Tải bản đầy đủ (.pdf) (41 trang)

ảnh hưởng của liều lượng thuốc kháng sinh oxytetracyclin đến tăng trưởng, tỷ lệ sống và chất lượng của ấu trùng cua biển (scylla paramamosain)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (627.41 KB, 41 trang )



TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN






NGUYỄN THÀNH PHÚC






ẢNH HƢỞNG CỦA LIỀU LƢỢNG THUỐC KHÁNG SINH
OXYTETRACYCLIN ĐẾN TĂNG TRƢỞNG, TỶ LỆ SỐNG
VÀ CHẤT LƢỢNG CỦA ẤU TRÙNG CUA BIỂN
(Scylla paramamosain)




LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN














Cần thơ, 2013


TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN






NGUYỄN THÀNH PHÚC






ẢNH HƢỞNG CỦA LIỀU LƢỢNG THUỐC KHÁNG SINH
OXYTETRACYCLIN ĐẾN TĂNG TRƢỞNG, TỶ LỆ SỐNG
VÀ CHẤT LƢỢNG CỦA ẤU TRÙNG CUA BIỂN

(Scylla paramamosain)




LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN





CÁN BỘ HƢỚNG DẪN
Ts. CHÂU TÀI TẢO






Cần thơ, 2013

i
LỜI CẢM TẠ
Tôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc đến thầy Châu Tài Tảo đã định hƣớng,
hƣớng dẫn, giúp đỡ, động viên và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt
thời gian thực hiện đề tài và hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Xin gửi lời cảm ơn đến thầy cô bộ môn và các bạn lớp NTTS K36 đã đóng
góp ý kiến và giúp đỡ trong suốt quá trình làm luận văn này.
Sau cùng xin cảm ơn đến Khoa Thủy Sản và Bộ Môn Kỹ Thuật Nuội Hải Sản

đã hỗ trợ nguổn kinh phí để thực hiện đề tài.
Trân trọng cảm ơn!
Nguyễn Thành Phúc






















ii
TÓM TẮT
Nghiên cứu đƣợc thực hiện ở Khoa Thủy sản, Trƣờ ng Đạ i họ c Cầ n Thơ, nhằm
so sánh ảnh hƣởng của kháng sinh Oxytetracyclin với các liều lƣợng khác
nhau trong ƣơng ấu trùng cua biển (Scylla paramamosain), thí nghiệm bao

gồm 4 nghiệm thức và mỗi nghiệm thức với 3 lần lặp lại với nồng độ kháng
sinh lần lƣợt là 0ppm, 5ppm, 10ppm, 15ppm. Các nghiệm thức đƣợc chăm
sóc, thờ i gian cho ăn , thức ăn và liều lƣợng thức ăn giống nhau ở các giai
đoạn. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ biến thái chỉ có sự khác biệt có ý
nghĩa (p<0,05) giữa nghiệm thức 4 với nghiệm thức 2 ở ngày thứ 3 và giữa
nghiệm thức 4 với nghiệm thức 1 ở ngày thứ 6, ở ngày thứ 9 khác biệt không
có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Ở ngày thứ 12 nghiệm thức 3 và 4 khác biệt
không có ý nghĩa thống kê (p>0,05), tuy nhiên, nghiệm thức 1 và 2 đều khác
biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) với cả 3 nghiệm thức còn lại. Tỷ lệ sống giai
đoạn megalopa khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) ở 4 nghiệm
thức, ở giai đoạn cua con thì chỉ có khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05)
giữa nghiệm thức 1 và 3 nghiệm thức còn lại. Các bể ấu trùng khi ƣơng ở nồng
độ kháng sinh 5ppm, 10ppm và 15 ppm cho tỷ lệ sống cao, nhƣng ƣơng ở
nồng độ 5ppm để đạt tỷ lệ sống cao và tỷ lệ biến thái tốt nhất. Các yếu tố môi
trƣờng ít ảnh hƣởng đến ấu trùng cua trong quá trình thực hiện đề tài.


















iii
MỤC LỤC
Trang
LỜI CẢM TẠ i
TÓM TẮT ii
DANH SÁCH BẢNG v
DANH SÁCH HÌNH vi
CHƢƠNG 1: ĐẶT VẤN ĐỀ 1
1.1 Giới thiệu 1
1.2 Mục tiêu đề tài 1
1.3 Nội dung nghiên cứu 2
CHƢƠNG 2: LƢỢC KHẢO TÀI LIỆU 3
2.1 Đặc diểm sinh học của cua biển 3
2.1.1 Hình thái cấu tạo và phân loại 3
2.1.2 Phân bố 4
2.1.3 Vòng đời 4

2.1.4 Đặc điểm dinh dƣỡng 5
2.1.5 Đặc điểm sinh sản 5
2.1.6 Đặc điểm sinh trƣởng 6
2.1.7 Tập tính hoạt động và khả năng thích nghi với điều kiện môi trƣờng 6
2.2 Các nghiên cứu sản xuất giống và nuôi cua biển trong và ngoài nƣớc 7
2.2.1 Ấp và nở trứng 7
2.2.2 Nghiên cứu ảnh hƣởng của các yếu tố môi trƣờng 8
CHƢƠNG 3: VẬT LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 10
3.1 Thời gian và địa điểm nghiên cứu 10
3.2 vật liệu và thiết bị nghiên cứu 10
3.3 Bố trí thí nghiệm 10

3.4 Thả ấu trùng 11
3.5 Chăm sóc và quản lý 11
3.5.1 Cho ấu trùng ăn 11
3.5.2 Quản lý môi trƣờng bể ƣơng 11
3.6 Các chỉ tiêu theo dõi 12
3.7 Phƣơng pháp xử lý số liệu 13
CHƢƠNG 4: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 14

iv
4.1 Các yếu tố môi trƣờng trong thí nghiệm 14
4.2 Chỉ số biến thái của ấu trùng 15
4.3 Tăng trƣởng các giai đoạn 16
4.4 Tỷ lệ sống giai đoạn megalopa và cua con 17
CHƢƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 18
5.1 Kết luận 18
5.2 Đề xuất 18
TÀI LIỆU THAM KHẢO 19


v
DANH SÁCH BẢNG
Trang
Bảng 3.1 Phƣơng pháp xác định các chỉ tiêu môi trƣờng 12
Bảng 4.1 Các yếu tố môi trƣờng trong thí nghiệm 14
Bảng 4.2 Chỉ số biến thái của ấu trùng 15
Bảng 4.3 Sự tăng trƣởng các giai đoạn của từng nghiệm thức 16





























vi
DANH SÁCH HÌNH
Trang
Hình 2.1 Cua biển Scylla paramamosain 3
Hình 2.2 Vòng đời của cua biển Scylla sp .5
Hình 3.1 Bố trí thí nghiệm 10

