Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

bài tâp tô chưc và hoạt đong cua tòa án nhân dân và Viện kiển sát nhân dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.67 KB, 13 trang )

Bài tập lớn học kì Sinh viên thực hiện: Ly A Dính
MỞ ĐẦU
Hoạt động xét xử của Tòa án là hoạt động nhân danh quyền lực của Nhà nước
để tuyên một bản án kết tội hay không kết tội bị cáo. Phán quyết của Tòa án ảnh
hưởng trực tiếp đến lợi ích của Nhà nước, tổ chức xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân. Yêu cầu cao nhất đối với Tòa án là bằng hoạt động xét xử của mình
phải xét xử khách quan, đúng pháp luật, đảm bảo công bằng cho các bên đương sự. Vì
vậy nhằm đảm bảo cho Tòa án thực hiện đúng chức năng xét xử có hiệu quả, Nhà
nước ta đã đưa ra những quy định chặt chẽ nhằm điều chỉnh hoạt động xét xử của Tòa
án bằng việc ghi nhận các nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự, trong đó có nguyên
tắc “Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Tuy nhiên
trên thực tế, không phải khi nào nguyên tắc này cũng được hiểu đúng, đầy đủ và thực
hiện một cách hiệu quả. Để tìm hiểu rõ hơn về nguyên tắc này em xin chọn đề:
Nguyên tắc: “Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật,
nghiêm cấm các cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệt vào việc xét xử của Thẩm phán,
Hội thẩm” theo pháp luật hiện hành- thực tiễn và áp dụng để làm bài tập học kì của
mình.
NỘI DUNG
I. Những vấn đề chung về nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật, nghiêm cấm các cơ quan , tổ chức, cá nhân can thiệt
vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm.
1. Cơ sở pháp lý nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật
Hoạt động xét xử của Tòa án là hoạt động nhân danh quyền lực của Nhà nước
để tuyên một bản án kết tội hay không kết tội bị cáo. Phán quyết của Tòa án ảnh
hưởng trực tiếp đến lợi ích của Nhà nước, tổ chức xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân. Do đó, yêu cầu tối cao và cũng là cái mốc để đánh giá hiệu quả của
công tác xét xử là phải khách quan, toàn diện, đầy đủ, đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật, không để lọt tội phạm, không xử oan người vô tội. Muốn vậy, khi xét xử,
Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Đây là một
nguyên tắc hiến định được ghi nhận trong Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959, Hiến


~ 1 ~
Bài tập lớn học kì Sinh viên thực hiện: Ly A Dính
pháp 1980, Hiến pháp 1992 được sửa đổi bổ sung năm 2001 và hiến pháp năm 2013
quy định rất rõ về nguyên tắc này trong khoản 2, Điều 103, Điều 5 Luật Tổ chức Tòa
án nhân dân và Điều 16 Bộ luật Tố tụng hình sự (Bộ luật TTHS) năm 2003: “khi xét
xử, Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Tuy nhiên trên
thực tế, không phải khi nào nguyên tắc này cũng được hiểu đúng, đầy đủ và thực hiện
triệt để.
2. Khái niệm nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật
Nguyên tắc là “những quy định, phép tắc,tiêu chuẩn cơ sở, chỗ dựa để xem xét,
làm việc.
Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền xét xử và kết luận một người có tội và
không có tội,quyết định các hình phạt và các vấn đề liên quan đến các quyền của công
dân như bồi thường, các biện pháp ngăn chặn…Do tính chất quan trọng của hoạt động
xét xử phải tuân theo trình tự, thủ tục và nguyên tắc nhất định.
Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật nghĩa là phải tự mình đưa ra kết luận giải quyết vấn
đề trên cơ sở quy định của pháp luật mà không phụ thuộc vào bất cứ yếu tố nào khác.
Đó là tư tưởng chủ đạo, định hướng trở thành xử sự bắt buộc chung đối với Thẩm
phán và Hội thẩm khi được phân công xét xử vụ án.
Từ những khái niệm trên có thể đưa ra định nghĩa về nguyên tắc trên như sau:
“Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là
những tư tưởng chỉ đạo có tính bắt buộc thể hiện quan điểm của nhà nước trong hoạt
động xét xử được quy định trong luật TTHS và hiến pháp năm 2013, theo đó chỉ có
Thẩm phán và Hội thẩm mới có quyền đưa ra phán quyết trên cơ sở quy định của
pháp luật để giải quyết vụ án một cách khách quan, chính xác”.
II. Nội dung nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật, nghiêm cấm các cơ quan , tổ chức, cá nhân căn thiệt vào việc xét xử của
Thẩm phán, Hội thẩm.
Theo Từ điển tiếng Việt: “Độc lập là đứng một mình, không dựa vào ai, không

