Tải bản đầy đủ (.pdf) (43 trang)

nghiên cứu một số đặc điểm sinh học sinh sản của cá phèn vàng (polynemus paradiseus linnaeus, 1758)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 43 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN





BÙI VĂN SĨ



NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC
SINH SẢN CỦA CÁ PHÈN VÀNG
(Polynemus paradiseus Linnaeus, 1758)





LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH NUÔI TRỒNG THUỶ SẢN






Cần Thơ, 2013
TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN





BÙI VĂN SĨ




NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC
SINH SẢN CỦA CÁ PHÈN VÀNG
(Polynemus paradiseus Linnaeus, 1758)



LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH NUÔI TRỒNG THUỶ SẢN





CÁN BỘ HƢỚNG DẪN
Ts. NGUYỄN BẠCH LOAN



Cần Thơ, 2013


i


LỜI CẢM TẠ
Em xin chân thành cảm ơn Ban Giám Hiệu Trường Đại học Cần Thơ, Khoa
Thủy sản, Bộ môn Thủy sinh học ứng dụng đã quan tâm, giúp đỡ và tạo mọi
điều kiện thuận lợi giúp em có thể hoàn thành tốt luận văn tốt nghiệp.
Em xin chân thành cảm ơn tất cả quý thầy, cô Khoa Thuỷ sản, Trường Đại học
Cần Thơ đã tận tình hướng dẫn và truyền đạt cho em nhiều kiến thức quý báu
trong quá trình học tập tại trường. Đặc biệt, em xin gởi lời cảm ơn chân thành
đến cô Nguyễn Bạch Loan đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và đóng góp ý kiến
vô cùng quý báu trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Em cũng xin chân thành cảm ơn các cô, chú và các anh chị ngư dân khai thác
tại các điểm khảo sát đã giúp đỡ em trong thời gian tiến hành thu mẫu phục vụ
cho nghiên cứu.
Em xin gởi lời cảm ơn đến tập thể lớp Nuôi trồng Thuỷ Sản K36, gia đình và
bạn bè đã luôn quan tâm, động viên và giúp đỡ em hoàn thành tốt chương trình
học tập và luận văn tốt nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn!


Bùi Văn Sĩ














ii

TÓM TẮT
.Đề tài “Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học sinh sản của cá Phèn vàng
(Polynemus paradiseus Linnaeus, 1758)” được tiến hành từ tháng 12/2012 đến
tháng 11/2013. Mẫu cá Phèn vàng được thu trực tiếp từ cào đáy, đáy trụ, thu
mua của ngư dân và các chợ địa phương tại bốn điểm Thốt Nốt, Ninh Kiều (Tp
Cần Thơ) và Đại Ngãi, Trần Đề (tỉnh Sóc Trăng) thuộc tuyến sông Hậu. Sau
khi thu, mẫu cá được bảo quản lạnh và chuyển về phân tích tại phòng thí
nghiệm Nguồn lợi, Khoa Thuỷ sản, Trường Đại học Cần Thơ. Mục tiêu là
nhằm thu thập thêm các dẫn liệu khoa học về đặc điểm sinh học sinh sản làm
cơ sở cho các nghiên cứu sản xuất giống về loài cá này trong tương lai.
Kết quả khảo sát cho thấy buồng trứng cá Phèn vàng có dạng ống dài, màu
trắng hồng đến vàng nhạt tùy theo theo các giai đoạn phát triển của buồng
trứng. Buồng tinh cá Phèn vàng là hai dãy dẹp có màu trắng đục, nằm bên dưới
xương sống, thuộc dạng buồng tinh không phân thuỳ.
Cá Phèn vàng cái thành thục sinh dục khi cơ thể đạt kích cở W
t
= 16 gr và cá
Phèn vàng đực có kích thước thành thục là W
t
= 14,4 gr/con. Tỉ lệ đực:cái trong
quần đàn là vào khoảng 1: 2,1.
Sức sinh sản của cá Phèn vàng tương đối cao, sức sinh sản tuyệt đối khoảng
23.765 ± 10.545 (trứng/cá thể) và sức sinh sản tương đối là 218.239 ± 75.926
(trứng/kg cá). Đường kính trứng trung bình ở giai đoạn IV là 0,69 ± 0,05 mm.
Mùa vụ sinh sản của cá Phèn vàng trên tuyến sông Hậu tập trung vào khoảng

tháng 3 – 6 và tháng 11 – 12.











iii

MỤC LỤC

Trang
Lời cảm cả i
Tóm tắt……………………………………………………………………………… ii
Mục Lục…………………………………………………………………………… iii
Danh mục từ viết tắt ….v
Danh mục hình .v
Danh mục bảng vi
Chƣơng 1: Giới thiệu 1
1.1. Giới thiệu 1
1.2. Mục tiêu của đề tài 2
1.3. Nội dung nghiên cứu 2
Chƣơng 2: Tổng quan tài liệu 3
2.1. Vị trí phân loại 3
2.2. Đặc điểm hình thái 4