Hình 4.1 Tỷ lệ sống cua và megalopa 17




























1

CHƢƠNG 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Giới thiệu
Cua biển (Scylla paramamosain) là một trong những đối tượng thủy sản khá
quen thuộc đối với người dân ở vùng ven biển và là nguồn thực phẩm ưa thích
của nhiều người. Ngoài ra, cua biển còn là đối tượng có tiềm năng xuất khẩu
lớn. Do đó, nghề nuôi cua biển hiện nay ở nước ta ngày càng phát triển mạnh,
đặc biệt là các tỉnh ven biển.
Cua biển có giá trị kinh tế quan trọng đối với nghề đánh bắt và nuôi ở vùng
Đông Dương. Chúng cũng góp phần làm tăng giá trị thủy sản trong vài quốc
gia như Philippines và Việt Nam (Johnston và Keenan, 1999). Do tăng trưởng
nhanh, có kích thước lớn và giá trị kinh tế cao cùng với việc dễ dàng bảo quản
sau khi thu hoạch nên cua biển được xem như đối tượng thay thế tôm ở vùng
ven biển khi cần thiết (Overton và Macintosh, 1997). Mặt khác, chúng được
tiêu thụ mạnh ở một số quốc gia trong khu vực Châu Á như Hong Kong, Nhật,
Đài Loan và Singapore đặc biệt là cua gạch (Keenan, 1999a). Ở thị trường
Hoa kỳ, cua ở dạng đông lạnh và cua lột tiêu thụ rất mạnh (Cholik, 1999;
Keenan, 1999a; Wickins và Lee, 2002). Nhưng sản lượng cua ngoài biển đang
giảm dần do khai thác quá mức (cho tiêu thụ trực tiếp và cho các nguồn cua
giống cho ao nuôi) và do diện tích rừng ngập mặn đã và đang bị thu hẹp đáng
kể cho các hoạt động nuôi tôm làm mất đi môi trường sinh sống tốt nhất cho
cua. Đặc biệt ở các tỉnh ĐBSCL, các mô hình nuôi kết hợp cua-tôm-rừng, cua-
tôm không ngừng phát triển. Do đó, nguồn cua giống được thu gom từ biển
không đáp ứng đủ nhu cầu cho người nuôi. Để đảm bảo nguồn giống cho ương
nuôi và giảm bớt áp lực khai thác cua ngoài biển, việc nghiên cứu sản xuất cua
biển nhân tạo phải được quan tâm và phát triển. Trong những năm gần đây,
Khoa Thủy Sản – Đại Học Cần Thơ đã có những biện pháp kỹ thuật cơ bản
sản xuất cua giống nhân tạo với tỷ lệ sống từ ấu trùng cua mới nở đến (zoea1)
cua vừa biến thái (cua con) đạt từ 10 đến 15 % trong hệ thống ương nước
trong, nước xanh, nước tuần hoàn có lọc sinh học nhưng kết quả chưa ổn định

(Trương Trọng Nghĩa và ctv., 2001b).
Một trong những yếu tố ảnh hưởng đến năng suất cua khi nhiễm bệnh là việc
sử dụng kháng sinh. Các nhà sản xuất giống đã áp dụng những kỹ thuật ương
nuôi tốt, các loại thuốc, hóa chất và kháng sinh luôn luôn đầy đủ. Tuy nhiên,
chỉ sử dụng chúng nếu biết cách dùng, liều dùng và sử dụng hợp lý để tránh
các trường hợp tác dụng phụ, mất tác dụng hoặc lờn thuốc, chính vì thế đề tài
“Ảnh hưởng của liều lượng thuốc kháng sinh Oxytetracyclin đến tăng trưởng,
tỷ lệ sống và chất lượng của ấu trùng cua biển (Scylla paramamosain” được
tiến hành.
Một trong những yếu tố ảnh hưởng đến năng suất cua khi nhiễm bệnh là việc
sử dụng kháng sinh. Các nhà sản xuất giống đã áp dụng những kỹ thuật ương
nuôi tốt, các loại thuốc, hóa chất và kháng sinh luôn luôn đầy đủ. Tuy nhiên,
chỉ sử dụng chúng nếu biết cách dùng, liều dùng và sử dụng hợp lý để tránh

2
các trường hợp tác dụng phụ, mất tác dụng hoặc lờn thuốc, chính vì thế đề tài
“Ảnh hưởng của liều lượng thuốc kháng sinh Oxytetracyclin đến tăng trưởng,
tỷ lệ sống và chất lượng của ấu trùng cua biển (Scylla paramamosain” được
tiến hành.
1.2 Mục tiêu đề tài
Đánh giá ảnh hưởng của kháng sinh Oxytetracyclin đến tăng trưởng, tỷ lệ sống
của ấu trùng cua biển nhằm đảm bảo con giống có chất lượng tốt và khuyến
cáo các trại sản xuất cua giống hiện nay.
1.3 Nội dung nghiên cứu
Ương ấu trùng cua biển với kháng sinh Oxytetracyclin ở các liều lượng khác
nhau.

























3






CHƢƠNG 2
LƢỢC KHẢO TÀI LIỆU
2.1 Đặc điểm sinh học của cua biển

2.1.1 Hình thái cấu tạo và phân loại
Theo De Haan (1883), giống Scylla là một phần của họ Portunid. Scylla sp.
Được coi như có nguồn gốc ở Tây Thái Bình Dương khoảng 1 triệu năm qua
(Gopurenko và et al., 1999). Bằng phương pháp điện li hình thái giải phẫu,
Keenan và et al. (1998) đã đi đền kết luận cua biển giống Scylla có 4 loài phân
biệt như sau: Scylla serrata (Forskal, 1775), Scylla paramamosain
(Estampador, 1949), Scylla olivacea (Herbst, 1796) và Scylla tranquebarica
(Fabricius, 1798). Cua biển thuộc lớp giáp xác, bộ mười chân ( Decapada), là
đối tượng hải sản có giá trị kinh tế cao và là mặt hàng xuất khẩu quan trọng
của nhiều nước.
Ở Việt Nam có 2 loài cua biển: loài có kích thước lớn hơn là cua xanh Scylla
paramamosain và loài có kích thước nhỏ hơn là cua lửa Scylla olivacea. Loài
cua xanh có giá trị kinh tế hơn, được ưa chuộng và phân bố rộng hơn nên hầu
hết các nghiên cứu liên quan đến cua biển thì người ta đều chọn loài Scylla
paramamosain. Theo đó, loài Scylla paramamosain được phân loại theo hệ
thống phân loại của Estampador (1949) như sau:








Hình 2.1 Cua biển Scylla paramamosain

Ngành: Arthropoda

4
Ngành phụ: Crustacea

Lớp: Malacostraca
Bộ: Decapoda
Họ: Portunidae
Giống: Scylla
Loài: Scylla paramamosain

