Con rồng Việt Nam là trang trí kiến trúc, điêu khắc và hội họa hình rồng
mang bản sắc riêng, theo trí tưởng tượng của người Việt. Nó khác với rồng trong
trang trí kiến trúc và hội họa Trung Hoa và ở quốc gia khác.
Từ xa xưa con Rồng đã có trong tâm thức người Việt, nhiều huyền thoại
về rồng, với biểu hiện linh thiêng. Rồng là điểm hội tụ với ý nghĩa vũ trụ và
nhân sinh. Người Việt có nguồn cội Lạc Hồng (Lạc Long Quân và Âu Cơ). Rồng
là biểu tượng vật linh trong tín ngưỡng văn hoá dân gian. Rồng được sáng tạo
thành hình tượng nghệ thuật và có mặt trong các thời kỳ nghệ thuật truyền thống
của các vương triều tự chủ.
Giao Long trang trí thạp Đào Thịnh 2000-200 TCN
Người Việt sống tại vùng sông nước nên từ xưa họ đã tôn sùng cá sấu như
một con vật linh thiêng, vì chúng đại diện cho sự trù phú và sức mạnh, thời kỳ
này vùng đất người Việt sống còn rất nhiều cá sấu. Họ đã thần thánh hóa loài cá
sấu lên thành con Giao Long mà người Trung Hoa gọi sau này, một cách thức tô
điểm cho hình hài con cá sấu nhiều chi tiết tưởng tượng và cũng nhiều ý nghĩa
hơn. Con rồng này tồn tại cùng tâm thức của người Việt trong suốt thời Văn
Lang - Âu Lạc. Rất có thể từ con Giao Long này mà người Trung Hoa đã tạo ra
con rồng Trung Hoa của họ.
Trong cả thiên niên kỉ bị đô hộ bởi Trung Hoa, trong hoàn cảnh chung của
chính sách Hán hóa, hình ảnh con rồng Việt Nam phát triển theo các xu hướng
giống với con rồng của người Hán. Đến khi giành được độc lập, hình tượng con
Rồng sáng tạo không chỉ mang tính ứng dụng trang trí trong Hoàng cung, các
ngôi chùa, cung điện mà còn có giá trị cái đẹp tạo hình. Hình tượng Rồng phát
triển ở các vương triều, mỗi thời đều có đặc điểm phong cách đặc trưng. Cơ sở
nhận diện hình tượng trên các phần thể hiện: Đầu Rồng (mắt, mũi, mồm, râu,
bờm, sừng); hình dáng thân Rồng (các khúc uốn lượn); các chi tiết (vây,móng,
đuôi) và đối chiếu với niên đại di tích để xác định Rồng các thờ.
Đặc điểm rồng Việt Nam:
Hình rồng trong lá đề trang trí diềm mái cung điện
Hình tượng Rồng được sáng tạo, thể hiện phong phú, chiếm vị trí quan
trọng trong các hợp thể kiến trúc (hoàng cung hay chùa, miếu, đền, đình). Các
vương triều đều lấy hình tượng Rồng là biểu tượng quyền uy của vương triều. Từ
thời Lý, thời Trần, thời Lê sơ phong cách Rồng nhất quán hoặc tập trung rõ đặc
trưng (ở đầu và khúc uốn). Từ thời Mạc đến thời Nguyễn hình Rồng có nhiều
biến đổi và đa dạng. Nét tiêu biểu tập trung ở các di tích trung tâm. Những văn
bia phát triển, ta biết được xuất xứ nội dung, niên đại là những giá trị để ta xác
định thời đại các chạm khắc hình Rồng. Các hình tượng Rồng thời sau một mặt
kế thừa thời trước, mặt khác muốn tìm ra những cái riêng về phong cách của
vương triều mình. Những nét đặc trưng tiêu biểu của hình tượng Rồng ở các thời
được nhận diện với sự so sánh, đối chiếu để xác định phong cách nghệ thuật.