nhờ cậy ai, không bị ai kiềm chế”. Nội dung độc lập trong nguyên tắc này được hiểu
dưới hai khía cạnh đó là độc lập với các yếu tố bên ngoài và độc lập với các yếu tố
bên trong.
~ 2 ~
Bài tập lớn học kì Sinh viên thực hiện: Ly A Dính
Độc lập với các yếu tố bên ngoài đó là: khi nghiên cứu hồ sơ cũng như khi xét
xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân không bị phụ thuộc vào kết luận điều tra của cơ
quan điều tra, không bị lệ thuộc vào cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát. Không phụ
thuộc vào ý kiến của các cơ quan khác hay của Tòa án cấp trên,
Độc lập với các yếu tố bên trong đó là: khi xét xử, các thành viên của Hội đồng
xét xử độc lập với nhau trong việc nghiên cứu hồ sơ, xem xét đánh giá chứng cứ và
đưa ra kết luận sự việc phạm tội, người phạm tội, mức hình phạt mà không bị phụ
thuộc vào quan điểm của các thành viên khác trong Hội đồng xét xử. Chỉ có thành
viên của Hội đồng xét xử mới được tham gia nghị án. Hội thẩm nhân dân biểu quyết
trước, Thẩm phán là người biểu quyết sau cùng. Các vấn đề của vụ án phải được giải
quyết bằng biểu quyết và quyết định theo đa số. Người có ý kiến thiểu số có quyền
trình bày ý kiến của mình bằng văn bản và được lưu trong hồ sơ vụ án.
Yêu cầu chỉ tuân theo pháp luật đối với quá trình xét xử của Thẩm phán và Hội
thẩm được hiểu,mọi phán quyết và nhận định, đánh giá của Thẩm phán và Hội thẩm
trong quá trình xét xử phải hoàn toàn dựa trên cơ sở các quy định của pháp luật, không
bị ràng buộc, không bị chi phối bởi bất kỳ một cơ quan nào.
1. Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập.
Thẩm phán và Hội thẩm là các thành viên của Hội đồng xét xử tại Tòa án. Do
Tòa án là cơ quan nhà nước duy nhất có quyền xét xử và quyết định một người có tội
hay không có tội, là trọng tài trong các vụ án, vì vậy quyết định của tòa án phải là
quyết định khách quan, chính xác. Độc lập trong khi xét xử có nghĩa là Thẩm phán và
Hội thẩm tự đưa ra quyết định dựa trên chứng cứ và quy định của pháp luật để kết luận
về vụ án mà không phụ thuộc bất cứ sự tác động nào khác.Sự độc lập của Thẩm phán
và Hội thẩm trong quá trình xét xử được thể hiện ở những khía cạnh sau:
a. Thẩm phán và Hội thẩm độc lập với nhau trong khi xét xử

