa mùa) và điều kiện canh tác. Sự khác biệt về
giống, thời vụ và kỹ thuật canh tác cũng sẽ làm thay đổi thời gian đẻ nhánh của cây
lúa.
Theo Nguyễn Ngọc Đệ (2008), lúc này số chồi vô hiệu giảm nhanh, chiều cao
tăng lên rõ rệt do sự vươn dài của 5 lóng trên cùng. Đng lúa phát triển qua nhiều
giai đoạn, cuối cùng thoát ra khỏi b của lá cờ: lúa trổ bông. Trong thời gian này




5

nếu đầy đủ chất dinh dưỡng, mực nước thích hợp, ánh sáng nhiều, không sâu bệnh
và thời tiết thuận lợi thì bông lúa sẽ hình thành nhiều hơn và vỏ trấu sẽ đạt kích
thước lớn nhất của giống, tạo điều kiện gia tăng trọng lượng hạt sau này.
Như vậy, trong giai đoạn này đặc trưng bởi sự phân hóa và hình thành đng
của cây lúa, quá trình này sẽ quyết định đến số hoa được phân hóa trên bông lúa nên
ảnh hưởng đến sự hình thành số hạt/bông, số hạt chắc/bông và tỷ lệ hạt chắc của cây
lúa (Nguyễn Trường Giang, 2010).
1.2.3 Giai đoạn chín

Giai đoạn chín bắt đầu từ lúc lúa trổ bông đến lúc thu hoạch, tương tự thời
gian của giai đoạn sinh sản cho hầu hết các giống lúa (kể cả lúa mùa) là khoảng 25-
30 ngày. Tuy nhiên, nếu đất ruộng có nhiều nước, thiếu lân, thừa đạm, trời mưa ẩm,
ít nắng trong giai đoạn này thì sẽ làm cho thời gian chín kéo dài hơn và ngược lại.
Trong giai đoạn này lá lúa sẽ già đi và sự phát triển to dần lên của hạt lúa, hạt
lúa tăng trưởng mạnh cả về khối lượng hạt tươi và khối lượng khô trong giai đoạn
này. Tuy nhiên, trước khi chín khối lượng khô tăng chậm, mà khối lượng tươi giảm
nhanh chóng do mất nước. Dựa vào sự thay đổi về hình dạng, màu sắc, chất dự trữ
và trọng lượng hạt mà quá trình chín của hạt lúa được chia thành các thời k chín
sữa, chín sáp, chín vàng và chín hoàn toàn (Nguyễn Ngọc Đệ, 2008).
+ Thời k chín sữa (ngậm sữa): Các chất dự trữ trong thân lá và các sản phẩm
quang hợp được chuyển vào trong hạt. Kích thước hạt gạo tăng dần làm đầy vỏ trấu.
Hạt gạo chứa một dịch lỏng màu trắng đục như sữa nên gọi là thời k ngậm sữa.
+ Thời k chín sáp: Hạt lúa mất nước, từ từ cô đặc lại, nhưng vỏ trấu vn còn
xanh.
+ Thời k chín vàng: Hạt tiếp tục mất nước, gạo cứng dần, vỏ trấu bắt đầu
chuyển sang màu vàng đặc thù của giống lúa.
+ Thời k chín hoàn toàn: Hạt gạo khô cứng lại. Thời điểm thu hoạch tốt nhất
là khi 80% hạt lúa ngã sang màu vỏ trấu đặc trưng của giống.
Như vậy, các giống lúa có thời gian sinh trưởng dài hay ngắn khác nhau chủ
yếu là do giai đoạn tăng trưởng dài hay ngắn. Hai giai đoạn đoạn sau (sinh sản và
chín) thì nhìn chung là tương đối ổn định, có thể thay đổi một ít do phụ thuộc đặc
tính giống lúa, đất đai, mùa vụ trồng, phân bón, chế độ chăm sóc,….