Hình Rồng mỗi vương triều đều có đặc điểm và phong cách trong sự phát triển
của nghệ thuật tạo hình truyền thống. Nó không chỉ ở sử dụng mà còn là dấu ấn
quan niệm thẩm mỹ, sắc thái dân gian mang đặc thù dân tộc.
Nhìn chung,Rồng Việt Nam luôn có những mô-típ rõ ràng đặc trưng:
Đầu rồng đất nung thời Trần
- Thân rồng uốn hình sin 12 khúc, đại diện 12 tháng trong năm, biểu trưng
cho sự thay đổi thời tiết năm tháng, sự trù phú và phồn vinh của nền văn
hóa nông nghiệp lúa nước. Thân mềm mại uốn lượn thể hiện sự biến hóa
và khả năng thay đổi, dịch chuyển thiên nhiên của con rồng cai quản thời
tiết, mùa màng. Trên lưng có vây nhỏ liền mạch và đều đặn.
- Đầu rồng là phần rất đặc biệt, hoàn toàn khác rồng Trung Hoa. Nó có bờm
dài, râu cằm, không sừng (như rồng Trung Hoa). Mắt lồi to, hàm mở rộng
có răng nanh ngắt lên, đây là điểm hoàn toàn khác với các con rồng khác
của các nước. Đặc biệt là cái mào ở mũi (rồng thời Lý-Trần), sun sóng
đều đặn (có người goi là mào lửa) chứ không phải là cái mũi thú như rồng
Trung Hoa. Lưỡi mảnh rất dài.
- Miệng rồng luôn ngậm viên châu, trong khi ở Nhật Bản, Hàn Quốc và
Trung Quốc rồng hay cầm ngọc bằng chân trước. Viên châu tượng trưng
cho tính nhân văn, tri thức và lòng cao thượng. Đầu rồng luôn hướng lên
đớp lấy viên ngọc thể hiện tinh thần tôn trọng các giá trị nhân văn cao
quý, theo đuổi sự uyên bác và tinh thần cao thượng.
Những điều ấy được đặt lên trên tất cả các giá trị khác kể cả sức mạnh và sự
thống trị thường thấy của một con rồng phương Đông. Toàn thân rồng toát lên
uyển chuyển và một sức căng rất lớn từ cái vươn chân dài, đầu ngẩng cao, dáng
đầu rực lửa thể hiện cho khí thế hừng hực muốn tiến chinh phục các giá trị văn
minh nhất của phương Đông cổ đại.
RỒNG VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KÌ :
Khởi điểm từ thời Hùng Vương :
Hình tượng rồng đã được hình dung lên từ thời đại Hùng Vương qua con vật
thân dài có vẩy như cá sấu được chạm trên các sản phẩm đồ đồng thời bấy giờ.
Tuy nhiên, thời kì này hình tượng rồng còn khá thô sơ, chưa được tinh tế.
Rồng thời Hùng Vương trông giống với hình dáng cá sấu
Rồng thời Lý (thế kỷ XI-XII):
Thăng Long- nơi rồng vàng xuất hiện, cũng là nơi vương triều Lý (1010-
1125) xây dựng nhiều công trình kiến trúc hoàng thành, chùa, tháp mở đầu cho
độc lập tự chủ của Đại Việt. Duy trì gìn giữ những biểu tượng Rồng truyền
thống vốn có lâu đời của dân tộc, các nghệ nhân thời Lý đã sáng tạo hình tượng
Rồng, đưa lại ý nghĩa mới. Hình tượng Rồng chỉ thực sự phát triển từ triều Lý,
trở thành biểu tượng cao quý, quyền uy của Vương quyền và linh thiêng của
Thần quyền (đạo Phật là Quốc giáo). Nó thể hiện trong các hợp thể nghệ thuật
đường nét uyển chuyển, tinh tế, bố cục hoàn chỉnh, phong cách độc đáo. Hình
tượng Rồng có kiểu dáng nhất quán, được nghệ nhân tuân thủ triệt để. Bất kỳ
hình rồng ở di tích nào dù ở cách xa nhau, dù làm vào những năm khác nhau, dù
là kiến trúc vương quyền hay kiến trúc thần quyền, thì hình tượng con Rồng thời
Lý đều có kiểu dáng và cấu trúc chung.