2.1.2 Phân bố
Theo Keenan và et al. (1998), Gopurenko và et al. (1999), loài Scylla
paramamosain đã được phân bố khắp khu vực biển Thái Bình Dương và Ấn
Độ Dương, từ Nam Phi đến Biển Đỏ, từ Okinnawa đến Tahiti và xuống tận
miền Bắc nước Úc, Nhật Bản, Nam Trung Quốc: Xiamen, Hong Kong,
Singapore, Cambodia…; ở Trung Java: Indonesia và ở Việt Nam chủ yếu là
vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long. Ở Việt Nam, tại Đồng Bằng Sông Cửu
Long theo Keenan và et al. (1998) có 2 loài chủ yếu là Scylla paramamosain
(cua sen) và Scylla olivacea (cua lửa), trước đây bị nhầm lẫn là Scylla serrata
(Hoàng Đức Đạt, 1992; Nguyễn Anh Tuấn và ctv., 1996). Nhưng thực sự loài
Scylla serrata không được tìm thấy ở Đồng Bằng Sông Cửu Long, cũng như ở
Việt Nam. Theo Le Vay và et al. (2001), loài Scylla paramamosain chiếm trên
95% trong quần thể Scylla, và loài Scylla olivacea chỉ chiếm số còn lại.
2.1.3 Vòng đời

Ong (1964) lần đầu tiên mô tả các giai đoạn ấu trùng cua biển Scylla spp.
Theo Sivasubramaniam và Angell (1992), trứng cua nở thành ấu trùng zoea 1
mất 16-17 ngày ở nhiệt độ 23-25
o
C. Ấu trùng cua sau khi nở là zoea 1 trải qua
4 lần lột xác để biến thái thành zoea 5 trong thời gian 17-20 ngày, mỗi giai
đoạn mất 2-3 ngày. Từ zoea 5 biến thái thành Megalopa kéo dài trong khoảng
thời gian 8-11 ngày. Ấu trùng zoea có tính hướng quang và bơi ngược dòng.
Giai đoạn Megalopa chỉ lột xác một lần và mất 7-8 ngày để biến thành cua

con(cua con). Cua contrải qua 16-18 lần lột xác trước khi thành thục và ít nhất
khoảng 328-523 ngày. Trước mùa sinh sản, cua di cư ra vùng biển ven bờ lột
xác tiền giao vĩ rồi di cư ra biển, trong quá trình di cư, trứng sẽ phát triển và
chín dần. Cua ấp trứng trong khoang bụng, chỉ đến khi nở thành ấu trùng zoea
1 rồi tiếp tục lặp lại vòng đời. Nhìn chung, chu kỳ sống các loài cua biển theo
Heasman (1980) (được trích dẫn bởi Lee (1992) gồm 4 giai đoạn: giai đoạn ấu
trùng, giai đoạn cua con(chiều rộng mai 20-80 mm), giai đoạn tiền trưởng
thành (chiều rộng mai 70-150 mm) và giai đoạn trưởng thành (chiều rộng mai
150 mm trở lên). Đặc biệt, trong quá trình phát triển cùng với sự lột xác, cua
có khả năng tái sinh những phần đã mất của cơ thể.



5

Hình 2.2: Vòng đời của cua biển Scylla sp.
Eyespot eggs: trứng xuất hiện điểm mắt; Zoea: ấu trùng zoea; Megalopa: ấu
trùng megalope; Juvenile crabs: giai đoạn cua con; Adult crabs: giai đoạn
trưởng thành.
2.1.4 Đặc điểm dinh dƣỡng
Giai đoạn ấu trùng cua thích ăn các loại động vật phù du như copepoda,
moina. Tính ăn của cua thay đổi tùy theo giai đoạn biến thái nhưng phần lớn
chúng thường ăn tạp các loài động vật như: ấu trùng giáp xác, luân trùng,
Artemia, nhuyễn thể, giun, mực và ăn lẫn nhau. Riêng đặc tính ăn nhau có thể
từ lúc chúng có đôi càng ở giai đoạn Megalopa (Hill, 1984). Trong điều kiện
sản xuất giống nhân tạo, ấu trùng được cho ăn với nhiều loại thức ăn khác
nhau như luân trùng, Artemia và cả thức ăn viên có kích thước nhỏ. Nếu chỉ
cung cấp tảo mà không bổ sung thức ăn phù du thì ấu trùng zoea 1 không thể
chuyển sang giai đoạn zoea 2 (Brick, 1974). Mặc dù sự hiện diện của tảo trong
nước kéo dài tỉ lệ sống zoea 1 nhưng chúng không thể lột xác sang giai đoạn

zoea 2 nếu phiêu sinh động vật không được cung cấp làm thức ăn. Cua concó
kích thước 2-7 cm ăn chủ yếu là giáp xác, cua sắp trưởng thành (chiều rộng
mai – CW 7-13 cm) ăn nhiều loài 2 mảnh vỏ, trong khi đó cua lớn hơn thường
ăn cua convà cá. Trước đó Hill (1979) đã quan sát thấy rằng thành phần thức
ăn trong ống tiêu hóa của cua gồm 50% là nhuyễn thể, 21% là giáp xác và
29% các mảnh vụn hữu cơ, ít thấy cá có trong ống tiêu hóa của cua, tiền
trưởng thành và trưởng thành ăn cua nhỏ, cá, nhuyễn thể
Cua có tập tính trú ẩn vào ban ngày và kiếm ăn vào ban đêm. Nhu cầu thức ăn
của chúng khá lớn nhưng chúng có khả năng nhịn đói 10 – 15 ngày ở trên cạn
trong điều kiện ẩm ướt (Hill, 1976).
2.1.5 Đặc điểm sinh sản
Sự phát triển phôi và các giai đoạn ấu trùng: Trứng cua mới đẻ có đường kính
trung bình 0,3mm và có màu vàng tươi. Sự phát triển của trứng được phân biệt
theo màu sắc: từ vàng tươi sang vàng đậm, chuyển sang xám, cuối cùng
chuyển sang đen, lúc này là lúc xuất hiện mầm chân và mắt, sau đó tim bắt
đầu đập và các cơ uan khác cũng bắt đầu hình thành, khi tim đập khoảng 200-

6
240 lần/phút phôi sẽ phá vỡ vỏ và chui ra ngoài, đây là ấu trùng zoea. Khoảng
thời gian từ lúc cua cái đẻ cho đến lúc nở ra ấu trùng zoea là 17 ngày (Trương
Trọng Nghĩa, 2004). Theo Hoàng Đức Đạt (2004), ấu trùng zoea mới nở ra là
zoea 1, ấu trùng sẽ bơi lội được ngay do có đôi mắt kép và sắc tố đen. Ấu
trùng zoea hầu hết phải trãi qua 5 giai đoạn: từ zoea 1 đến zoea 4, mỗi giai
đoạn 2-3 ngày, riêng giai đoạn zoea 5 từ 3-4 ngày. Ấu trùng có tính hướng
quang và bơi lội ngược dòng, chúng sống phù du, hoạt động nhờ chân hàm 1
và sự co giãn phần bụng. Sau giai đoạn zoea 5, ấu trùng lột xác biến thái thành
giai đoạn Megalopa. Khi chuyển sang megalope ấu trùng có khuynh hướng
chuyển sang sống bám vào vật thể, do đó ở giai đoạn này nền đáy đối với
chúng là rất quan trọng vì chúng hoạt động tích cực và ăn tạp. Từ giai đoạn
này chúng mất 7-11 ngày để biến thái thành cua con(cua con).