Việc độc lập xét xử giữa Thẩm phán và Hội thẩm được ghi nhận thành những
nguyên tắc của luật tố tụng, đó là: việc xét xử của TAND có Hội thẩm nhân dân tham
gia, của Tòa án quân sự có Hội thẩm quân nhân tham gia. Khi xét xử, Hội thẩm ngang
quyền với Thẩm phán. Luật quy định như vậy có nghĩa là, mỗi một thành viên trong
HĐXX có quyền ngang nhau trong việc đánh giá chứng cứ và đưa ra kết luận vụ án.
Việc đánh giá chứng cứ, kết luận vụ án được thực hiện một cách độc lập, Thẩm phán
không có quyền chỉ đạo Hội thẩm trong việc định tội danh, quyết định hình phạt, Hội
thẩm cũng không được ỷ lại vào quyết định của Thẩm phán mà phải tích cực, chủ
động và có trách nhiệm trong hoạt động chứng minh tội phạm. Trước khi mở phiên
tòa, khi Hội thẩm nghiên cứu hồ sơ vụ án, Thẩm phán không được đưa ra ý kiến, nhận
định chủ quan của riêng mình để tránh ảnh hưởng đến sự đánh giá chứng cứ của Hội
thẩm tại phiên tòa.
b. Thẩm phán và Hội thẩm độc lập với các chủ thể khác của Tòa án:
~ 3 ~
Bài tập lớn học kì Sinh viên thực hiện: Ly A Dính
Mối quan hệ giữa Thẩm phán, Hội thẩm và nội bộ ngành Tòa án được thể hiện ở
mối quan hệ giữa Thẩm phán với Chánh án và các đồng nghiệp khác trong Tòa án,
giữa Thẩm phán và Tòa án cấp trên, giữa Thẩm phán và Chánh án Tòa án nhân dân tối
cao, giữa Hội thẩm và Chánh án tòa nơi Hội thẩm tham gia xét xử. Những quan hệ này
không đơn thuận là quan hệ về tổ chức hành chính, càng không đơn thuần là quan hệ
tố tụng. Trong quan hệ hành chính có quan hệ tố tụng và trong quan hệ tố tụng có quan
hệ hành chính nhất định, không có sự tách bạch rõ ràng. Việc Tòa án cấp trên hủy bán
án của Tòa cấp dưới cũng ảnh hưởng đến tính độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm.
Chính vì vậy, khi xét xử, để đưa ra được phán quyết một cách chính xác và khách
quan, Thẩm phán và Hội thẩm cần phải đảm bảo độc lập với ý kiến, sự tác động của
Chánh án và Tòa án cấp trên, phải có chính kiến và quan điểm riêng của mình trong
việc xem xét các vấn đề cụ thể trong quá trình xét xử.
c. Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập với các cơ quan tiến hành tố tụng
khác:
Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm không được dựa vào kết luận của Cơ quan

điều tra, quyết định của Viện kiểm sát, mà phải tự mình nghiên cứu toàn bộ hồ sơ vụ
án, kết hợp với những chứng cứ mới thu được tại phiên tòa xét xử để có kết luận riêng
của mình đối với từng vấn đề. Đồng thời, các cơ quan quản lý không được can thiệp
vào việc xét xử của tòa án, vì công tác xét xử đã được nhà nước giao duy nhất cho tòa
án. Những kết quả điều tra của Cơ quan điều tra hay bản cáo trạng của Viện kiểm sát
chỉ làm căn cứ bổ sung cho việc xem xét của Tòa án một cách chính xác hơn, khách
quan hơn chứ không phải Tòa án chỉ dựa hoàn toàn vào những căn cứ đó để đưa ra
phán quyết, nếu như vậy thì vai trò trọng tài của Tòa án đặt ra là hoàn toàn không có
giá trị.
d. Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập với yêu cầu của những người
tham gia tố tụng, với dư luận và với cơ quan báo chí.
Phán quyết của tòa án bao giờ cũng làm xuất hiện những nhóm mâu thuẫn về lợi
ích, đó là mâu thuẫn về lợi ích của bị cáo với người bị hại, giữa nguyên đơn dân sự và
bị đơn dân sự, giữa nhà nước và người phạm tội. Ai cũng muốn kết quả xét xử mang
lại kết quả tối ưu nhất cho họ, hoặc ít ra là tước bỏ tối thiểu quyền và lợi ích của họ.
Sau phán quyết của Tòa án dư luận sẽ có rất nhiều ý kiến bình luận, trong đó có cả cơ
quan báo chí về việc Tòa án xử đúng hay xử sai, nặng hay nhẹ, công bằng hay không.
Việc này ảnh hưởng khá lớn đến tâm lí của Thẩm phán và Hội thẩm khi thực hiện
nhiệm vụ xét xử. Xét xử theo luật hay theo ý kiến của dư luận, báo chí yêu cầu, hay xử
vì lợi ích của người bị hại? Xử đúng chưa chắc đã được dư luận, báo chí đồng tình, lại
không đảm bảo theo yêu cầu của những người tham gia tố tụng. Thẩm phán và Hội
thẩm xét xử độc lập với người tham gia tố tụng, với dư luận và cơ quan báo chí là việc
xét xử chỉ căn cứ vào chứng cứ vụ án và những quy định của pháp luật, không phụ
thuộc vào ý kiến của những người nói trên.
~ 4 ~
Bài tập lớn học kì Sinh viên thực hiện: Ly A Dính
Ngoài ra, tính độc lập trong khi xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm còn được
thể hiện ở việc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập với sự chỉ đạo của các cấp ủy
Đảng, độc lập với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án.
2. Thẩm phán và Hội thẩm xét xử chỉ tuân