Đầu Rồng với cổ ngước cao, mắt Rồng to tròn và hơi lồi, trên lông mày kết
xoắn hình số 3 ngửa (theo nhãn vòng Kim cô nhà Phật), và trán kết xoắn hình
chữ S ký hiệu hình chớp (ý niệm về hiện tượng tự nhiên sấm - chớp), uy lực của
Phật Pháp Lôi, Pháp Điện
Hai bên dưới mang tai có dải bờm nhiều tua kết vào nhau uốn lượn vút ra
sau. Chòm râu dưới cằm kết xoắn uốn lượn. Mũi Rồng cũng được kéo dài thành
hình vòi. Mào của Rồng hơi uốn khúc, chung quanh có viền kiểu ngọn lửa.
Quanh đầu mây quấn có những viên ngọc lơ lửng. Miệng rồng há rộng hứng
ngọc. Môi dưới ngắn, lưỡi dài uốn lượn vươn ra đỡ lấy viên ngọc. Hai hàm có
răng nanh nhọn kéo dài uốn cong liền sát mũi. (Cũng có loại đầu Rồng: cổ uốn
khúc xuống rồi ngược lên).
Đầu rồng thời Lý
Hình dáng thân Rồng thể hiện theo lối nhìn nghiêng, uốn lượn mềm mại (như
hình giun đất uốn lượn). Các khúc uốn lượn phình to và co lại gần nhau (như
hình túi phình đáy, miệng co) đặt xuôi, đặt ngược đều đặn, liên tục thu dần về
đuôi. Mình Rồng tròn để trơn (chỉ có vẩy trên thân rồng to, chạm nông nên trông
vẫn trơn mượt). Toàn bộ thân hình Rồng nở về phần đầu, thu nhọn về phía đuôi,
quy gọn vào một nửa hình lá Đề. Rồng Lý 4 chân có khuỷu và mỗi chân đều 3
móng.
Các di vật mỹ thuật thời Lý còn lại đến ngày nay không nhiều, những hình
tượng Rồng còn lại ở các Chùa (như Chùa Dạm, Chùa Phật Tích, Chùa Long
Đội, Chùa Chương Sơn, Chùa Quỳnh Lâm, Chùa Báo Ân, Chùa Linh Xứng,
Chùa Sùng Nghiêm, Chùa Diên Thánh ) và mới tìm thấy thêm ở Hoàng thành
Thăng Long (2000-2005) hình Rồng trên gốm thời đầu lập đô nhà Lý. Những
hình tượng Rồng không chỉ là mô típ trang trí chau chuốt, tinh tế, thanh mảnh
mà còn là hình tượng sinh động. Nội dung tư tưởng thẩm mỹ, bộc lộ ý nghĩa tín
ngưỡng dân gian cổ của cư dân nông nghiệp, tâm hồn khoáng đạt thanh cao, hàm
chứ.
Hình ảnh rồng thời Lý khá rõ nét mang khí thế thăng thiên tượng trưng cho khí thế của dân tộc
Trên các hiện vật điêu khắc đá và gốm còn truyền cho đến nay, các nhà khoa
học chỉ thấy rồng tạc dưới dạng phù điêu, không thấy chạm chìm và chạm tròn.
Đó là nhưng con rồng thân tròn lẳng, khá dài và không có vẩy, uốn khúc mềm
mại và thon dài từ đầu đến chân, rất nhẹ nhàng và thanh thoát. Các nhà nghiên
cứu gọi đây là rồng hình giun hay hình dây và điều đập vào mắt mọi người là nó
mang hình dạng của một con rắn.