2.3. Phân bố 6
2.4. Đặc điểm sinh trưởng 8
2.5. Đặc điểm dinh dưỡng 9
2.6. Đặc điểm sinh sản 9
Chƣơng 3: Vật liệu và phƣơng pháp nghiên cứu 14
3.1. Vật liệu nghiên cứu 14
3.1.1. Vật mẫu 14
3.1.2. Hóa chất, dụng cụ và thiết bị 14
3.2. Phương pháp nghiên cứu 15
3.2.1. Thời gian và địa điểm nghiên cứu 15
3.2.2. Phương pháp thu và bào quản mẫu 16
3.2.3. Phương pháp phân tích 16


iv

3.2.3.1. Phân biệt đực – cái và kích cỡ thành thục 16
3.2.3.2 Tỉ lệ đực – cái 16
3.2.3.3 Độ béo Fulton và Clark 16
3.2.3.4 Hệ số thành thục (Gonado Somatic Index - GSI) 17
3.2.3.5 Quá trình phát triển của tuyến sinh dục 17
3.2.3.6 Sức sinh sản 17
3.2.3.7 Đường kính trứng 18
3.2.3.8 Mùa vụ sinh sản 18
3.3. Xử lý số liệu 18
Chƣơng 4: Kết quả và thảo luận
4.1 Phân biệt giới tính và kích cỡ thành thục
4.2 Tỉ lệ đực – cái
4.3 Độ béo Fulton và Clark
4.4 Hệ số thành thục (GSI)

4.5 Quá trình phát triển của tuyến sinh dục
4.6 Sức sinh sản
4.7 Đường kính trứng
4.8 Mùa vụ sinh sản
Chƣơng 5: Kết luận và đề xuất
5.1 Kết luận
5.2 Đề xuất
Tài liệu tham khảo
Phụ Lục






v

Danh mục từ viết tắt
ĐBSCL: Đồng bằng sông Cửu Long
NTTS: Nuôi trồng thuỷ sản
TP: Thành phố
HSTT: Hệ số thành thục
SSS: sức sinh sản
G: gam

Danh mục hình
Trang
Hình 2.1 Các giống cá thuộc họ Polynemidae 4
Hình 2.2 Cá Phèn vàng (Polynemus paradiseus Linnaeus, 1758) 5
Hình 2.3 Phân bố của cá Phèn vàng (Polynemus paradiseus Linnaeus, 1758) 6

Hình 3.1 Địa điểm thu mẫu 14
Hình 3.2 A) Dòng chính của sông Hậu; B) Nhánh sông cấp 1; C) Ghe cào đáy;
D) Đáy trụ
Hình 4.1 Hình dạng ngoài của cá Phèn vàng đực (A) và cá Phèn vàng cái (B)
Hình 4.2 Biến động tỉ lệ đực : cái của cá Phèn vàng
Hình 4.3 Biến động độ béo Fulton và Clark của cá Phèn vàng qua các tháng
Hình 4.4 Biến động của hệ số thành thục cá Phèn vàng đực qua các tháng
Hình 4.5 Biến động của hệ số thành thục cá Phèn vàng cái qua các tháng
Hình 4.6 Hình dạng ngoài của buồng trứng cá Phèn vàng ở các giai đoạn
phát triển
Hình 4.7 Hình dạng ngoài của buồng tinh cá Phèn vàng ở các giai đoạn
phát triển
Hình 4.8 Tỉ lệ các giai đoạn thành thục của cá Phèn vàng qua các tháng




vi

Danh mục bảng
Bảng 2.1 : Độ sâu môi trường sống của một số loài cá thuộc họ Polynemidae 7
Bảng 2.2: Nhiệt độ và độ mặn thích hợp của một số loài cá thuộc họ
Polynemidae 7
Bảng 2.3: Bậc thang thành thục sinh dục của cá theo Nikolsky (1963) 10
Bảng 2.4: Bậc thang thành thục sinh dục của cá theo Pravdin (1973)
Bảng 2.5: Kích thước thành thục lần đầu của một số loài cá thuộc họ
Polynemidae
Bảng 2.6: Kích thước của tế bào trứng cá Phèn vàng theo từng giai đoạn
Bảng 2.7: Sức sinh sản của một số loài cá thuộc họ Polynemidae
Bảng 2.8: Mùa vụ sinh sản của một số loài cá thuộc họ Polynemidae

Bảng 2.9 Tỉ lệ giới tính trong quần đàn của một số loài cá thuộc họ
Polynemidae
Bảng 4.1: Sức sinh sản của cá Phèn vàng ở các kích cỡ khác nhau
Bảng 4.2: Biến động đường kính trứng theo kích cỡ của cá Phèn vàng cái


1

CHƢƠNG 1
GIỚI THIỆU
1.1. Giới thiệu
Ngành Thủy sản là một thế mạnh và giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển
kinh tế của cả nước nói chung và của Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) nói
riêng. ĐBSCL có diện tích 39734 km
2
, nằm ở hạ lưu sông MeKong, có hai hệ
thống sông chính là sông Tiền và sông Hậu với chiều dài 235 km. Ngoài ra,
ĐBSCL còn có hơn 750 km chiều dài bờ biển, 800.000 ha bãi triều, cùng với
mạng lưới sông ngòi dày đặc với khoảng 22 cửa sông, cửa lạch (Bộ Nông
Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn, 2009). Hằng năm, mùa lũ về đã bổ sung
thêm cho ĐBSCL nguồn lợi thuỷ sản rất phong phú. Theo Trương Thủ Khoa và
Trần Thị Thu Hương (2003) có đến 173 loài cá thuộc 39 họ, 99 giống thuộc 13
bộ phân bố ở ĐBSCL.
Trong những năm gần đây, nghề nuôi các đối tượng chủ lực của vùng như tôm
Sú, cá Tra, cá Basa… gặp nhiều khó khăn, đối mặt với nhiều rủi ro thách thức
lớn như về tình hình dịch bệnh, môi trường nuôi ngày một xuống cấp và sự
biến động về thị trường tiêu thụ… đã ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình phát
triển thuỷ sản của cả nước. Trước thực trạng trên cần phải chú trọng việc đa
dạng hóa đối tượng nuôi của vùng để giảm thiểu rủi ro cho người nuôi, cũng
như quan tâm nghiên cứu và phát triển những loài cá bản địa có chất lượng cao,