6


1.3 YÊU CẦU CỦA CÂY LÚA
1.3.1 Mt s yêu cu v đt canh tc
Ở nước ta, lúa được trồng trên nhiều loại đất khác nhau như: đất phn, đất
nhiễm mặn, đất ph sa, Nói chung, đất trồng lúa cần giàu dinh dưỡng, nhiều hữu
cơ, tơi xốp, thoáng khí, khả năng giữ nước, giữ phân tốt, tầng canh tác dày để bộ rễ
ăn sâu, bám chặt vào đất và huy động nhiều dinh dưỡng nuôi cây. Loại đất thịt hay
đất thịt pha sét, ít chua hoặc trung tính (pH = 5,5-7,5) là thích hợp đối với cây lúa.
Tuy nhiên, muốn trồng lúa đạt năng suất cao đất ruộng cần bằng phẳng và chủ động
nước. Trong thực tế, có những giống lúa có thể thích nghi được trong những điều
kiện đất đai khắc nghiệt (như: phèn, mặn, khô hạn, ngập úng) rất tốt.
1.3.2 Yêu cu sử dụng phân bón
Những nghiên cứu về nhu cầu dinh dưỡng của cây lúa cho thấy nếu cây lúa
thiếu bất kì một trong các chất có trong thành phần hóa học này cũng đều gây ảnh
hưởng đến sinh trưởng phát triển của cây lúa. Do đó, để phát triển, cây lúa cần
nhiều loại dưỡng chất như đạm, lân, kali, silic, canxi, magie, sắt, kẽm,
đồng, Trong đó ba loại dưỡng chất chính lúa cần dùng nhiều để sinh trưởng và tạo
năng suất là đạm, lân và kali. Bên cạnh đó các nguyên tố vi lượng khác như: silic,
mangan, sắt, canxi, cũng là các dưỡng chất cần thiết cho sinh trưởng và phát triển
của cây lúa. Vì vậy việc bón phân cho cây trồng nói chung và cho cây lúa nói riêng
là một yếu tố hết sức quan trọng có ảnh hưởng rất lớn đến năng suất. Bón đầy đủ
phân đa lượng N, P, K có thể đóng góp 40-45% năng suất.
+ Cht đạm (N): Đạm là nguyên tố dinh dưỡng quyết định năng suất cây
trồng, đạm trong từng loại đất phụ thuộc vào hàm lượng hữu cơ có trong đất, đất
giàu mùn thì có nhiều đạm (Đ Ánh, 2003). Đối với cây lúa đạm có ảnh hưởng rõ
rệt nhất, đạm có tác dụng mạnh trong thời gian đầu sinh trưởng của cây lúa, bón
thúc đạm sớm (vào giai đoạn đẻ nhánh) giúp cho quá trình phát triển diện tích lá,
hình thành diệp lục, cây lúa đẻ nhánh sớm, tập trung, nhánh hữu hiệu nhiều. Đạm
còn là thành phần quan trọng của các acid amin, acid nucleic, và là chất tạo hình của
cây lúa, làm cho lá xanh tốt, gia tăng chiều cao cây, số chồi, kích thước thân lá và
ảnh hưởng rất lớn đến năng suất.

Nhu cầu dinh dưỡng của cây lúa ở các giai đoạn sinh trưởng khác nhau là
không giống nhau. Việc bón phân đạm cho cây lúa nên chia ra làm nhiều lần bón
trong suốt thời kì sinh trưởng của cây, không nên bón tập trung. Lượng phân cần
bón phụ thuộc vào giá phân và hiệu quả gia tăng năng suất khi dùng phân (Võ Tòng
Xuân và ctv., 1998). Tuy nhiên, cây lúa hút đạm nhiều nhất vào hai thời kì: thời kì




7

đẻ nhánh và thời kì làm đng (Nguyễn Đình Giao và ctv., 1997). Lúa rất cần đạm để
sinh trưởng phát triển tuy nhiên việc bón phân phụ thuộc rất chặt chẽ vào điều kiện
đất đai, mùa vụ, dạng loại phân bón và kĩ thuật bón phân. Nếu bón thiếu đạm cây
lúa lùn hẳn lại, nở bụi kém, chồi nhỏ, lá ngắn hp, trở nên vàng và rụi sớm, cây lúa
còi cọc không phát triển, nhiều hạt lép dn đến năng suất thấp. Ngược lại, thừa đạm
sẽ làm cây lúa phát triển thân lá quá mức, mô non, mềm, dễ dn đến hiện tượng lốp
đổ, tán lá rậm rạp, sâu bệnh dễ phá hại làm hạn chế năng suất. Vì vậy, cần cung cấp
một lượng đạm thích hợp, theo giai đoạn sinh trưởng của cây là rất cần thiết.
+ Cht lân (P): Lân là nguyên tố dinh dưỡng có vai tr đặc biệt quan trọng
đối với cây trồng sau chất đạm. Đối với đất lân là một chỉ tiêu quan trọng của độ phì
đất, đất giàu lân mới có độ màu mỡ cao, giữa lân trong đất và năng suất cây trồng
có mối tương quan (Đ Ánh, 2003),…. Lân có tác dụng giải độc cho cây trồng, cần
thiết hầu hết cho các quá trình sinh lý, sinh hóa xảy ra trong cây (Nguyễn Ngọc Đệ,
2008). Trong một số trường hợp đất phèn và đất phèn mặn thì lân có vai trò kìm
hãm các độc tố giúp cho lúa sinh trưởng và phát triển. Lân là thành phần của ATP,
là nguồn năng lượng và bảo tồn vật chất, lân cần thiết cho hình thành acid nucleic
(ARN và ADN) và phospholipid. Lân thúc đẩy đẻ nhánh, trổ bông và tăng cường
chất lượng hạt, lân còn thúc đẩy quá trình chín của cây (Đ Ánh, 2003). Theo Tôn
Thất Trình (1968), lân được lúa hấp thu từ khi lúa bắt đầu đâm rễ cho đến khi có