Rồng thời Lý thường ngẩng đầu lên, miệng thì há to, mép trên của miệng
không có mũi, kéo dài ra thành một cái vòi uốn mềm mại, vươn lên cao, vuốt
nhỏ dần về cuối. Một chiếc răng nanh mọc từ cuối hàm trên, uốn cong và vắt qua
vòi mép ở trên, có trường hợp răng nanh rất dài, uốn lượn mềm mại để vươn lên,
hoặc với vòi lên bao lấy viên ngọc.
Thân rồng dài, dọc sống lưng có một hàng vảy thấp tỉa riêng ra từng cái, đầu
vây trước tua vào hàng vây sau. Bụng là đốt ngắn như bụng rắn, có bốn chân,
mỗi chân có ba ngón phiá trước, không có ngón chân sau. Vị trí của chân bao giờ
cũng đặt ở một chỗ nhất định. Chân trước mọc gần giữa khúc uốn thứ nhất, chân
đối xứng phía bên kia nằm gần cuối khúc uốn này. Hai chân sau bao giờ cũng ở
gần khoảng giữa khúc uốn thứ ba. Cả bốn chân đều có khủy phía sau và có móng
giống chân loài chim.
Rồng thời Trần (TK XIII- XIV):
Hình tượng con rồng thời Trần có nhiều biến đổi so với thời Lý. Rồng thời
Trần không còn mang nặng ý nghĩa mơ ước nguồn nước nữa. Dạng tự chữ "S"
dần dần mất đi hoặc biến dạng thành hình con, đồng thời xuất hiện thêm hai chi
tiết là cặp sừng và đôi tay. Đầu rồng uy nghi và đường bệ với chiếc mào lửa
ngắn hơn. Thân rồng tròn lẳn, mập mạp, nhỏ dần về phía đuôi, uốn khúc nhẹ,
lưng võng hình yên ngựa. Đuôi rồng có nhiều dạng, khi thì đuôi thẳng và nhọn,
khi thì xoắn ốc. Các vảy cũng đa dạng. Có vẩy như những nửa hình hoa tròn
nhiều cánh đều đặn, có vẩy chỉ là những nét cong nhẹ nhàng.
Cánh cửa gỗ chạm rồng ở chùa Phổ Minh thời Trần
Thân Rồng to mập, khoẻ chắc, khúc nới ra uốn lượn đều đặn hình sin thu dần
về đuôi. Đầu xuất hiện cặp sừng, đôi tai và những chi tiết mới. Hình dáng Rồng
uy nghi mang ý nghĩa mới của vương triều. Nổi rõ phong cách với những hình
khối, đường nét mập khỏe, tinh lọc giản dị, vững chãi mà không nặng nề, không
tĩnh của cốt cách truyền thống.
Rồng thời Trần có nhiều phá cách mới lạ
Tượng Rồng ở khu lăng mộ An Sinh (Thế kỷ XIV Đông Triều, Quảng Ninh)
điển hình là đôi tượng ở thành bậc cửa lăng vua Trần Anh Tông, dài 1.70m mình
tròn mập, đuôi dài và nhọn. Bốn chân to khỏe, có bốn móng nhọn. Đầu dữ tợn,
mào kéo dài ra phía trước, cặp sừng nhọn vút về phía sau. Bờm tóc to trải dài,
những chòm lông quanh cổ hình xoắn ốc dựng lên. Trên thân có chạm vẩy. Đôi
tượng Rồng (ở thành nhà Hồ, dài 3.60m) đầu bị gãy mất, còn lại từ má bờm uốn
sóng đều đặn trải dài nhọn. Thân Rồng dài và mập, có vẩy hình vòng cung, uốn
khúc cong sáu nhịp đều đặn thon đến cuối đuôi.