được thị trường ưu chuộng mà chưa được nuôi. Việc nghiên cứu những đối
tượng mới là một trong những điều kiện cần thiết để phát triển nghề nuôi trồng
thuỷ sản. Để đáp ứng được nhu cầu trên, các đặc điểm sinh học (tập tính dinh
dưỡng, sinh trưởng, sinh học sinh sản) của đối tượng nuôi mới cần phải được
nghiên cứu.
Cá Phèn vàng (Polynemus paradiseus Linnaeus, 1758) phân bố ở các thuỷ vực
tự nhiên ở cả vùng nước ngọt đến vùng nước lợ,mặn. Đây là loài có chất lượng
thịt ngon nên có giá trị thương phẩm cao. Nhưng các nghiên cứu về cá Phèn
vàng trên thế giới và ở Việt Nam còn rất hạn chế, các công bố về loài cá này
chỉ mới tập trung vào phân loại và một số thông tin ngắn về đặc điểm hình thái,
phân bố và tập tính dinh dưỡng…, trong khi nghiên cứu về đặc điểm sinh học
sinh sản vẫn chưa được nghiên cứu đầy đủ cho nên cần tiếp tục nghiên cứu các
đặc điểm sinh học sinh sản của cá Phèn vàng nhằm góp phần phát triển loài cá
này trong tương lai. Xuất phát từ thực tế nêu trên, đề tài: “Nghiên cứu một số


2

đặc điểm sinh học sinh sản của cá Phèn vàng (Polynemus paradiseus
Linnaeus, 1758) ” được thực hiện.
1.2. Mục tiêu của đề tài
Nghiên cứu các đặc điểm sinh học sinh sản của cá Phèn vàng nhằm thu thập
thêm các dẫn liệu khoa học làm cơ sở cho các nghiên cứu tiếp theo về sản xuất
giống loài cá này, nhằm góp phần làm đa dạng hoá đối tượng nuôi của vùng.
1.3. Nội dung nghiên cứu.
Nghiên cứu tập trung vào những nội dung như sau:
 Phân biệt giữa cá Phèn vàng đực – cá Phèn vàng cái
 Tỉ lệ đực: cái
 Kích cỡ thành thục sinh dục
 Biến động độ béo Fluton và Clark

 Hệ số thành thục
 Quá trình phát triển của tuyến sinh dục qua các giai đoạn
 Sức sinh sản (sức sinh sản tuyệt đối và tương đối)
 Đường kính trứng
 Mùa vụ sinh sản
















3

CHƢƠNG 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Vị trí phân loại
Họ cá Phèn Polynemidae có 41 loài, thuộc 8 giống (Motomura, 2004) như sau:
giống Eleutheronema (có 3 loài), Filimanus (6 loài), Galeoides (1 loài),
Leptomelanosoma (1 loài), Parapolynemus (1 loài), Pentanemus (1 loài),
Polydactylus (20 loài) và Polynemus (8 loài).


Hình 2.1: Các giống trong họ Polynemidae (Motomura, 2004)
Giống Polynemus gồm có 8 loài là: Polynemus aquilonaris Motomura, 2003;
P. dubius Bleeker, 1854; P. hornadayi Myers, 1936; P. kapuasensis Motomura
and Van Oijen, 2003; P. melanochir dulcis Motomura and Sabaj, 2002;

3 loài
6 loài
1 loài
1 loài
1 loài
1 loài
8 loài
20 loài


4

P.melanochir melanochir Valenciennes, 1831: P. multifilis Temminck and
Schlegel, 1843 và P. paradiseus Linnaeus, 1758.
Theo Mai Đình Yên và ctv (1992); Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương
(1993); Bộ Thủy sản (1996) thì loài cá Phèn vàng (P. paradiseus) thuộc họ
Polynemidae, bộ Mugiliformes. Tuy nhiên, theo Motomura (2004) và ITIS
(Intergrated Taxonomic Information System) có thể phân loại loài cá Phèn
vàng theo hệ thống như sau:
Giới: Animalia
Ngành: Chordata
Lớp: Actinopterygii
Bộ: Perciformes
Họ: Polynemidae

Giống: Polynemus
Loài: Polynemus paradiseus Linnaeus, 1758
2.2. Đặc điểm hình thái
Thân cá Phèn vàng (P. paradiseus) thon dài, dẹp bên. Mõm cá ngắn, hơi tù;
thuộc dạng miệng dưới, co duỗi được, rạch miệng hơi xiên. Răng hàm nhỏ mịn
mọc đến phần ngoài của xương hàm. Mắt cá nhỏ, có màng da che phủ. Cạnh
dưới xương nắp mang trước có răng cưa nhọn (Trương Thủ Khoa và Trần Thị
Thu Hương, 1992). Gai vây lưng, vây bụng và vây hậu môn nhọn yếu. Vây
lưng thứ nhất có VII gai cứng, vây lưng thứ hai có I gai cứng và 14 – 15 tia
mềm; vây hậu môn có II gai cứng và 12 tia mềm. Vây ngực có từ 15 – 18 tia
mềm và có chiều dài khoảng 30 – 35% chiều dài chuẩn, ngắn hơn hoặc bằng
vây hậu môn. Phần dưới của vây ngực có 7 sợi tự do, hai sợi trên dài nhất kéo
dài khỏi ngọn vi đuôi. Vây ngực phát triển cùng với sự phát triển chiều dài của
cá và đạt chiều dài lớn nhất ở cá thể trưởng thành. Vây đuôi chẻ hai, rãnh chẻ
sâu hơn 2/3 chiều dài vây đuôi. Đường bên hoàn toàn, kéo dài từ mép trên lổ
mang đến điểm giữa gốc của các tia vây đuôi, có 66 - 77 vảy đường bên. Số