theo pháp luật
C.Mác đã nói : “Cấp trên của quan tòa là pháp luật” có nghĩa là, khi xét xử,
pháp luật-ý chí của Nhà nước chính là cấp trên của Hội đồng xét xử mà không phải là
một cơ quan, hay cá nhân nào. Dựa vào các quy định do Nhà nước đặt ra để Thẩm
phán và Hội thẩm đưa ra các phán quyết khi xét xử.
Khoản 2, Điều 103 Hiến pháp Việt Nam 2013 quy định: “ Thẩm phán, Hội
thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân
can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm”. Trong các Hiến pháp được ban
hành vào các năm 1946, 1959, 1980, 1992 và Luật tổ chức Toà án nhân dân ban hành
vào các năm 1960, 1981, 1992 và 2002, nguyên tắc này luôn được khẳng định. Từ đây
có thể thấy được vai trò, tầm quan trọng và ý nghĩa to lớn của nguyên tắc này trong
quá trình xét xử.
Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập không có nghĩa là xét xử tùy tiện
mà việc xét xử phải tuân theo pháp luật. Nó đòi hỏi “Thẩm phán và Hội thẩm không
một bước xa rời pháp luật, không có bất kỳ một sự lẩn tránh nào đối với pháp luật,
không tha thứ cho bất kỳ một hành vi vi phạm pháp luật nào”. Đó là đòi hỏi tính chất
bắt buộc. Việc xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm chỉ dựa trên những quy định của
pháp luật và pháp luật là căn cứ duy nhất để quyết định các vấn đề giải quyết vụ án.
Pháp luật là tối thượng trong quá trình xét xử. Nhà nước, có nhiệm vụ làm cho những
quy định của Nhà nước trong luật được hiện thực trên thực tế, vì vậy cũng chỉ phải
tuân thủ duy nhất một thứ, đó là pháp luật.
Nội dung Thẩm phán và Hội thẩm chỉ tuân theo pháp luật trong quá trình xét
xử được hiểu trên những khía cạnh sau:
Tuân thủ theo pháp luật hình sự: Luật hình sự nói chung bao gồm cả luật thực
định và khoa học về luật hình sự. Bộ luật hình sự có hai phần, phần chung và phần các
tội phạm. Phần chung quy định về phạm vi áp dụng, các trường hợp phạm tội, tình tiết
tăng nặng giảm nhẹ, tổng hợp hình phạt, tuổi chịu trách nhiệm hình sự Phần các tội
phạm quy định cụ thể các hành vi như thế nào thì bị coi là tội phạm và các khung hình
phạt, mức hình phạt tương ứng với các trường hợp phạm tội. Muốn áp dụng đúng các
quy định của Bộ luật hình sự buộc Thẩm phán và Hội thẩm phải có kiến thức về định