gié, sau đó lúa ít sử dụng lân, như vậy lúa cần lân sớm và chỉ cần bón một lần mà
thôi. Cây lúa cần lân nhất trong giai đoạn đầu, nên cần bón lót trước khi gieo sạ, đối
với năng suất hạt, hiệu quả của phân lân trong các giai đoạn đầu cao hơn các giai
đoạn cuối. Thiếu lân cây lúa cũng lùn hẳn lại, nở bụi kém, lá thẳng hp và màu sậm
hơn bình thường hoặc ngã sang màu tím bầm, lúa sẽ trổ và chín muộn, hạt không no
đầy. Trong tự nhiên lân không ở dạng tự do mà thường ở dạng hợp chất oxide hóa
(P
2
O
5
). Các loại phân lân phổ biến là Super lân 15-18% P
2
O
5
, lân Văn Điển 8-10%
P
2
O
5
, DAP (18N-46P
2
O
5
-0K
2
O), NPK
+ Cht kali (K): Kali là nguyên tố dinh dưỡng quan trọng thứ ba đối với sự
sinh trưởng và phát triển của cây trồng sau đạm và lân. Kali là nguyên tố dinh
dưỡng thiết yếu đối với cây trồng, kali được hấp thu vào cây và tồn tại dưới dạng
ion K

+
(Nguyễn Ngọc Đệ, 2008). Cây cần kali trong suốt quá trình sinh trưởng,
nhưng hút mạnh nhất vào lúc đẻ rộ. Kali có tác dụng tăng cường và thúc đẩy quá
trình quang hợp, điều hòa sự vận chuyển chất dinh dưỡng trong cây. Tăng cường và
thúc đẩy quá trình tạo thành tinh bột, xenlulo, lyphin,… (Đinh Văn Lữ, 1978). Kali
giúp cho quá trình quang hợp tốt hơn đặc biệt là trong điều kiện thiếu ánh sáng,
nhiệt độ thấp, thời tiết âm u (Nguyễn Xuân Trường và ctv., 2000). Kali là dưỡng




8

chất ảnh hưởng đến năng suất lúa rất lớn. Trong giai đoạn lúa đẻ nhánh kali cân đối
với đạm sẽ làm tăng số gié trên bông từ đó làm tăng số hạt trên bông. Để đạt được
năng suất cao, trong giai đoạn đẻ nhánh hàm lượng kali phải cao hơn đạm. Cây lúa
hút kali mạnh nhất từ cuối giai đoạn đẻ nhánh đến tượng đng, cây lúa hút liên tục
đến giai đoạn chín. Kali cần thiết cho bộ rễ phát triển mạnh, năng suất cao, hạt lép ít
và trọng lượng hạt cao (Nguyễn Xuân Trường và ctv., 2000). Thiếu kali cây lúa có
chiều cao và số chồi gần như bình thường, lá vn xanh nhưng mềm rũ, yếu ớt, dễ đ
ngã, dễ nhiễm bệnh và lá già rụi sớm. Kali tập trung chủ yếu trong rơm rạ, chỉ
khoảng 6-20% ở trên bông. Phân kali phổ biến hiện nay là clorua kali (KCl) 60%
K
2
O, sulphate kali 48% K
2
O, NPK 16-16-8, NPK 20-20-15,
1.4 MT ĐỘ SẠ
Theo Đinh Văn Lữ (1978) cho rằng việc bố trí mật độ khoảng cách cấy hợp lý
dựa trên cơ sở đặc điểm của giống lúa về hình thái, khả năng đẻ nhánh và nguồn