5

vảy trên đường bên là 6 – 7, vẩy dưới đường bên ở khoảng 10- 12. Trên cung
mang thứ I của cá Phèn vàng có 17-20 lược mang (Motomura, 2004).

Hình 2.2: Cá Phèn vàng (Polynemus paradiseus Linnaeus, 1758)
Mặt lưng của đầu và thân màu xám đen, có màu vàng ở mặt lưng và bụng. Vây
ngực, vây hậu môn và sợi tự do của vi ngực cũng có màu vàng, các phần còn
lại thì có màu xám đen. Đường bụng gần như thẳng, cuống đuôi thon dài. Vảy
nhỏ phủ khắp thân và đầu, có nhiều vảy nhỏ phủ từ gốc đến gần ngọn các vây
lưng, vây hậu môn và vây đuôi.
2.3. Đặc điểm phân bố

Các loài cá thuộc họ Polynemidae phân bố ở các khu vực nhiệt đới và cận nhiệt
đới. Phần lớn chúng phân bố ở các vùng duyên hải ven biển và các cửa sông.
Tuy nhiên, có 3 loài cá thuộc hai giống Polynemus và Polydactylus là
Polynemus hornadayi, P.multifilis và Polydactylus macrophthalmu chỉ sống ở
các thủy vực thuộc vùng nước ngọt (Motomura, 2004). Chưa gặp tài liệu nào
ghi nhận về sự phân bố chúng ở vùng cửa sông và biển khơi. Trong tự nhiên,
loài cá P. paradiseus phân bố từ phía đông Ấn Độ đến phía tây của Thái Bình
Dương như: Ấn Độ, khu vực sông Mê Kông (Thái Lan, Campuchia, ĐBSCL),
Malaysia, Indonesia (Hình 2.3).



6


Hình 2.3. Phân bố của cá Phèn Vàng (P. paradiseus) (www.fishwise.co.za)
Cá loài cá thuộc họ Polynemidae sống ở tầng đáy cát bùn, một số loài sống ở
biển có thể sống tới độ sâu 150m (Bảng 2.1).
Bảng 2.1. Độ sâu môi trƣờng sống của các loài cá thuộc họ Polynemidae
(Kagwade, 1970)
Loài
Độ sâu (m)
Tác giả
P. plebeius
23-122
Hida (1967)
P. indicus
9-70
Deshpande (1962)
P. sextarius

19-73
Hida (1967)
P. sextarius var mullani
18-122
Hida (1967)
P. xanthonemus
19-30
Hida (1967)
P. paradiseus
15-27
Hida (1967)
P. heptadactylus
21-80
Kagwade (1968)
Loài P. paradiseus phân bố ở vùng cửa sông và biển khơi với độ sâu tối đa 27
m. Tuy nhiên, loài cá này thường di cư vào vùng nước ngọt để sinh sản. Đây là
loài cá sống đáy, chủ yếu là nền đáy cát bùn (Motomura, 2004). Kết quả này
phù hợp với nhận định của Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương (1993)


7

là cá Phèn vàng sống chủ yếu ở vùng nước lợ, mặn. Tuy nhiên, có thể gặp loài
cá này ở vùng nước ngọt.
Bên cạnh độ mặn, nhiệt độ thích hợp với các loài cá thuộc bộ Polynemidae
cũng đã được nghiên cứu (Bảng 2.2).
Bảng 2.2: Nhiệt độ và độ mặn thích hợp của một số loài cá thuộc họ
Polynemidae (Hida, 1967)
Địa điểm
Loài

Nhiệt độ (
0
C)
Độ mặn (%
o
)
Vịnh Bangal
P. indicus
26,09 – 27,82
31,74 – 31,94
P. sextarius
23,98 – 26,16
32,99 - 34
P. xanthonemus
26,61
32,99
P. paradiseus
26,09 – 27,82
26, 56 – 32,6
Biển Ả Rập
P. plebeius
23,54 – 25,4
36,33 – 36,71
P. indicus
25,93 – 25,56
36,10 – 36,12
P. sextarius var mullani
22,36 – 27,97
36,01 – 36,71
Theo Hida (1967) thì một số loài cá phèn thích hợp với mội trường sống có

nhiệt độ biến động trong khoảng 22,36 – 27,82
o
C, độ mặn ở khoảng 26,56 –
36,71‰.
2.4. Đặc điểm sinh trƣởng
Sinh trưởng là sự gia tăng kích thước và khối lượng cơ thể theo thời gian, là kết
quả của quá trình trao đổi chất (Phạm Minh Thành – Nguyễn Văn Kiểm, 2009).
Quá trình sinh trưởng của cá chịu sự chi phối lớn của các yếu tố sinh lý (yếu tố
bên trong) và các yếu tố sinh thái (yếu tố bên ngoài), thể hiện sự thống nhất
giữa cơ thể cá và môi trường sống. Khác với các động vật có xương sống bậc
cao khác, cá có sự gia tăng chiều dài trong suốt quá trình sống. Tất cả các loài
cá có quy luật phát triển chung là trước lúc cá thể đạt kích cở thành thục lần
đầu tiên cá sẽ tăng nhanh về chiều dài cơ thể, đến khi thành thục sinh dục thì sự
tăng trưởng chiều dài giảm nhưng sự tăng trưởng về khối lượng thân cá lại tăng
lên, thông qua việc tích lũy vật chất dinh dưỡng trong cơ, mỡ trong cơ và
xoang nội quan. Đây là nguồn năng lượng quan trọng trong quá trình tăng