Hình dáng Rồng thời Trần đa dạng, nên trong cùng một thời gian, những chi
tiết hình Rồng đã có những khác nhau. Chẳng hạn: Có dạng đuôi thẳng vút nhọn,
lại có đuôi xoắn tròn, hay có đuôi chạm văn xoắn ốc. Có Rồng chạm 3 móng, lại
có Rồng 4 móng. Hình Rồng với bốn khúc uốn, trên bệ tượng Chùa Thanh Sam
(Ứng Hòa - Hà Tây(cũ)) chạm đầu quay lại nằm gọn trong khúc uốn lớn. Râu
uốn lượn dài, hai chân trước to, giơ ba móng. Cũng Rồng với bốn khúc uốn thì
chạm đá bệ tượng Chùa Đô Quan (Yên Khang, Ý Yên, Nam Định), khúc lớn
vòng qua đầu, ba khúc uốn còn lại gần như thẳng. Râu uốn lượn dài, hai chân
trước to bốn móng. Lại có hình Rồng với bảy khúc uốn chạm đá bệ tượng chùa
Thầy (Sài Sơn, Quốc Oai, Hà Tây) dáng Rồng trườn lên phía trước. Đầu ngước
ngậm ngọc, hai mào dài xoắn lại, bờm tỏa dài uốn lượn ra phía sau, vây rồng
nhọn cao. Bốn chân to với bốn móng nhọn, Còn có các đầu Rồng (đất nung) thấy
ở tháp Phổ Minh (Nam Định), hay ở Đông Triều - Quảng Ninh, ở Hoàng thành
Thăng Long. Hoặc có hình Rồng trang trí trên gạch gốm tráng men Chùa Hoa
Yên (Yên Tử - Quảng Ninh).trí tuệ uyên bác.
Rồng thời nhà Hồ :
Sang đến đời nhà Hồ thân hình của hình tượng rồng có phần mập mạp hơn
cho thấy sự sung sức, táo bạo của vương triều vừa mới sáng lập bằng cuộc cải
cách của Hồ Quý Ly.
Rồng thời nhà Hồ có thân hình mập mạp hơn
Rồng thời Lê sơ (TK XV) :
Thời Lê, khi Nho giáo thành quốc giáo, uy lực của nhà vua lên đến tột đỉnh,
thì hình dáng con rồng dũng mãnh hơn với móng quặp, sừng dài, bờm dựng…
Rồng không nhất thiết là một con vật mình dài rắn uốn lượn đều đặn nữa mà ở
trong nhiều tư thế khác nhau. Đầu rồng to, bờm lớn ngược ra sau, mào lửa mất
hẳn, thay vào đó là một chiếc mũi to.Thân rồng lượn hai khúc lớn. Chân có năm
móng sắc nhọn quắp lại dữ tợn. Rồng thời Lê tượng trưng cho quyền uy phong
kiến. Cũng chính bắt đầu từ thời đại này xuất hiện quan niệm tứ linh (bốn con
vật thiêng) tượng trưng cho uy quyền của vương triều Rồng đứng đầu trong tứ
linh. Ba vật thiêng kia là lân (tượng trưng cho sự thái bình và minh chúa), qui
(con rùa - tượng trưng sự bền vững của xã tắc) và phụng (tượng trưng cho sự
thịnh vượng của triều đại)
Phát triển trên cơ sở tiếp thu Rồng thời Trần, cơ bản vẫn giữ hình dáng thân
uốn cứng cáp, to khoẻ, mào và sừng ở đầu trông dữ hơn. Nổi bật hình tượng đôi
Rồng trên các thành bậc đá (làm thời vua Lê Thánh Tông (1470-1497)) như:
điện Lam Kinh (1433) và điện Kính Thiên (1467).
Rồng đá thềm điện Kính Thiên còn sót lại sau khi thực dân Pháp phá điện xây lô cốt
Đôi Rồng uốn khúc bò từ trên nền thềm điện xuống (đặt lối lên chính giữa).