2.1.6 Đặc điểm sinh trƣởng
Sau khi tích lũy các yếu tố dinh dưỡng cần thiết, cua tiến hành lột xác để tăng
trưởng. Quá trình phát triển của cua biển trãi qua nhiều lần lột xác và biến thái
để lớn lên. Thời gian các lần lột xác thay đổi theo từng giai đoạn. Giai đoạn ấu
trùng có thể lột xác từ 2 – 5 ngày/lần. Cua lớn có thể lột xác chậm hơn 15 – 30
ngày/lần. Trong giai đoạn đầu lột xác chúng thường tìm nơi kín đáo để ẩn nấp
như bụi rậm hay bịt kín hang lại để tránh kẻ thù. Cua biển là loài tăng trưởng
không liên tục, sau khi lột xác gia tăng đột ngột về kích thước và khối lượng.
Khi nuôi chung cua đực và cua cái thì cua đực tăng trưởng tốt hơn cua cái
(Trĩno và et al., 1999). Tuổi thọ trung bình của cua từ 2 – 4 năm, qua mỗi lần
lột xác trọng lượng của cua tăng trung bình 20 – 50%. Kích thước (CW) tối đa
của cua biển có thể đạt được từ 19 – 28cm với khối lượng từ 1 – 1,3kg/con
(Nguyễn Cơ Thạch, 1998).
2.1.7 Tập tính hoạt động và khả năng thích nghi với điều kiện môi trƣờng
Môi trƣờng và tập tính sống:
Vòng đời cua biển trải qua nhiều giai đoạn, ở mỗi giai đoạn đều có tập tính
sống và cư trú khác nhau:
Giai đoạn ấu trùng zoea và Megalopa: theo Warner (1997) ấu trùng sống trôi
nổi và nhờ dòng nước đưa vào ven bờ, sau đó biến thái thành cua con.
Giai đoạn cua con, cua tiền trưởng thành và cua trưởng thành: theo
Sivasubramaniam và Angell (1992) trong chu kỳ sống, chúng sống trong vùng
rừng nước mặn, cửa sông, nơi có đáy bùn hoặc đất thịt, sống vùi trong bùn vào
ban ngày và di chuyển đến vùng triều thấp vào ban đêm để kiếm ăn.
Giai đoạn thành thục: lúc này cua có tập tính di cư ra vùng nước mặn ven biển
để sinh sản.
Nhìn chung, ấu trùng zoea thích hợp với độ mặn từ 25-30g/L. Giai đoạn cua
convà cua trưởng thành phát triển tốt trong phạm vi 2-38g/L. Tuy nhiên trong
giai đoạn đẻ trứng, độ mặn cần được duy trì ở 22-32g/L. Theo báo cáo của
Hyland (1984), cua phân bố trong tự nhiên có liên quan đến dòng chảy với vận
tốc 0,06-1,6 m/s.


7
Địch hại của cua: Theo Warner (1997), được trích dẫn bởi Hoàng Đức Đạt
(2004), trong tự nhiên tỉ lệ tử vong của cua rất cao và xảy ra trong suốt chu kỳ
sống, nguyên nhân là do tập tính ăn lẫn nhau. Giá thể là yếu tố quan trọng, có
thể làm giảm đáng kể tỉ lệ sống của quần đàn, nhất là trong điều kiện ương
nuôi. Ngoài ra, còn có rất nhiều loại địch hại khác gây hại đến cua, tùy mỗi
giai đoạn cua sẽ có từng loại địch hại khác nhau bao gồm nhiều loại động vật
sống trong nước, trên cạn như các loài cá dữ, chim ăn thịt, chuột, rắn,…
2.2 Các nghiên cứu sản xuất giống và nuôi cua biển trong và ngoài nƣớc
2.2.1 Ấp và nở trứng
Sau khi đẻ trứng, cua cái ôm trứng được chuyển sang bể thủy tinh đáy bằng có
thể tích là 60 L, bể nhựa 100L hoặc bể composite từ 300 – 500 L (Hamasaki,
2002; Mann và et al., 1999a) hay bể 1000L (Williams và et al., 1998).
Nước trong bể ấp thường được khử trùng bằng tia cực tím hoặc có thể thay
nước hoặc dùng hệ thống lọc sinh học trong suốt quá trình ấp trứng (Mann và
et al., 1999a; Williams và et al., 1998). Chất lượng nước phải được duy trì
nhằm ngăn ngừa sự ô nhiễm trứng, cua cái không được ăn trong suốt quá trình
ấp, oxy được cung cấp đầy đủ vệ sinh bể ấp hằng ngày (Baylon và Failaman,
2001; Hamasaki, 2002; Mann và et al., 1999a; Trương Trọng Nghĩa, 2004).
Trong quá trình ấp trứng, cua cái thường thải trứng (Dat, 1999b). Trứng có thể
bị nhiễm nhiều loại kí sinh trùng và nấm nếu như chất lượng nước ấp xấu đi
(Churchill, 2003; Hamasaki và Hâti, 1993). Cua mang trứng có thể được dùng
formaline hoặc malachite green để tắm phòng ngừa hoặc có thể dùng để trị
nếu như trứng bị nhiễm. Nếu sử dụng formaline nồng độ 25 mg/L tắm trứng
mỗi ngày thì gây độc cho trứng mặc dù trứng có thể chịu ở nồng độ formaline
từ 50 – 150 mg/L (Kaja và et al., 1991; Churchill, 2003). Cũng như Hamasaki
và Hâti (1993) sử dụng formaline 25 mg/L để tắm cua ôm trứng, kết quả cho
thấy đã gây độc cho trứng một ngày sau khi đẻ và độc với cả cua cái nếu giữ
cua một thời gian lâu hơn. Vì vậy ông đề nghị xử lý nấm bằng formaline ở các