8

trưởng của cơ thể, phát triển tuyến sinh dục hoặc duy trì sự sống trong trường
hợp thiếu thức ăn.
Cá Phèn vàng là loài có kích thước trung bình trong số các loài thuộc giống
Polynemus, chiều dài tối đa (chiều dài chuẩn) được phát hiện là 20 cm
(Motomura et al, 2002). Loài có kích thước lớn nhất là P.multifilis nhỏ nhất là
P.melanochir melanochir (Motomura, 2004). Kết quả nghiên cứu trên cá Phèn
vàng của Lê Thị Rằng (2010) trong thời gian từ tháng 9 đến tháng 11, chiều dài
cá dao động trong khoảng 5,9 – 30,2 cm tương ứng với trọng lượng 1,22 –
228,25 gam. Phương trình hồi quy tương quan W=0,0039L
3,1913

, tốc độ tăng
trưởng tăng nhanh theo chiều dài ở giai đoạn đầu (L<20). Nhưng đến giai đoạn
sau (L>20) thì tăng trưởng theo khối lượng lại tăng nhanh hơn. Điều này phù
hợp với nhận định của Mai Đình Yên (1979) cá tăng về kích thước ở giai đoạn
đầu, đến giai đoạn sau khi thành thục cá tăng nhanh về khối lượng.
Theo Jones và Menon (1953) nghiên cứu sự phát triển của loài cá này ở sông
Hooghly, Ấn Độ thì kích cỡ (chiều dài chuẩn) của các cá thể trưởng thành dao
động trong khoảng 12,5 – 17,5 cm. Điều này phù hợp với kết quả nghiên cứu
của David (1954) trên sông Hooghly là cá thể mới trưởng thành có chiều dài
chuẩn L
s
= 8 cm và kích cỡ trung bình của cá trưởng thành là 15 cm. Tuy
nhiên, kích cỡ loài cá Phèn vàng thu được ở vịnh Bengal và dọc bờ biển
Myanmar cá nhỏ hơn chỉ ở khoảng L
s
= 8 – 14,5 cm.
Bóng hơi của cá Phèn vàng phát triển từ giai đoạn ấu trùng nhưng bị tiêu biến
khi đến giai đoạn con giống (Jones và Menon,1953). Vẩy trên thân cá và các
sợi tự do ở vi ngực hình thành từ giai đoạn ấu trùng và phát triển hoàn chỉnh ở
giai đoạn cá con cỡ 13-14 mm.
2.5. Đặc điểm dinh dƣỡng
Cá tiếp nhận nguồn thức ăn chủ yếu từ môi trường nước, đặc điểm dinh dưỡng
của cá khác nhau tuỳ theo loài, trạng thái sinh lý và điều kiện môi trường sống.
Tính ăn thay đổi theo các giai đoạn phát triển của cơ thể. Lúc nhỏ khi mới nở
cá dinh dưỡng bằng noãn hoàng, sau khi sử dụng hết noãn hoàng chuyển sang
ăn động vật phù du cở nhỏ, đến giai đoạn tiền trưởng thành cá bắt đầu ăn thức


9


ăn của loài (Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2009). Cá Phèn vàng
(P.paradiseus) cùng một số loài trong họ Polynemidae như: P.aquilonaris,
P.dubius và P.multifilis được ghi nhận là những loài ăn tạp thiên về động vật
với các loại thức ăn chính chủ yếu là giáp xác, cá nhỏ và sinh vật đáy
(Motomura, 2004, Hồ Hoàng Vinh, 2013). Sau khi nở ấu trùng sử dụng lượng
noãn hoàng cho đến giai đoạn đạt cỡ 4.3 mm (Jones và Menon, 1953).
2.6. Đặc điểm sinh sản
Có thể phân biệt đực – cái dựa trên 3 đặc điểm chính: đặc điểm hình thái do
gen nằm trên nhiễm sắc thể giới tính quy định, dấu hiệu sinh dục phụ sơ cấp và
dấu hiệu sinh dục phụ thứ cấp (một số đặc điểm khác biệt giữa cá đực và cá cái
xuất hiện trong thời kỳ sinh sản). Nhiều loài cá có những đặc điểm khác biệt về
giới tính có thể nhận biết thông qua các đặc điểm hình thái bên ngoài, một số
loài khác thì sự khác nhau về hình dạng bên ngoài giữa con đực và con cái chỉ
xuất hiện trong thời gian sinh sản. Tuy nhiên, cũng có nhiều loài rất khó xác
định giới tính thông qua hình thái bên ngoài, đặc biệt là khi chưa thành thục
sinh dục. Trong trường hợp như vậy thì cần tiến hành giải phẩu để xác định
giới tính (Phạm Thanh Liêm, Trần Đắc Định, 2004). Thông thường buồng tinh
của cá có dạng dẹp và dợn sóng trong khi buồng trứng có dạng ống, màu hồng
và có hạt. Bên cạnh việc quan sát hình dạng có thể kết hợp với màu sắc bên
ngoài tuyến sinh dục. Trong khi buồng tinh có màu trắng hoặc xám thì buồng
trứng có màu hồng nhạt hồng hay đỏ. Để xác định chính xác nhất giới tính của
cá nên quan sát tuyến sinh dục dưới kính hiển vi. Cá Phèn vàng là loài phân
biệt đực cái rõ ràng. Tuy nhiên, rất khó xác định giới tính của cá khi quan sát
hình dạng bên ngoài bằng mắt thường, nhất là khi cá chưa thành thục
(Motomura, 2004).
Sự thành thục của các loài cá thông thường được đánh giá dựa vào các giai
đoạn phát triển của tuyến sinh dục. Bậc thang thành thục cho phép đánh giá
nhanh mức độ thành thục và khả năng sinh sản của một số lượng lớn cá thể.
Ngày nay có nhiều tác giả đã đưa ra những bậc thang thành thục sinh dục của
cá như: Nikolsky (1963) (bảng 2.3), Qasim (1957), Pravdin (1936), Kesteven