cung cấp dinh dưỡng cho cây lúa với mục đích tạo điều kiện thuận lợi cho cây lúa
tận dụng được tối đa năng lượng ánh sáng mặt trời để quang hợp đảm bảo mối quan
hệ giữa cá thể và quần thể trong ruộng lúa.
1.4.1 Mật đ sạ cho lúa cao sản
Từ những năm đầu của thập niên 1980, các nước trồng lúa Châu Á sau khi
nhập nội, lai tạo và canh tác các giống lúa cao sản đã thay đổi phương thức cấy
bằng phương thức sạ, áp dụng mật độ sạ thưa chỉ từ 60-80 kg giống/ha như ở
Malaysia, Philippines (Hiraoka, 1996). Trường đại học Nông Nghiệp Kyushu ở
Nhật Bản đã kết luận mật độ sạ thích hợp cho năng suất cao nhất là 500 hạt/m
2
,
tương đương với 120 kg giống/ha (Wasano, 1987). Đối với vùng khí hậu ôn đới
như: Ý, Bắc Mỹ thì mật độ sạ từ 120-840 hạt/m
2
đều cho năng suất 9,8-10,6 tấn/ha
(Hill và ctv., 1990). Viện nghiên cứu lúa Đồng bằng sông Cửu Long đã thực hiện
nhiều thí nghiệm về điều chỉnh mật độ sạ, các kết quả cho thấy nếu ruộng lúa bằng
phẳng, quản lý nước tốt, khi gieo sạ với mật độ 75-125 kg giống/ha cho năng suất
tương đương hoặc cao hơn sạ với mật độ 200-250 kg giống/ha (Trịnh Quang
Khương, 2010). Mật độ sạ thích hợp tạo điều kiện cho cây lúa phát triển tốt, tận
dụng có hiệu quả các chất dinh dưỡng, nước và ánh sáng. Mật độ cây thích hợp còn
tạo nên sự tương tác hài hòa giữa các cá thể cây lúa và quần thể ruộng lúa để đạt
mục đích cuối cùng là cho năng suất cao (Hiraoka, 1996). Tuy nhiên, hầu hết nông
dân vn sạ ở mật độ cao hơn để trừ hao do chim, chuột và tăng khả năng cạnh tranh
giữa lúa và cỏ dại (Singh, 1990).




9


Ở Đồng bằng sông Cửu Long, những nghiên cứu về mật độ sạ, phương pháp
sạ đã khuyến cáo sạ ở mật độ 100 kg giống/ha cho năng suất tương đương hoặc cao
hơn sạ ở mật độ 200 kg giống/ha, sạ thưa có số bông ít hơn sạ dày, nhưng bông dài
và số hạt chắc trên bông nhiều. Nếu sạ hàng thì mật độ sạ 50, 75, 125 kg giống/ha
cho năng suất lúa không khác biệt nhau (Trịnh Quang Khương, 2010). Nguyễn
Ngọc Đệ và Phạm Thị Phấn (2004), cũng cho rằng sạ thưa có ưu thế hơn trong việc
tăng năng suất.
Cây lúa có khả năng tự điều chỉnh mật độ, khả năng này nằm trong phạm vi
nhất định phụ thuộc vào bản chất di truyền của giống, khả năng đẻ nhánh, chiều cao
và góc độ lá, độ màu mỡ của đất, điều kiện nước trong ruộng lúa và những điều kiện
sinh thái khí hậu khác, nhất là nhiệt độ và phân bón (Trịnh Quang Khương, 2010).
Do đó, với mật độ trồng thích hợp, quần thể lúa sẽ sử dụng tốt nước và dinh dưỡng
để tạo ra năng suất cao nhất, mật độ thích hợp còn hạn chế được quá trình đẻ nhánh
kéo dài, hạn chế nhánh vô hiệu, lãng phí chất dinh dưỡng. Tuy nhiên, tùy từng
giống lúa để chọn mật độ thích hợp nhằm mục đích tạo điều kiện thích hợp cho lúa
sinh trưởng phát triển.
1.4.2 nh hưởng của mật đ sạ đến sâu bệnh, sinh trưởng v năng sut lúa
1.4.2.1 Ảnh hưởng của mật độ sạ đến sâu bệnh
Hiện nay, lượng giống lúa cao sản ngắn ngày sạ lan được khuyến cáo là 150
kg giống/ha. Tuy nhiên, trong thực tế sản xuất người trồng lúa thường theo tập quán
sạ với mật độ cao, lượng giống gieo sạ từ 200-300 kg giống/ha (Nguyễn Văn Luật,
2001). Với lượng giống gieo sạ nhiều như thế thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự tiếp
nhận ánh sáng của từng cây lúa trong quần thể ruộng lúa, nhu cầu dinh dưỡng từ đất
trồng và tạo điều kiện vi khí hậu dưới tán lá thích hợp cho sâu bệnh phát triển. Các
nhà khoa học đã chứng minh được những yếu tố gây dịch bệnh tích cực nhất là khi
cây trồng phải sống trong quần thể chật hp thiếu ánh sáng cho các lá dưới, làm cho
cây lúa trở nên yếu ớt sâu bệnh dễ tấn công (Nguyễn Kim Chung và Nguyễn Ngọc
Đệ, 2005). Về khả năng chống chịu sâu bệnh đã có rất nhiều nghiên cứu của nhiều
tác giả và đều có chung nhận xét rằng gieo cấy với mật độ dày sẽ tạo môi trường