giai đoạn ấu trùng tốt hơn ở giai đoạn cua mang trứng. Tuy nhiên, theo
Trương Trọng Nghĩa (2004) cho rằng sau khi đẻ, cua được tắm bằng formaline
100mg/L trong 1 giờ và chuyển sang bể ấp 70L kết nối với hệ thống lọc sinh
học thì an toàn và hiệu quả để ngừa nấm và kí sinh trùng. Hàng ngày thường
vệ sinh bể ấp, loại bỏ các trứng thải và sử dụng formaline 50mg/L để tắm cua
nhằm ngăn ngừa trứng nhiễm nguyên sinh động vật và vi khuẩn. Có thể sử
dụng Treflan 0,05 – 0,1 mg/L hoặc formaline 25 mg/L cho vào nước bể ấp
nhằm giảm kí sinh trùng và vi khuẩn gây nhiễm trứng (Kaji và et al., 1991;
Quinito và et al., 2001).
Trước khi nở 1 – 2 ngày, cua được chuyển sang bể 500L. Tùy thuộc vào điều
kiện môi trường nước, đặc biệt là nhiệt độ mà thời gian ấp trứng sẽ khác nhau.
Nhiệt độ thích hợp cho sự phát triển phôi trên là 26
o
C. Theo Marichamy và
Rajapackiam (1992), ở nhiệt độ 23 – 25
o
C độ mặn 34 – 35 g/L thì thời gian ấp
trứng từ 7-10 ngày. Tuy nhiên, theo Cowan (1984), ở nhiệt độ 23-25
o
C thì thời
gian ấp trứng từ 16-17 ngày, trứng thường nở từ 4-5 giờ sáng và tỉ lệ nở đạt
trên 90%.

8
2.2.2 Nghiên cứu ảnh hƣởng của các yếu tố môi trƣờng
Nhiệt độ và độ mặn: Trong giai đoạn ương ấu trùng cua, vấn đề quản lý môi
trường ương là rất cần thiết, đặc biệt là nhiệt độ và độ mặn là 2 yếu tố quan
trọng cần phải xác định khi bắt đầu ương nuôi để phù hợp cho từng loài và
từng giai đoạn phát triển của chúng.
Nhiệt độ: Theo thí nghiệm của marichamy (1991) ở nhiệt độ 22-24

o
C ấu trùng
chết nhiều sau 18 ngày nuôi và lột xác đến giai đoạn zoea 4. Chen và jeng
(1980) nhận thấy nhiệt độ càng cao thì thời gian lột xác biến thái càng nhanh.
Woemhoudt và Humbert (1994) cùng cho rằng quá trình lột xác của giáp xác
chịu ảnh hưởng của yếu tố bên trong và bên ngoài. Khi tăng nhiệt độ đến mức
thích hợp sẻ làm tăng tầng xuất lột xác. Nhiệt độ không những ảnh hưởng đến
tỷ lệ sống mà còn ảnh hưởng rất lớn đến giai đoạn phát triển của ấu trùng. Ở
nhiệt độ 25-27
o
C giai đoạn ấu trùng cua có thể kéo dài 28-35 ngày, trong khi
đó chỉ mất 26 – 30 ngày ở nhiệt độ 28-30
o
C. Trong thí nghiệm cùa Marichamy
và Rajapackiam (2001) thời gian ương từ zoea 1-4 là 13 ngày ở nhiệt độ 28,5-
31
o
C. Trong khi đó nhiệt độ 22-24
o
C là 17 ngày. Điều này ành hưởng rất lớn
đến kinh tế trại ương.
Độ mặn: Nghiên cứu ảnh hưởng của độ mặn lên sinh trưởng và tỷ lệ sống của
cua giống (Scylla paramamosain) được thực hiện bởi Vũ Ngọc Út (2006). Tác
giả kết luận rằng cua giống (Scylla paramamosain) tăng trưởng và phát triển
kém ở độ mặn 5g/L, tỷ lẽ chết sẽ tăng dần nếu kéo dài thời gian duy trì cua
trong độ mặn này. Trong khi đó cua tăng trưởng tốt hơn với số lần lột xác
nhiều hơn, thời gian lột xác ngắn hơn và tỷ lệ sống cao hơn ở độ mặn từ 15-
25g/L. Nguyển Cơ Thạch (1998) đã nghiên cứu độ mặn đến sự phát triển của
giai đoạn phôi và ấu trùng cua (Scylla paramamosain). Qua thí nghiệm tác giả
đã khẳng định ở độ mặn từ 15-25g/L không phù hợp cho quá trình phát triển

phôi, độ mặn thích hợp cho quá trình phát triển phôi từ 30-35g/L và gia đoạn
ấu trùng zoea là 30g/L. Hai (1997) cho rằng, độ mặn thích hợp cho quá trình
tăng trưởng, lột xác và tỷ lệ sống cua con(cua 1-8) loài (Scylla paramamosain)
là khoảng 28-30 g/L. Ở độ mặn 6-12g/L thường xuất hiện bẫy lột xác và ăn lẫn
nhau vì quá trình lột xác không đồng đều. Độ mặn 0g/L cua vẫn chịu đựng
được trong vòng 2 ngày sau đó sẽ chết. Churchill (2003) cho rằng, giai đoạn từ
zoea 1 – zoea 4 của giống Scylla thường được ương ở mật độ từ 30-35g/L.
Tuy nhiên, độ mặn được dùng để ương ấu trùng khác nhau ở từng loài
(Djunaidah và et al., 1998; Mann và et al., 2001; Quinitio va et al., 2001) như
ở S. tranqueberica được ương ở độ mặn là 25g/L. Khoảng độ mặn thích cho ấu
trùng từ zoea 1 – zoea 3 là 27-35g/L và từ giai đoạn zoea 4 đến Megalopa là
23-31g/L , độ mặn thích hợp nhất cho sự phát triển suốt thời kỳ ấu trùng
khoảng 27g/L (Wang và et al., 1997). Zhongli và et al.(2001) cho rằng độ mặn
duới 10g/L thì sự biến thái của ấu trùng cua biển S. serrata kéo dài và tỷ lệ
sống thấp. Khi thử nghiệm cua Callinectes ở độ mặn 5g/L. Guerin và Stickle
(1997) nhận thấy tăng trưởng của cua chậm đi đáng kể. Anger (1966) củng
nhận thấy sự phát triển kéo dài và sự hao hụt của cua rừng Armases miersii
sống ở độ mặn 5g/L.

9
Ánh sáng: Ngoài hai yếu tố nhiệt độ và độ mặn củng là yếu tố quan trọng ảnh
hưởng đến quá trình biến thái của ấu trùng. Ảnh hưởng của cường độ ánh sáng
đến sự phát triển của ấu trùng cua với nghiệm thức che tối hoàn toàn và dưới
mái nhựa trong suốt, ấu trùng được ương trong môi trường nước xanh và cho
ăn luân trùng được nghiên cứu bởi Trần Ngọc Hải (1997). Tác giả kết luận
rằng, dưới điều kiện cường độ ánh sáng 4.500-6.000 lux (dưới mái che trong
suốt) thời gian chiếu sáng là 12h trong ngày cho kết quả biến thái và tỷ lệ sống
của ấu trùng cao nhất. Theo Cowan (1984) trong trường hợp cường độ ánh
sáng được sử dụng cao đến 250.000 lux vào giữa mùa hè, kết quả là sự gia
tăng mạnh pH và oxy. Ấu trùng ở giai đoạn zoea1, zoea2 hướng quang rất

mạnh, ấu trùng thường ăn nhau đặc biệt ở giai đoạn phát triển sau từ zoea 3 –
megalopa và cường độ ánh sáng thích hợp cho ương ấu trùng từ 1.800-4.000
(Mann va et al., 2001). Tỷ lệ sống và tăng trưởng sau giai đoạn zoea 3 bị ảnh
hưởng nếu như cường độ ánh sáng dưới 50 lux(Takeuchi và et al., 2000;
Williams và et al., 1998). Tuy nhiên, trong ương ấu trùng có thể không cần
ánh sáng trong một thời gian nhưng không ảnh hưởng đến tỷ lệ sống của ấu
trùng (Djunaidah và et al., 1998). Không có ánh sáng trong khoảng 12-18h ấu
trùng không bị ảnh hưởng (Trương Trọng Nghĩa và ctv., 2001b).





