10

(1960), Xakun và Buskia (1968)… Các tác giả trên đã chia bậc thang thành
thục sinh dục thành nhiều giai đoạn khác nhau từ 4 – 5 giai đoạn đến 7 – 8 giai
đoạn. Bậc thang thành thục sinh dục có ít hơn 8 giai đoạn được xem là thích
hợp (Holden và Raitt, 1974 trích bởi Phạm Thanh Liêm và Trần Đắc Định,
2004).
Bảng 2.3: Bậc thang thành thục sinh dục của cá Nikolsky (1963) (trích bởi
Phạm Thanh Liêm và Trần Đắc Định, 2004)
Giai đoạn
Mô tả
I
Cá thể non chưa thành thục sinh dục
II
Tuyến sinh dục còn nhỏ, mắt thường chưa nhìn thấy
được các hạt trứng
III
Giai đoạn thành thục, bằng mắt thường có thể nhìn
thấy các hạt trứng, khối lượng tuyến sinh dục tăng
nhanh, tinh sào có màu trắng trong chuyển sang màu
hồng nhạt.
IV
Giai đoạn chín mùi, tuyến sinh dục có kích thước lớn
nhất nhưng khi ấn nhẹ thì các sản phẩm sinh dục
chưa chảy ra.
V
Giai đoạn đẻ, các sản phẩm sinh dục chảy ra khi ấn
nhẹ vào bụng, khối lượng tuyến sinh dục giảm nhanh

sau giai đoạn này
VI
Giai đoạn sau khi đẻ, lỗ sinh dục phồng lên, tuyến
sinh dục mềm nhão. Ở con cái thường còn sót lại
những trứng nhỏ, còn con đực thì còn sót lại một ít
tinh trùng.


11

Theo Pravdin (1973) thì tác giả cũng chia các giai đoạn thành thục sinh dục ra
thành 6 bậc thang phát triển và được mô tả chi tiết hơn.
Giai đoạn
Mô tả
I
Ở những cá thể chưa chín muồi tuyến sinh dục. Tuyến
sinh dục chưa phát triển, nằm sát vào phía trong của
vách cơ thể và là những sợi dây dài, hẹp hoặc là những
đường mà mắt thường không thể xác định được đực
cái
II
Cá thể trưởng thành hoặc những sản phẩm sinh dục
phát triển sau khi đẻ trứng. Tuyến sinh dục bắt đầu
phát triển và dày thêm ra tạo thành buồng trứng (hạt
trứng nhỏ và mắt thường chưa nhìn thấy được) hoặc
buồng tinh. Có thể phân biệt được buồng trứng hoặc
buồng tinh vì buồng trứng có mạch máu tương đối lớn,
chạy dọc và hướng vào giữa thân rất dễ quan sát bằng
mắt thường.
III

Tuyến sinh dục chưa chín nhưng tương đối phát triển.
Kích thước buồng trứng cá cái tăng lên nhiều, chiếm
1/3 đến 1/2 xoang bụng và chứa đầy đủ những hạt
trứng nhỏ, đục, xám nhạt mà mắt thường chưa nhìn
thấy rõ. Các trừng dính vào nhau. Ở cá đực thì buồng
tinh có phần trước rộng hơn và hẹp lại ở phần sau, bề
mặt của buồng tinh có màu hồng, ở một số cá có màu
đỏ nhạt vì có nhiều mạch máu nhỏ. Ấn nhẹ buồng tinh
chưa thấy sẹ lỏng chảy ra.
IV
Tuyến sinh dục phát triển đến mức cao nhất. Ở cá cái,
kích thước buồng trứng rất lớn và chiếm khoảng 2/3
xoang bụng, hạt trứng lớn. Ở cá đực buồng tinh trong
suốt, có màu trắng, chứa đầy sẹ, nếu dùng tay ấn nhẹ
vào bụng cá sẹ sẽ chảy ra.
V
Trứng và tinh trùng chín.