tội danh, về quyết định hình phạt.
Tuân thủ theo pháp luật tố tụng hình sự: Có thể chia hoạt động xét xử của
Thẩm phán và Hội thẩm thành hai giai đoạn, thứ nhất là từ khi có quyết định đưa vụ
án ra xét xử đến trước ngày mở phiên tòa và thứ hai là tại phiên tòa.Trong cả hai giai
~ 5 ~
Bài tập lớn học kì Sinh viên thực hiện: Ly A Dính
đoạn này, Hội đồng xét xử đều phải tuân thủ những quy định mà pháp luật tố tụng hình
sự đưa ra ở từng giai đoạn như trước khi mở phiên tòa, tại phiên tòa, khi tranh luận,
khi nghị án.
Ngoài việc phải tuân theo các quy đinh trong Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng
hình sự, hai bộ luật có vai trò quan trọng trong việc đưa ra các quy định về nội dung
xét xử và cách thức tiến hành xét xử thì khi xét xử, Hội đồng xét xử còn phải tuân
theo các văn bản pháp luật có liên quan:
Thứ nhất là pháp luật dân sự: Khi giải quyết vụ án hình sự, cùng với việc
quyết định vấn đề tội danh, mức hình phạt, xử lý vật chứng, Hội đồng xét xử còn phải
xử lý phần dân sự trong vụ án hình sự, chủ yếu là việc giải quyết bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng. Yêu cầu giải quyết vấn đề trên đòi hỏi Hội đồng xét xử phải cần nắm
rõ những quy định của các văn bản pháp luật dân sự về căn cứ bồi thường, mức bồi
thường, nguyên tắc bồi thường. Các quyết định này phải dựa vào pháp luật dân sự và
các văn bản hướng dẫn trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc tự định đoạt của đương sự,
không được phép quyết định cảm tính, chủ quan, dựa vào tình cảm cá nhân để ấn định
mức bồi thường.
Thứ hai là pháp luật chuyên ngành khác: Hoạt động định tội danh là một hoạt
động khá phức tạp, đòi hỏi những người làm công tác xét xử phải có kiến thức tổng
hợp về pháp luật chứ không đơn thuần là chỉ hiểu biết các quy định của luật hình sự.
Một số tội danh không được mô tả cụ thể trực tiếp tại điều luật của bộ luật hình sự mà
hành vi cụ thể được quy định ở các luật, văn bản pháp luật chuyên ngành như nhiều tội
trong Chương các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, các tội xâm
phạm liên quan đến từng lĩnh vực cụ thể như y tế, xây dựng
Ngoài ra, thẩm phán và hội thẩm cũng phải nắm chắc các văn bản hướng dẫn

của Tòa án nhân dân tối cao, các thông tư liên ngành để giải quyết chính xác các
trường hợp cụ thể.
3. Mối liên hệ giữa tính độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong hoạt động xét
xử của Thẩm phán và Hội thẩm
Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, không có nghĩa là tách rời đường lối
chính sách của Đảng. Đảng không chỉ đạo xét xử từng vụ án cụ thể nhưng Đảng chỉ ra
đường lối xét xử trong từng giai đoạn cách mạng và đối với từng loại án. Độc lập xét
xử cũng không có nghĩa là không có sự kiểm sát và giám sát. Tòa án cấp trên có quyền
thẩm tra những bản án và quyết định của Tòa án cấp dưới và hủy bỏ chúng trong
trường hợp trái pháp luật hoặc không có cơ sở đúng đắn. Thẩm phán và Hội thẩm xét
xử độc lập không có nghĩa là xét xử tùy tiện mà phải tuân theo pháp luật. Hoạt động
~ 6 ~
Bài tập lớn học kì Sinh viên thực hiện: Ly A Dính
của người Thẩm phán, Hội thẩm và luật pháp có mối liên hệ luôn luôn thống nhất với
nhau và không thể tách rời nhau.
Như vậy, “độc lập” và “chỉ tuân theo pháp luật” có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau. Độc lập là điều kiện cần thiết để Thẩm phán và Hội thẩm khi xét xử chỉ tuân
theo pháp luật. Tuân theo pháp luật là cơ sở không thể thiếu để Thẩm phán và Hội
thẩm độc lập khi xét xử. Mối quan hệ này ràng buộc. Nếu chỉ độc lập mà không tuân
theo pháp luật thì dễ dẫn đến tình trạng xét xử tùy tiện, độc đoán.
Thẩm phán và Hội thẩm độc lập khi xét xử có nghĩa là khi tiến hành xét xử họ
không bị lệ thuộc vào những ý kiến của những cơ quan, tổ chức, người có chức vụ
quyền hạn hay một người nào đó, không phụ thuộc vào ý kiến của những cơ quan,
những người tiến hành và tham gia tố tụng. Không ai, không một cơ quan nào có
quyền can thiệp vào hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm; không ai, không
một cơ quan nào có thể dùng áp lực và tác động đối với họ trong quá trình giải quyết
vụ án.
Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập với nhau. Thẩm phán và Hội thẩm
là thành viên của hội đồng xét xử độc lập với nhau trong việc nghiên cứu hồ sơ, xem
xét đánh giá chứng cứ và đưa ra các kết luận về sự việc phạm tội và người thực hiện