10

CHƢƠNG 3
VẬT LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Thời gian và địa điểm nghiên cứu
 Thời gian thực hiện đề tài: từ tháng 9-11/2013
 Địa điểm thực hiện: tại Khoa Thủy Sản, Trường Đại Học Cần Thơ
3.2 Vật liệu và thiết bị nghiên cứu
- Hệ thống bể thí nghiệm bằng nhựa với các thể tích 120 lít/bể.
- Các dụng cụ phòng thí nghiệm cần thiết như máy đo pH, máy đo độ mặn,…
- Hóa chất, thuốc và thức ăn:
+ Hóa chất xử lí môi trường: Formol, KMnO
4

+ Kháng sinh sử dụng: Oxytetracylin, kháng sinh ở dạng bột, bổ sung bằng
cách khuấy vào ca rồi cho vào bể thí nghiệm.
+Thức ăn và thuốc phòng trị bệnh để ương ấu trùng gồm có tảo tươi,
artemia,…
Nguồn nƣớc thí nghiệm
Nước ngọt được lấy từ nguồn nước máy thành phố và nước ót 70-80‰ lấy từ
ruộng muối ở Vĩnh Châu. Nước dùng trong thí nghiệm có độ mặn 30‰ được
pha từ 2 nguồn nước nói trên. Nước sau khi pha được xử lý bằng chlorine
30mg/lít và sục khí mạnh đến khi hết chlorine trong nước, sau đó lọc nước qua
bể lọc cơ học trước khi sử dụng
Nguồn cua bố mẹ : Mua cua mẹ mang trứng ở tỉnh Cà Mau, nuôi trong nước
có độ mặn 30‰, thức ăn cho ăn là sò huyết, trước khi cua đẻ thì bổ sung cát
vào bể. Khi cua nở thì tắt sục khí và vớt ấu trùng cho vào thí nghiệm.
3.3 Bố trí thí nghiệm

Hình 3.1: Bố trí thí nghiệm
Hệ thống thí nghiệm gồm 12 bể ương, có thể tích 120 lít/bể. Ấu trùng được bố
trí vào bể với mật độ 100 con/lít.


11
Thí nghiệm một nhân tố gồm 4 nghiệm thức được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên
với 3 lần lặp lại .
 Nghiệm thức 1: Không sử dụng thuốc kháng sinh.
 Nghiệm thức 2: Sử dụng kháng sinh Oxytetracyclin với liều lượng
5ppm.
 Nghiệm thức 3: Sử dụng kháng sinh Oxytetracyclin với liều lượng
10ppm.
 Nghiệm thức 4: Sử dụng kháng sinh Oxytetracyclin với liều lượng
15ppm.
3.4

Thả ấu trùng
Trước khi thả ấu trùng thì chuẩn bị nước có độ mặn 30‰ cho vào 12 bể, mỗi
bể 120 lít. Số ấu trùng thả vào bể ương được xác định bằng phương pháp định
lượng.
-Để thả lượng ấu trùng vào trong bể ương có thể tính theo công thức sau đây:
V
1
= (D
2
x V
2
)/ D
1

Trong đó :
V
1

: thể tích nước cần lấy từ xô chứa ấu trùng (l).
D
1
: mật độ ấu trùng trong xô chứa (con/l).
V
2
: thể tích nước trong bể ương (l).
D
2
: mật độ ấu trùng cần bố trí trong bể ương (con/l).
3.5 Chăm sóc và quản lý
3.5.1 Cho ấu trùng ăn
Từ giai đoạn zoea1 đến hết zoea2 cho ăn toàn bộ là artemia Mỹ bung dù ở
những khoảng thời gian là 3h, 9h, 15h, 21h với liều lượng là 2ml/12 bể/lần.
Cho ăn bằng cách cho artemia vào ca 2 lít, chia đều cho 12 bể.
Từ giai đoạn zoea3 đến zoea4 cho ăn artemia nở 5ml/12 bể/lần như bình
thường nhưng vào các khoảng thời gian xen kẽ là 6h, 12h, 18h, 24h cho ăn
kèm với Frippak 150 với liều lượng 0,3g/12 bể/lần.
Từ zoea4 thì thay thế Frippak 150 bằng Lansy PL liều lượng 0,5g/12 bể/lần,
thời gian như cũ.
Đến giai đoạn Megalopa thay thế hoàn toàn artemia bằng Lansy PL, cho ăn 8
lần trong ngày với liều lượng 0,5g/12 bể/lần.
Giai đoạn cua con, do số lượng cua chết nhiều nên thức ăn giảm còn 0,2g/12
bể/lần.
3.5.2 Quản lý môi trƣờng bể ƣơng
Trung bình khoảng 3 ngày cua sẽ lột xác và chuyển giai đoạn 1 lần nên 3 ngày
sẽ thay nước 1 lần, thay nước bằng cách si-phong, mỗi lần thay nước khoảng

12
30% thể tích bể ương. Mỗi lần thay nước bổ sung kháng sinh Oxytetracyclin,

nghiệm thức 2 bổ sung 0,5g, nghiệm thức 3 bổ sung 1g và nghiệm thức 4 là
1,5g. Bổ sung bằng cách hòa tan với nước 30‰ rồi cho vào bể. Bổ sung thêm
formol 5ml/12 bể. Do khó có thể tính được lượng nước được rút ra và lượng
kháng sinh hao hụt do mất tác dụng nên mỗi lần thay nước đều bổ sung kháng
sinh Oxytetracyclin bằng với lượng ban đầu.
3.6 Các chỉ tiêu theo dõi
Các chỉ tiêu thủy lý hóa
- Nhiệt độ và pH được xác định 2 lần/ngày sáng (8 giờ); chiều (14 giờ).
- Các chỉ tiêu TAN, N-NO
2
-
, được đo định kỳ 4 ngày/lần.
Bảng 3.1 Phương pháp xác định các chỉ tiêu môi trường
Chỉ tiêu Phƣơng pháp phân tích
Nhiệt độ Đọc số liệu trực tiếp bằng nhiệt kế, đo trực tiếp
tại bể bố trí thí nghiệm
pH Xác định bằng máy đo pH
TAN Bộ test môi trường
N-NO
2
-
Bộ test môi trường
Theo dõi chỉ số biến thái của ấu trùng
Cách tính Chỉ số biến thái của ấu trùng (LSI) : 3 ngày quan sát 1 lần, mỗi lần
quan sát 30 ấu trùng/bể ở cả 12 bể. Nếu trong bể có ấu trùng chuyển giai đoạn
nhiều thì chỉ số biến thái sẽ cao.
(n
1
x S
1