12

VI
Các cá thể sau khi đẻ. Sản phẩm sinh dục được để hết,
xoang cơ thể rỗng, buồng trứng và tinh sào rất nhỏ,
nhão, sưng lên có màu đỏ sẫm, trong buồng trứng còn
lại một ít trứng nhỏ, những trứng đó chuyển biến và
thoái hoá dần. Qua một vài ngày nó lại mọng lên và
tuyến sinh dục chuyển sang giai đoạn II – III.
Nếu tuyến sinh dục ở trong khoảng giữa của hai giai đoạn nào đó thuộc bậc
thang 6 giai đoạn được mô tả như trên, hoặc phần này của các sản phẩm sinh

dục phát triển nhiều hơn, phần kia phát triển ít hơn, hoặc người quan sát khó
xác định giai đoạn chín muồi thì giai đoạn trung gian này được biểu thị bằng
hai con số nối với nhau bởi một gạch. Trong trường hợp này, nếu sản phẩm
sinh dục phát triển gần giống giai đoạn nào thì viết giai đoạn đó lên trước (ví
dụ: III-IV, IV-III…)
Xác định độ béo (Fulton và Clark) và hệ số thành thục (GSI – Gonado Somatic
Index) là các chỉ tiêu phản ánh được sự thành thục của của cá trong năm. Theo
Fulton thì xác định độ béo của cá bằng cách tính khối lượng cơ thể cá kể cả
khối lượng nội quan. Còn theo Clark (1992) thì tính hệ số độ béo theo khối
lượng cá bỏ nội quan. Theo Nikolsky (1963) lại đề nghị dùng cả 2 phương
pháp trên cùng một lúc. Hệ số thành thục cho phép ta theo dõi quá trình chín và
rụng các sản phẩm sinh dục.
Mỗi loài cá thì có tuổi thành thục riêng và thay đổi theo từng điều kiện cụ thể
của môi trường sống và chế độ dinh dưỡng. Theo quy luật chung, cá sống ở vĩ
độ cao (nhiệt độ thấp) thì có tuổi thành thục lần đầu cao hơn so với các cá thể
cùng loài nhưng sống ở vĩ độ thấp (nhiệt độ cao). Chế độ dinh dưỡng cũng có
ảnh hưởng rất lớn đến tuổi thành thục, những nơi có đủ dinh dưỡng cá thành
thục nhanh hơn, nhưng những loài ăn tạp và phiêu sinh thì ảnh hưởng của dinh
dưỡng không rõ ràng như những loài ăn mồi sống và phổ thức ăn hẹp (Nguyễn
Văn Kiểm và Phạm Minh Thành, 2013). Theo nghiên cứu của Gupta (1968) ở
Ấn Độ thì tác giả đã nhận thấy rằng kích thước và khối lượng thân cá thành


13

thục lần đầu tiên trong đời của cá đực (L
s
= 110 mm) nhỏ hơn cá cái (L
s
= 120

mm).
Bảng 2.5: Kích thƣớc thành thục lần đầu của một số loài cá thuộc họ
Polynemidae (Kagwade, 1970)
Loài
Kích thƣớc tối đa
(cm)
Kích thƣớc thành
thục lần đầu (cm)
Tác giả
E. tetradactylum
180
36 – 39 (L
t
)

P. indicus
142
80 (L
s
)
Karekar and
Bal (1960)
P. paradiseus
24
13,5 – 16 (L
t
)
Gupta (1968)
P. heptadactylus
30

13,3 (L
s
)
Kagwade
(1969c)
Theo Biswas (1982, trích dẫn bởi Phạm Thanh Liêm và Trần Đắc Định, 2004)
có thể phân chia các loài cá ra làm 3 nhóm chính dựa vào tần số xuất hiện của
đường kính trứng:
Nhóm I: bao gồm các loài cá chỉ mang một lứa trứng có cùng giai đoạn thành
thục trong noãn sào. Sự sinh sản của nhóm này theo nhịp một năm, chu kì
thành thục và thoái hoá của noãn sào chỉ xảy ra một lần trên năm trên tất cả cá
thể trong quần thể vào thời điểm bắt đầu mùa mưa. Cá thuộc nhóm này, tuyến
sinh dục thể hiện sự thay đổi theo mùa ở bất kì thời điểm nào, tuyến sinh dục
của tất cả các cá thể trong quần thể sẽ có cùng giai đoạn thành thục.
Nhóm II: bao gồm các loài cá với buồng trứng có từ 2 lứa trứng với giai đoạn
thành thục khác nhau. Các loài cá thuộc nhóm này, chu kì sinh sản của các cá
thể trong quần thể độc lập với nhau. Mùa vụ sinh sản kéo dài, giai đoạn thành
thục thể hiện sự chồng lấp lên nhau, gối lên nhau trong quần thể.
Nhóm III: buồng trứng của các loài cá trong nhóm này có đủ tất cả các kích cỡ
từ nhỏ nhất đến lớn nhất và khó có thể phân chia thành các lứa trứng. Chu kì
thành thục và sinh sản trở trành một tiến trình liên tục.


14

Đường kính trứng chín mùi sinh dục của cá Phèn vàng là khoảng 0,83 mm và
có khi lên đến gần 1 mm (Gupta, 1968). Tác giả cũng đưa ra kết quả về sự phát
triển của tế bào trứng (kích thước) theo từng giai đoạn. Tuy nhiên, Jones và
Menon (1953) thì đường kính của trứng cá ở giai đoạn chín mùi sinh dục vào
khoảng 0,7 mm, trong đó đường kính của giọt dầu trong trứng là 0,4 mm.