Đầu Rồng to, có hai nhánh sừng nhô cao, mắt lồi, bờm mượt cuộn ra sau. Lưng
Rồng nhô hình vây nhọn theo khúc uốn. Một tay Rồng cầm lấy râu. Chân Rồng
chạm 5 móng sắc nhọn, các hình xoắn trang trí bên thân Rồng, kết hợp với mây
đao lửa. Đó là mô típ trang trí điển hình mang đặc trưng thời Lê Sơ. Hình tượng
Rồng trang nghiêm, râu bờm và sừng nổi cao dũng mãnh uy quyền.
Những chạm khắc trừu tượng hình rồng uốn khúc ở mặt ngoài thành bậc đá
của điện Lam Kinh (Thanh Hóa), Điện Kính Thiên, Đàn Nam Giao (Hà Nội)
trong khung tam giác vuông viền hình hoa chanh, đều chạm hoa văn hoa sen,
hoa cúc và lá cách điệu, mây xoắn cuộn, nổi ở giữa là hình đao ngọn lửa (gọi là
mây đao lửa). Còn thấy hình Rồng 4 móng kết với hình mây hoa lá trên các văn
bia (Văn Miếu). Những chạm khắc hình Rồng và các mô típ Mây đao lửa, hoa
văn với nét chạm sắc sảo, điêu luyện, bố cục chặt chẽ với đặc trưng riêng, tiêu
biểu phong cách thời Lê Sơ.
Rồng thời Mạc (TK XVI):
Hình tượng Rồng thời Mạc kế thừa rồng truyền thống Lý, Trần, và cả rồng
thời Lê sơ.
Đầu rồng đá thời Mạc
Đặc điểm chung: Thân mập, uốn lượn đều đặn, bờm kéo dài uốn theo xuống
nửa lưng, mây đao lửa điểm xuyết trên thân, sóng cuộn dưới bụng, chân ngắn,
lông khuỷu sợi đơn uốn xoắn. Đầu rồng có sừng hai chạc, hai mắt lồi, mũi sư tử,
mồm thú nhô ra phía trước. Các chân Rồng thường chạm 4 móng. Hình tượng
rồng phát triển trên các chạm khắc Chùa và Đình làng.
Rồng thời nhà Mạc uốn khúc thể hiện thời kỳ phân tranh
Còn hình: Rồng, phượng, lân trang trí trên gạch Chùa Ông, Chùa Trăm Gian,
và Chùa Bối Khê hoặc gốm đất nung: Rồng, Phượng, con Xô, con Kìm là gắn
trên bờ nóc, bờ giải, các đầu đao, tàu mái: cung điện, đình, chùa. Hiện còn thấy
hai đầu rồng: có sừng hai chạc, mắt lồi, tai to, mồm sư tử cao 0.85 cm trên hai bờ
mái ở Chùa Mui (Hà Tây cũ). Hình Rồng mây trang trí trên gốm dáng uốn lượn,
thân hình khỏe chắc. Đình là công trình to lớn, đòi hỏi nhu cầu thẩm mỹ với giá
trị nghệ thuật. Những thành phần kiến trúc gỗ vốn nặng nề, thô mộc của kết cấu
kiến trúc gỗ. Ta thấy chạm đề tài Tứ linh, như các đầu dư chạm Đầu Rồng ngậm
ngọc, đầu bẩy, các kẻ hiên chạm các đề tài như: Rồng cuốn thủy, Cá hóa Rồng.
Các cốn, các vì nóc chạm Rồng, Lân. Bức chạm gỗ Rồng Nho học ở Đình Vân
Sa (Ba Vì, Sơn Tây) độc đáo, thể hiện Rồng bố đang cầm bút nho chỉ bảo, các
Rồng con giơ sách dâng lên, nhằm ca ngợi việc học hành. Thể hiện rõ bàn tay
(người) cầm bút, tay dâng sách rất rõ. Hình tượng Rồng được nhân hóa, đó là nét
mới rồng gắn với đời thường.