+ n
2
x S
2
+… n
i
x S
i
)
LSI =
n
1
+ n
2
+ … n
i

(S
i
= giai đoạn ấu trùng i ; n
i
= số lượng ấu trùng giai đoạn i)
Tăng trƣởng từng giai đoạn
Theo dõi chiều dài của từng ấu trùng ở các giai đoạn zoea1, 5, Megalopa, và
cua con, mỗi lần đo khoảng 30con/bể.
Tỉ lệ sống
Xác định tỉ lệ sống theo công thức

Tỷ lệ sống(%)=



x 100%
Tổng số ấu trùng ban đầu
Số lượng cua con

13
3.7 Phƣơng pháp xử lý số liệu
Các số liệu thu thập được tính toán giá trị trung bình, độ lệch chuẩn, phần
trăm, so sánh khác biệt giữa các nghiệm thức bằng phương pháp ANOVA sử
dụng phần mềm Excel của Office 2003 và SPSS phiên bản 13.0.

14
CHƢƠNG 4:
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1 Các yếu tố môi trƣờng trong thí nghiệm
Sự biến động của các yếu tố môi trường ở các nghiệm thức được trình bày
trong Bảng 4.1. Nhìn chung các yếu tố nằm trong phạm vi thích hợp. Nhiệt độ
buổi sáng và buổi chiều của các nghiệm thức dao động trong khoảng 28-29
0
C,
không chênh lệch nhiều giữa các nghiệm thức cũng giống như pH sáng và
chiều chỉ dao động trong khoảng 7,6-7,8. Trong khi đó TAN của hai nghiệm
thức 5ppm và 10ppm cao hơn so với hai nghiệm thức còn lại. Nitrite của các
nghiệm thức dao động trong khoảng 0,71-2,01 và giảm dần từ nồng độ kháng
sinh thấp đến nồng độ kháng sinh cao. Tuy nhiên nồng độ TAN và Nitrite còn
thấp.
Bảng 4.1 Các yếu tố môi trường trong thí nghiệm
NT
Nhiệt độ
sáng (

0
C)
Nhiệt độ
chiều (
0
C)
pH sáng
pH chiều
TAN
(mg/L)
Nitrite
(mg/L)
NT1
(0ppm)
27,90±0,67
29,24±1,22
7,82±0,56
7,58±0,49
0,39±0,22
2,01±2,08
NT2
(5ppm)
27,88±0,60
29,18±1,22
7,81±0,57
7,58±0,51
0,88±1,39
1,81±2,25
NT3
(10ppm)

27,94±0,60
29,23±1,21
7,80±0,58
7,59±0,50
0,84±1,07
0,71±0,83
NT4
(15ppm)
27,93±0,60
29,19±1,19
7,80±0,59
7,58±0,51
0,38±0,29
0,71±1,00
Chú thích: NT: Nghiệm thức, NT1: Nghiệm thức 1, NT2: Nghiệm thức 2,
NT3: Nghiệm thức 3, NT4: Nghiệm thức 4.
Theo Trần Ngọc Hải và Trương Trọng Nghĩa (2004) khi ương ấu trùng cua
biển trong mô hình nước xanh ở nhiệt độ trung bình 27
0
C vào buổi sáng và
31
0
C vào buổi chiều, ấu trùng phát triển bình thường. Theo Baylon (2009)
nhiệt độ 28–30
0
C ấu trùng phát triển và đạt tỷ lệ sống cao đến giai đoạn
megalopa. Như vậy, kết quả các yếu tố môi trường của thí nghiệm cho ta thấy
các yếu tố môi trường như nhiệt độ và pH đều thuận lợi cho quá trình ương
nuôi ấu trùng.
Theo Neil (2005), LC50 của ấu trùng Zoea 1 sau 24 giờ là 4,05 mg/L NH

3
,
trong khi đó LC50 24 giờ ở Zoea 5 là 6,64 mg/L NH
3
. Giai đoạn megalopa có
LC50 thấp nhất tại thời điểm 24 và 48 giờ. Khả năng chịu đựng cao nhất là
6,54 mg/L NH
3
(100% ấu trùng bị chết sau 24 giờ). Các nồng độ gây độc cấp
tính và mãn tính của TAN đối với ấu trùng cua biển trong thí nghiệm cao hơn
rất nhiều đối với mức tiêu chuẩn (1 mg/L TAN) (Trương Trọng Nghĩa, 2004).

15
Một số nghiên cứu ở Việt Nam, ấu trùng cua biển vẫn sống khi nồng độ NH
3
-
N là 5 mg/L trong hệ thống ương tuần hoàn (Trương Trọng Nghĩa, 2004).
Theo Seneriches-Abiera (2007), độ mặn trong phạm vi 25‰, 30‰ và 35‰
không làm thay đổi độc tính của nitrite. Nồng độ nitrite –N là 160 mg/L sau 24
giờ ấu trùng cua biển loài Scylla serrata đều bắt đầu lắng đáy và chết. Giá trị
LC50 nitrite – N sau 24 giờ ở Zoea1 là 189,61 mg/L, Zoea2 là 194,4 mg/L,
Zoea3 là 718,29 mg/L, Zoea 4 là 2120,4 mg/L, Zoea5 là 2869,21 mg/L, LC50
của nitrite sau 96 giờ của tất cả các giai đoạn Zoea là 80 mg/L.
Nồng độ TAN và nitrite trong các nghiệm thức thấp hơn rất nhiều so với nồng
độ gây chết 24 giờ của các tác giả trên. Tuy nhiên, ấu trùng vẫn có hiện tượng
chết nhiều ở giai đoạn Zoea5 biến thái sang Megalopa.
4.2 Chỉ số biến thái của ấu trùng
Sự biến thái của ấu trùng được trình bày ở Bảng 4.2, Kết quả cho thấy ở ngày
thứ 3 chỉ có nồng độ 5ppm và nồng độ 15ppm là khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p<0,05), nồng độ 5ppm biến thái nhanh hơn ở nồng độ 15ppm. Ở ngày thứ 6

thì sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) lại ở nồng độ 0ppm và nồng độ
15ppm, nồng độ 0ppm biến thái nhanh hơn so với nồng độ 15ppm. Tuy nhiên
khi đến ngày thứ 9 thì các nghiệm thức khác biệt không có ý nghĩa thống kê
(p>0,05), các nghiệm thức biến thái gần bằng nhau. Ngày 12 thì phân biệt giữa
các nghiệm thức lại rõ ràng hơn, nồng độ 10ppm và nồng độ 15ppm đồng thời
khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) với nồng độ 0ppm và nồng độ 5ppm,
biến thái chậm, nồng độ 0ppm khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) với cả 3
nghiệm thức còn lại và biến thái nhanh, giống như nồng độ 0ppm, nồng độ
5ppm cũng khác biệt có ý nghĩa thống kê với cả 3 nghiệm thức còn lại và tăng
trưởng rất nhanh.
Bảng 4.2 Chỉ số biến thái của ấu trùng
NT
Zoea2
Zoea3
Zoea4
Zoea5
NT1 (0ppm)
1,96±0,05
ab
2,99±0,02
b
3,73±0,07
a
4,51±0,10
b
NT2 (5ppm)
1,97±0,06
b
2,98±0,02
ab