Bảng 2.6: Kích thƣớc của tế bào trứng cá Phèn vàng theo từng giai đoạn
(Gupta, 1968)
Giai đoạn
Kích cỡ (mm)
I
0,3
II
0,47
III
0,54
IV
0,76
V
0,83
VI
0,85
Sức sinh sản là khái niệm để chỉ số trứng cá có thể đẻ ra được trong một mùa
vụ hoặc trong một lần đẻ, là một chỉ tiêu sinh học để dự đoán sự biến động
nguồn lợi cá tự nhiên, mức độ bổ sung và khôi phục quần đàn. Sức sinh sản
phụ thuộc vào chiều dài và khối lượng thân cá, biến đổi theo loài, phụ thuộc
vào tuổi của cá và điều kiện môi trường (Poulsen and Jorgensen, 2000). Theo
Lê Thị Rằng (2010) thì sức sinh sản tuyệt đối của cá Phèn vàng (P.paradiseus)
thu ở vùng ven biển tỉnh Sóc Trăng dao động ở khoảng 3.355 – 4.879 trứng/cá
cái tương ứng với khối lượng buồng trứng trong khoảng 0,25-5,32 g. Jones và
Menon (1953) nhận thấy với cỡ cá P.paradiseus L
s
= 17 cm có khoảng 42.000
trứng/cá cái. Còn theo nghiên cứu của Gupta (1968) thì đưa ra kết luận là
những cá thể có kích L
s

= 22 cm thì có khả năng sinh sản trên 65000 trứng/cá
cái.




15

Bảng 2.7: Sức sinh sản của một số loài cá thuộc họ Polynemidae
(Kagwade, 1970)
Loài
Chiều dài chuẩn
(cm)
Sức sinh sản
(trứng)
Tác giả
P. indicus
80,1 – 84,7
1.199.295
Karekar and Bal
(1960)
P. heptadactylus
14,5 – 17,5
22.150
Kagwade (1969)
P. paradiseus
17
42000
Jones và Menon
(1953)

22
65000
Gupta (1968)
Mùa vụ sinh sản của các loài cá thuộc hệ thống sông MeKong phụ thuộc vào sự
thay đổi các điều kiện sinh thái. Có hai yếu tố quan trọng là sự biến đổi nhiệt
độ và lưu tốc dòng chảy đã tạo nên sự sinh sản theo mùa của cá. Tín hiệu rõ
nhất của một đợt cá đẻ trứng là khi mưa nước dâng lên, lưa tốc dòng chảy
mạnh. Tín hiệu kết thúc một đợt đẻ trứng của cá là khi lưu tốc dòng chảy giảm,
kèm theo sự tăng hoặc giảm nhiệt độ (Poulsen and Jorgensen, 2000). Mỗi loài
cá đều tự chọn điều kiện môi trường và thời điểm đẻ trứng thích hợp nhất, như
vậy trong năm có nhiều loài cá đẻ vào các thời điểm khác nhau ở lưu vực sông
MeKong (Nguyễn Thanh Tùng và ctv, 2005). Nơi sinh sản của cá Phèn vàng
thì tuỳ thuộc vào một số yếu tố như độ mặn và dòng chảy mà cá có thể di
chuyển lên hoặc xuống tại các cửa sông để sinh sản (Jones and Menon, 1953).
Ravish (1962) thì cho rằng nền đáy cũng là một yếu tố quan trọng trong quá
trình sinh sản của loài cá này. Theo nghiên cứu của Jones và Menon (1953)
trên sông Hooghly, Ấn Độ thì vào tháng 5 – 6 có một lượng lớn ấu trùng của cá
Phèn vàng. Cũng cùng nhận định đó, David (1954) và Ravish (1962) đã phát
hiện sự xuật hiện của ấu trùng cá Phèn vàng vào tháng 4 và đỉnh cao là vào
thành 7 – 8. Gupta (1968) cho rằng vào tháng 4 – 7 cá Phèn vàng đến các cửa
sông để sinh sản và cao điểm là vào tháng 5 – 6 hằng năm.


16

Bảng 2.8: Mùa vụ sinh sản của 1 số loài cá thuộc họ Polynemidae
(Kagwade, 1970)
Loài
Thời gian (tháng)
Địa điểm

Tác giả
E. tetradactylum
1-4 và 7-9
Bombay
Karandikar và
Palekar (1950)
P. indicus
4-6 và 10-12
Bombay
Saurashtra
Nayak (1959)
10-11
Madras
Kuthalingam (1960)
P. paradiseus
3-6
Hooghly
David (1954)
5-6
Hooghly &
Rupnarayan
Gupta (1968)

P. heptadactylus
3-6 và 8-11
Bombay
Saurashtra
Kagwade (1969)
Tỉ lệ đực – cái của P.paradiseus theo nghiên cứu của Jones và Menon (1953) là
1:1, còn theo Hook và Line (1951) thì con cái chỉ chiếm 2 – 5 % tổng số cá thể

trong quần đàn, còn lại là con đực.
Bảng 2.9 Tỉ lệ giới tính trong quần đàn của một số loài cá thuộc họ
Polynemidae ( Kagwade, 1970)
Loài
Lƣỡng tính (%)
Đực (%)
Cái (%)
Tác giả
P. paradiseus
0
95 – 98
2 – 5
Hook và Line (1951)
0
50
50
Jones và Menon (1953)
P. plebeius
10
10
80
Hida (1967)
P. indicus
39,76
19,28
40,96
Kagwade (1969)


17


P. sextarius
80
0,71
19,29
Hida (1967)
P. xanthonemus
16,51
44,96
38,53
Hida (1967)
P. heptadactylus
16,9
22,96
60,14
Kagwade (1968c)
P. quinquarius
0,01
44,96
55,04
Longhurst (1965)






















×