Những chạm khắc ở Đình Thổ Hà (Bắc Giang), Đình Tây Đằng (Ba Vì, Sơn
Tây), Đình Lỗ Hạnh (Bắc Giang) thể hiện Rồng và các vật linh. Tượng Rồng
thành bậc (đá) Chùa Nhân Trai (Hải Phòng) uốn lượn đều đặn, sừng quặp ra sau,
bờm kéo dài uốn xuống lưng. Bia Chùa Trà Phương chạm khái quát Rồng
Phượng. Các hình Long - Lân Chùa Trăm Gian, Chùa Đậu, Chùa Bối Khê thể
hiện những bố cục sinh động, khối hình khỏe khoắn, đậm tính cách dân gian. Bia
đá thời Mạc phát triển, Rồng trang trí trên trán bia, diềm bia, các góc của bia.
Rồng thời Trịnh – Nguyễn phân tranh :
Thời Trịnh Nguyễn phân tranh, rồng vẫn còn đứng đầu trong bộ tứ linh
nhưng đã được nhân cách hóa, được đưa vào đời thường như hình rồng mẹ có
bầy rồng con quây quần, rồng đuổi bắt mồi, rồng trong cảnh lứa đôi.
Rồng thời Lê trung hưng (TK XVII):
(Một chiếc đỉnh bằng gốm trang trí đắp nổi rồng và nghê
được làm vào năm 1736 (thời Cảnh Hưng) tại làng Bát Tràng.)
Thời này phục hưng những giá trị nghệ thuật truyền thống nhà Lê. Hình rồng
là mô típ tiêu biểu, đặc trưng, thoát khỏi hình thức khuôn mẫu, để trở về nguồn,
với ý nghĩa giá trị sáng tạo mới. Hình Rồng với đầu nhô, có sừng, hai râu mép
dài uốn lượn duỗi ra phía trước, tạo dáng rồng thêm sinh động. Rồng kết hợp hoa
văn mây lửa vẽ men xanh lưu loát. Kỹ thuật vẽ men màu và kỹ thuật đắp nổi trên
gốm điêu luyện. Đặc điểm hình Rồng cũng có thay đổi. Đầu Rồng đơn giản,
thường chỉ thấy râu cằm thưa nhọn, bờm ngắn tỏa hình quạt. Mào Rồng thanh
mảnh uốn lượn kéo dài ra phía trước, hoặc rủ xuống hai bên. Các hình mây đao
lửa thường vút lên từ đầu các chân Rồng. Hình Rồng với mây đao lửa vẫn duy trì
nhưng ở cuối thế kỷ XVII các mây đao lửa có chiều hướng ngắn lại, và thưa. Độ
uốn lượn của đao mây ít lại, thường chỉ còn hai khúc uốn rồi bắt sang chiều
ngang của đao mây.
Rồng đã có nhiều hình thức biểu hiện như rồng đàn, rồng ô, trúc hóa long,
long vân.
Rồng Lê Trung Hưng tương tự rồng Lê sơ nhưng trông hiền hơn, dáng dấp tự
do thoải mái hơn - mắt và tai lớn, tai giống cánh chim - đuôi phần cuối múp,
thẳng. Đã có con có thêm bờm và hơi xoắn lại.
Hình tượng con rồng thời kì này mang nhiều khát vọng của người dân: mong
mưa thuận, gió hòa, khát vọng công bằng xã hội.
Rồng thời Tây Sơn:
Bờm tóc xõa, mình mập và ngắn. Hầu hết đuôi đều xoắn
(Rồng thời Tây Sơn trên đồng tiền Cảnh Thịnh)
Rồng thời Lê Mạt (TK XVIII):
Rồng trên mái nhà ở Hội An
Hình Rồng thân ngắn và các khúc uốn thường chỉ 3 đến 4 lần cong uốn, chỉ
làm to khúc uốn liền đầu, các khúc sau thường ngắn và thuôn gần thẳng về đuôi.