thích hợp cho sâu bệnh phát triển vì quần thể ruộng lúa không được thông thoáng,
các lá bị che khuất ln nhau nên bị chết lụi nhiều (Bi Huy Đáp, 1980).
Lúa gieo cấy dày với mật độ cao sẽ tạo nên bộ lá sum xuê là điều kiện thuận
lợi cho bướm sâu đục thân đẻ trứng (Nguyễn Văn Hunh, 1985). Sạ với mật độ cao
cây phát triển nhanh, che ánh sáng ở gốc cây còn có tác dụng ức chế cỏ dại, tuy vậy
không phải mật độ sạ dày là tốt (Đinh Văn Lữ, 1975). Do đó, năng suất lúa sẽ được




10

cải thiện và giữ ổn định khi làm cho sự phát sinh và gây hại của sâu bệnh ở ngưỡng
thấp bằng cách sử dụng lượng giống gieo sạ hợp lý, mật độ vừa phải sẽ rất có ý
nghĩa trong việc làm giảm sự phát triển của dịch hại.
1.4.2.2 Ảnh hưởng của mật độ sạ đến sinh trưởng và năng suất lúa
Mật độ là yếu tố chi phối chặt chẽ quá trình phát triển của cả quần thể, với khả
năng đẻ nhánh giúp cho quần thể ruộng lúa có khả năng điều tiết rất nhanh. Khả
năng này cn ty thuộc vào khả năng đâm chồi của giống và mật độ gieo sạ ban đầu
(Bi Huy Đáp, 1980). Dưới điều kiện quản l đồng ruộng tốt, mật độ sạ 100 kg
giống/ha được khuyến cáo để nhận năng suất lúa có chất lượng tốt, cũng như đáp
ứng đủ số bông/m
2
cho việc chín đồng bộ trong hệ thống canh tác lúa sạ ướt (Trần
Thị Ngọc Huân và ctv., 1999). Trong kỹ thuật này, cây lúa có sự phân bổ quần thể
ruộng lúa thích hợp nên đã tận dụng được năng lượng mặt trời cho quá trình quang
hợp tạo năng suất và làm giảm thiệt hại do tác động của ngoại cảnh (Nguyễn Văn
Luật, 2001). Mật độ trồng thích hợp, quần thể lúa sẽ sử dụng tốt nước và dinh
dưỡng để tạo ra năng suất cao nhất, mật độ sản xuất giống đảm bảo tạo ra 400-500
bông/m