3,78±0,13
a
4,64±0,05
c
NT3 (10ppm)
1,88±0,05
ab
2,93±0,04
ab
3,72±0,14
a
4,36±0,05
a
NT4 (15ppm)
1,85±0,07
a
2,92±0,05
a
3,73±0,12
a
4,34±0,05
a
Ghi chú: Các giá trị trong cùng một cột theo sau bởi chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống
kê (P < 0,05).
Các giá trị trong cùng một cột theo sau bởi chữ cái giống nhau thì khác biệt không có ý nghĩa thống
kê (P > 0,05)
Theo Hoàng Đức Đạt (2004) tỷ lệ biến thái của ấu trùng sau 3, 6, 9, 12 và 15
ngày lần lượt là 1,95: 3,00: 3,75: 4,05 và 4,30. Kết quả thí nghiệm cho thấy ở

16

nồng độ kháng sinh cao 15ppm vẫn có chỉ số biến thái cao hơn các nghiên cứu
trước đây là do mật độ artemia cho ăn cao và bổ sung thêm thức ăn nhân tạo
làm cho ấu trùng cua bắt mồi thuận lợi giúp ấu trùng lột xác đồng đều Tuy
nhiên, tỷ lệ biến thái của giai đoạn zoea1 và zoea2 hầu như nhanh hơn so với
giai đoạn zoea3 và zoea4.
4.3 Tăng trƣởng các giai đoạn
Bảng 4.3: Sự tăng trưởng các giai đoạn của từng nghiệm thức

NT1
NT2
NT3
NT4
Zoea1
1,20±0,00
a
1,23±0,06
a
1,30±0,00
b
1,20±0,00
a
Zoea5
3,83±0,06
b
3,83±0,06
b
3,63±0,06
a
3,63±0,06
a

Megalopa
4,37±0,12
ab
4,47±0,06
b
4,23±0,06
a
4,23±0,06
a
Cua con
2,70±0,10
a

2,83±0,15
a

2,93±0,12
a

2,87±0,12
a

Ghi chú: Các giá trị trong cùng một cột theo sau bởi chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống
kê (P < 0,05).
Các giá trị trong cùng một cột theo sau bởi chữ cái giống nhau thì khác biệt không có ý nghĩa thống
kê (P > 0,05)
Kết quả cho thấy ở giai đoạn Zoea1 thì chiều dài cách biệt không nhiều giữa 4
nghiệm thức (1,20-1,30mm), chỉ có nồng độ 10ppm khác biệt có ý nghĩa thống
kê (p<0,05) với 3 nghiệm thức còn lại và có chiều dài dài nhất. Đến zoea5 thì
nồng độ 0 và 5ppm có chiều dài dài hơn và khác biệt có ý nghĩa thống kê

(p<0,05) đồng thời cả 2 nồng độ 10 và 15ppm. Ở giai đoạn Megalopa chỉ còn
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) giữa nồng độ 5ppm với 2 nồng độ là
10 và 15ppm, nồng độ 5ppm là dài nhất. Nhưng đến giai đoạn cua conthì khác
biệt không mang ý nghĩa thống kê (p>0,05) nữa (Bảng 4.3).
Ảnh hưởng của mật độ ương và chế độ cho ăn khác nhau lên sự phát triển và
tỷ lệ sống của ấu trùng giai đoạn zoea1-zoea5 theo tác giả Nguyễn Cơ Thạch
và Trương Quốc Thái (2004a) nghiên cứu sản xuất giống cua biển với thức ăn
cho ấu trùng là luân trùng, artemia và tảo ở mật độ 100 zoea1/L, kết quả cho
thấy kích thước trung bình của ấu trùng cua biển ở giai đoạn zoea5 là 3,67
mm.
Từ kết quả của tác giả trên, ta thấy sử dụng kháng sinh với các liều lượng khác
nhau thì chiều dài tăng trưởng của ấu trùng trong các nghiệm thức vẫn rất cao
so với các thí nghiệm trước đó ở giai đoạn zoea5. Tuy nhiên, tăng trưởng
chung ở các giai đoạn thì có biến động lớn giữa các nghiệm thức.

17
4.4 Tỷ lệ sống giai đoạn megalopa và cua con
0
0.5
1
1.5
2
2.5
3
3.5
4
4.5
NT1 NT2 NT3 NT4
Nghiệm thức
Tỷ lệ sống (%)

megalopa
cua

Hình 4.1: Tỷ lệ sống (%) megalopa và cua con
Tỷ lệ sống ở giai đoạn Megalopa giữa các nghiệm thức khác biệt không có ý
nghĩa thống kê nhưng đến giai đoạn cua con thì tỷ lệ sống khác biệt lớn và có
ý nghĩa (p<0,05) giữa nồng độ 0ppm và 3 nghiệm thức còn lại, ở nồng độ
0ppm tỷ lệ sống quá thấp (Bảng 4.4 và hình 4.1). Theo Trần Ngọc Hải và
Trương Trọng Nghĩa (2004), tỷ lệ sống của ấu trùng sang cua con ở mật độ
100 con/L là tốt nhất đạt 9,11±1,29%. Theo Phạm Văn Quyết (2008) thì tỷ lệ
sống từ zoea1 đến cua con dao động trong khoảng 9,1%-9,7%. Theo Trương
Trọng Nghĩa (2004) tỷ lệ sống đến cua con là 10-15%. Dựa theo các nghiên
cứu trên, tỷ lệ sống mà thí nghiệm đưa ra ở giai đoạn cua con còn quá thấp.
Theo kết quả thí nghiệm thì những bể có sử dụng kháng sinh có tỷ lệ sống cao
hơn so với bể không có kháng sinh (đặc biệt khi sử dụng kháng sinh ở nồng độ
từ 5-10 ppm.)









1,12
a

0,31
a


3,98
a

2,93
b

3,86
a

3,03
b

3,28
a

2,48
b

×