Chân Rồng 4 móng. Hình mây đao lửa gần như mất. Mây chuyển sang các hình
dải thưa vắt vào chân Rồng, điển hình như: Hai Rồng chầu mặt trời chạm đá bia
Chùa Chuông 1711 (Hưng Yên), và chạm đá bia Đền Din (Nam Dương - Nam
Ninh - Nam Định). Hoặc hình Rồng biến thành hình mây, như: Hai Rồng mây
hóa chầu mặt trời chạm đá bia Chùa Côn Sơn 1788 (Chí Linh - Hải Dương).
Rồng thời Nguyễn (TK XIX - đầu TK XX):
Áo gấm hoàng bào của vua Nguyễn thêu hình rồng
Đến thời nhà Nguyễn trở lại vẻ uy nghi tượng trưng cho sức mạnh thiêng
liêng. Rồng được thể hiện ở nhiều tư thế, ẩn mình trong đám mây, hoặc ngậm
chữ thọ, hai rồng chầu mặt trời, chầu hoa cúc, chầu chữ thọ Phần lớn mình
rồng không dài ngoằng mà uốn lượn vài lần với độ cong lớn. Đầu rồng to, sừng
giống sừng hươu chĩa ngược ra sau. Mắt rồng lộ to, mũi sư tử, miệng há lộ răng
nanh. Vậy trên lưng rồng có tia, phân bố dài ngắn đều đặn. Râu rồng uốn sóng từ
dưới mắt chìa ra cân xứng hai bên. Hình tượng rồng dùng cho vua có năm móng,
còn lại là bốn móng.
Rồng nhà Nguyễn trở lại vẻ uy nghi tượng trưng cho sức mạnh thiêng liêng
Rồng Nguyễn ở thế kỷ XIX hình tượng con Rồng còn giữ những nét đẹp do
kế thừa tinh hoa truyền thống, có độ uốn lượn đều đặn, chau chuốt, phần lớn là
thanh mảnh và tinh tế. Đặc điểm chỏm đầu thường bẹt, nổi vừa phải. Mắt là hai
u tròn, mũi gồ, miệng hé mở lộ răng nanh nhọn. Sừng hai chạc cong ra phía sau.
Tóc nhiều chẽ xoè kiểu nan quạt và hơi lượn sóng. Thân Rồng chạm vẩy, hàng
vây lưng hình tam giác nhô cao nhọn. đuôi Rồng lượn sóng. Chân Rồng có hai
cặp trước và sau, các móng thường chõe ra. Những Rồng trong cung vua thường
chạm 5 móng. Rồng thành bậc kiến trúc thân mập, khúc uốn thấp. Rồng trang trí
quanh cột gỗ sơn son, hoặc trang trí quanh cột đồng (như ở Ngọ Môn, Lăng
Minh Mạng, Lăng Tự Đức, Lăng Thiệu Trị, Lăng Đồng Khánh).
( Long ấn thời Nguyễn )
Đến TK XX cuối thời Nguyễn, con Rồng sử dụng nhiều đường cong uốn vừa
phải, thể hiện đao và tóc Rồng thô cứng. Đầu lớn có vẻ hung dữ, mắt to tròn,
mũi nở, miệng mở rộng, răng cửa nhọn, thân dài và mảnh yếu, đuôi Rồng lượn
sóng hoặc tõe các tua đuôi. Hình Rồng Nguyễn còn lại tương đối nhiều ở các di
tích chùa, đình từ Huế ra vùng đồng bằng sông Hồng.
***
Qua phong cách rồng của từng thời toát lên đặc trưng của thời đại đó. Đến
nay hình tượng con rồng vẫn còn được sử dụng nhiều trong các đồ án trang trí
nhất là ở những nơi sang trọng, cao quý, linh thiêng.