2
, có nghĩa là 70-100 cây mạ/m
2
là tốt nhất.
Theo Nguyễn Văn Hoan (1995) thì ty từng giống lúa để chọn mật độ thích
hợp vì cần tính đến khoảng cách đủ rộng để làm hàng lúa thông thoáng, các bụi lúa
không chen nhau. Trong ruộng lúa với điều kiện ánh sáng vừa phải, mật độ cấy vừa
phải thì tất cả các lá có thể phát huy năng lực quang hợp tối đa, quần thể lúa sẽ sử
dụng tốt nước và dinh dưỡng cũng như tăng khả năng đẻ nhánh góp phần tăng năng
suất. Cn theo Đào Thế Tuấn (1984) để cải thiện một thành phần năng suất lại đưa
đến giảm thành phần năng suất khác, chẳng hạn như tăng số bông trên đơn vị diện
tích thì số hạt trên bông giảm. Theo tác giả, để cải thiện năng suất cây trồng thì dựa
vào mật độ cây trồng, diện tích lá, điều kiện đất đai để đạt năng suất cao nhất. Do
đó, để có cùng số bông trên đơn vị diện tích nên cấy ít tép nhiều bụi tốt hơn cấy ít
bụi nhiều tép. Không nên cấy quá nhiều tp vì khi đó cây lúa đẻ ra nhiều nhánh quá
nhỏ, yếu, tỷ lệ bông hữu hiệu thấp, số hạt/bông ít dn đến năng suất không đạt yêu
cầu (Nguyễn Văn Hoan, 1995). Nhìn chung, mật độ là cũng là một kỹ thuật làm
tăng quang hợp của cá thể và quần thể của ruộng lúa, do khả năng tiếp nhận ánh
sáng, tạo số lá và chỉ số diện tích lá thích hợp cho cá thể và quần thể ruộng lúa, ảnh
hưởng tới khả năng đẻ nhánh và số nhánh hữu hiệu/bụi,…tác động đáng kể đến
năng suất cuối cùng của lúa. Việc xác định mật độ sạ thích hợp cho từng giống,
từng vùng, từng mùa khác nhau sẽ có  nghĩa rất lớn trong việc nâng cao năng suất
lúa. Mật độ tốt nhất sẽ cho năng suất cao nhất, tăng hay giảm mật độ đều làm cho
năng suất giảm theo.




11


1.5 NĂNG SUẤT VÀ THÀNH PHẦN NĂNG SUẤT
Năng suất được hình thành và chịu ảnh hưởng trực tiếp của bốn yếu tố gọi là
bốn thành phần năng suất lúa. Đó là các yếu tố: số bông trên đơn vị diện tích, số
hạt/bông, tỉ lệ hạt chắc và trọng lượng 1000 hạt. Mi thành phần năng suất được
quyết định ở một giai đoạn nhất định của cây lúa. Các yếu tố năng suất có liên quan
với nhau.
1.5.1 S bông trên mét vuông
Theo Nguyễn Đình Giao và ctv., (1997), trong bốn yếu tố tạo thành năng suất
thì số bông/m
2
là yếu tố có tính quyết định sớm nhất. Nó có thể đóng góp 74% năng
suất, trong khi số hạt và trọng lượng hạt đóng góp 26% năng suất. Tuy nhiên, nó
còn chịu ảnh hưởng lớn của kỹ thuật canh tác và điều kiện ngoại cảnh (chế độ phân
bón, nước tưới, mật độ sạ hoặc cấy, nhiệt độ, ánh sáng v.v…). Ngoài ra, theo
Nguyễn Đình Giao và ctv., (1997) cho rằng thời gian quyết định số bông là thời k
đẻ nhánh. Hiện nay, một số giống lúa cải tiến có khả năng đẻ nhánh mạnh (20-25
nhánh/bụi) trong điều kiện đầy đủ dinh dưỡng, nhưng chỉ có khoảng một số (14-15
nhánh/bụi) cho bông hữu hiệu. Mật độ gieo sạ và khả năng nở bụi của cây lúa thay
đổi tùy theo từng giống lúa, điều kiện đất đai, chế độ nước, phân bón, tình hình thời
tiết, sâu bệnh và thời vụ gieo trồng.
Khi phân tích tương quan hệ số Path năng suất và thành phần năng suất cho
thấy số bông/m
2
gia tăng khi mật độ sạ gia tăng (Trần Thị Ngọc Huân và ctv.,
1999). Tuy nhiên, Yoshida (1981) lại cho rằng ở hệ thống sạ thẳng, số bông/m
2
lại
tùy thuộc nhiều vào lượng giống gieo sạ và phần trăm nảy mầm. Trong điều kiện
mật độ sạ cao làm tăng số bông/m
2

ở mức vừa phải, nếu tăng mật độ quá cao sẽ gây
hiện tượng lốp, đ, sâu bệnh dễ bộc phát và số hạt trên bông sẽ ít đi rõ rệt (Yoshida,
1981). Mật độ càng cao số bông trên một đơn vị diện tích sẽ tăng nhưng số hạt trên
bông và trọng lượng hạt sẽ giảm. Vì thế, nếu mật độ quá dày sẽ làm cho năng suất
giảm nghiêm trọng, đầu tư phân bón sẽ cao đồng thời dễ dn đến sâu bệnh trên
ruộng lúa. Vì vậy, để cho năng suất cao cây lúa cần có số bông/m
2
vừa phải, gia
tăng số hạt chắc/bông trên một đơn vị diện tích là biện pháp gia tăng năng suất tốt
hơn là gia tăng số bông/m
2
.
1.5.2 S hạt/bông
Đặc tính số hạt trên bông chịu tác động rất lớn của điều kiện môi trường, số
hạt trên bông nhiều hay ít tùy thuộc vào số gié hoa phân hóa và số gié hoa không
phân hóa. Số gi hoa trên đơn vị diện tích tăng nhiều do sự giàu CO
2
hoặc có thể do
sự tăng quang hợp trước trổ bông (Yoshida, 1981). Quang hợp là một chức năng




12

sinh lý quan trọng của cây trồng nói chung và cây lúa nói riêng. Nếu nồng độ CO
2

trong không khí càng cao, điều kiện sinh lý của cây đầy đủ, quang hợp càng mạnh
thì năng suất mới cao được. Lúa sạ có trung bình từ 80-100 hạt trên bông và 100-

120 hạt trên bông đối với lúa cấy là tốt trong điều kiện ở Đồng bằng sông Cửu Long
(Nguyễn Ngọc Đệ, 2008). Trên cùng một cây lúa, những bông chính thường có
nhiều hạt, những bông phụ phát triển sau nên ít hạt hơn. Tuy nhiên, các giống khác
nhau có sự khác nhau về số hạt trên đơn vị diện tích.
1.5.3 Phn trăm hạt chắc
Tỷ lệ hạt chắc được tính bằng phần trăm chắc trên tổng số hạt. Theo Nguyễn
Ngọc Đệ (2008) tỷ lệ hạt chắc được quyết định từ đầu thời k phân hóa đng đến
khi lúa vào chắc và đặc biệt quan trọng nhất là thời k phân bào giảm nhiễm, trổ
bông, phơi màu, thụ phấn, thụ tinh và vào chắc. Những điều kiện thời tiết không
thuận lợi như nhiệt độ thấp và cao vào giai đoạn phân bào giảm nhiễm và trổ gié
hoa có thể gây ra bất thụ (Yoshida, 1981). Tỷ lệ hạt chắc còn tùy thuộc số hoa trên
bông, đặc tính sinh lý của cây lúa, điều kiện ngoại cảnh và số hạt trên bông cũng
ảnh hưởng đến tỷ lệ hạt chắc trên bông. Muốn có năng suất cao thì tỷ lệ hạt chắc
phải đạt trên 80%, số hạt chắc/m
2
đóng góp vào năng suất lúa khoảng 75%. Do đó
số hạt chắc/bông là yếu tố quan trọng cần tác động làm gia tăng năng suất.
1.5.4 Khi lượng 1000 hạt
Khối lượng 1000 hạt cũng là một đặc tính quan trọng góp phần nâng cao năng
suất lúa. Ở phần lớn các giống lúa, trọng lượng 1000 hạt thường biến thiên trong
khoảng 20-30 g. Theo Nguyễn Ngọc Đệ (2008) trọng lượng hạt được quyết định từ
thời k phân hoá hoa đến khi lúa chín, nhưng quan trọng nhất là các thời k giảm
nhiễm tích cực và vào chắc rộ. Khối lượng hạt do hai yếu tố cấu thành, khối lượng
vỏ trấu chiếm 20% và khối lượng hạt gạo chiếm 80% (Nguyễn Đình Giao và ctv.,
1997). Tuy nhiên, theo Yoshida (1981), trọng lượng hạt là đặc tính của giống và
kích thước hạt bị kiểm soát chặt chẽ bởi kích thước của vỏ trấu. Hạt lúa không thể
phát triển lớn hơn vỏ trấu trong bất kì trường hợp nào dù ngoại cảnh thuận lợi và
đầy đủ dinh dưỡng. Vì vậy, việc chọn giống có trọng lượng 1000 hạt cao là điều rất
cần thiết (Lê Xuân Thái, 2003).





×