tội phạm, không lệ thuộc vào quan điểm, chính kiến của thành viên khác trong Hội
đồng xét xử.
Sự độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm khi xét xử còn được thể hiện trong quan
hệ giữa các cấp xét xử. Tòa án cấp trên không được quyết định hoặc gợi ý cho Tòa án
cấp dưới trước khi xét xử một vụ án cụ thể. Đồng thời, khi xét xử phúc thẩm, giám đốc
thẩm, Thẩm phán cũng không bị lệ thuộc bởi các nhận định, những phán quyết của
Tòa án cấp dưới.
4. Ý nghĩa của nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật
Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập. Nội dung này đảm bảo tính khách
quan, công bằng của các quyết định do Tòa án đưa ra, đề cao trách nhiệm và tính tự
chủ của Thẩm phán và Hội thẩm, bảo đảm hoạt động của hoạt động xét xử. Tính độc
lập của Thẩm phán và Hội thẩm thể hiện trong mối quan hệ với các cấp xét xử.
Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm chỉ tuân theo pháp luật. Điều này có nghĩa
rằng khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải tuân thủ, dựa vào các quy định
~ 7 ~
Bài tập lớn học kì Sinh viên thực hiện: Ly A Dính
của pháp luật để giải quyết vụ án, chứ không được tùy tiện, chủ quan trong việc áp
dụng pháp luật. Khi thực hiện hoạt động xét xử – hoạt động gắn liền với việc củng cố
pháp chế và trật tự pháp luật, Thẩm phán và Hội thẩm càng phải nghiêm chỉnh tuân
theo pháp luật. Pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự là những chuẩn mực, căn
cứ để Thẩm phán và Hội thẩm xem xét, đối chiếu với sự việc đã xảy ra, với hành vi
được đưa ra xét xử. Trên cơ sở các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử sẽ đưa ra
các phán quyết của mình về việc phạm tội và hành vi phạm tội của bị cáo một cách
chính xác, phù hợp với diễn biến thực tế của vụ án đã xảy ra. Ngoài việc tuân theo
pháp luật khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm không bị phụ thuộc bởi bất kì điều kiện
nào.
Thẩm phán và Hội thẩm độc lập xét xử, nhưng độc lập trong khuôn khổ tuân
theo pháp luật. Nội dụng độc lập khi xét xử và nội dung chỉ tuân theo pháp luật có mối
liên hệ rất chặt chẽ.

III. Thực tiễn áp dụng và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện
nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật
1. Thực tiễn áp dụng nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật và một số nguyên nhân
Nguyên tắc “khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật” là nguyên tắc quan trọng được ghi nhận rất sớm trong Hiến pháp và pháp
luật. Trên thực tế, nguyên tắc này đã được các chủ thể của hoạt động xét xử tuân thủ
và ngày càng phát huy ý nghĩa tích cực của nguyên tắc, đảm bảo hoạt động xét xử của
tòa án được khách quan, đúng pháp luật, hạn chế đến mức tối đa oan sai, thiếu chính
xác.
Việc thực hiện nguyên tắc trên đã đạt được một số thành tựu trên thực tế, tuy nhiên,
vẫn còn một số hạn chế cần khắc phục biểu hiện ở những mặt sau:
Thứ nhất, hoạt động xét xử chủ yếu là hoạt động của Thẩm phán, Hội thẩm
chưa phát huy hết quyền năng được giao khi thực hiện nhiệm vụ xét xử. Vai trò của
Hội thẩm không chỉ được ghi nhận ở nguyên tắc trên mà còn được quy định bằng một
loạt các nguyên tắc và quy định khác trong BLTTHS như thực hiện chế độ xét xử có
Hội thẩm tham gia (Điều 15 BLTTHS), Hội thẩm có quyền nghiên cứu hồ sơ vụ án
trước khi mở phiên tòa, tiến hành các hoạt động tố tụng và biểu quyết các vấn đề thuộc
thẩm quyền của Hội đồng xét xử (Điều 40 BLTTHS)… Tuy nhiên, trên thực tế dường
như Hội thẩm chưa phát huy được hết quyền năng của mình. Có những vị Hội thẩm
chỉ đến nghiên cứu cáo trạng hoặc không nghiên cứu hồ sơ những vẫn tiến hành hoạt
~ 8 ~
Bài tập lớn học kì Sinh viên thực hiện: Ly A Dính
động xét xử tại phiên tòa… Hội thẩm rơi vào tình trạng lệ thuộc, thiếu chủ động trong
quá trình chứng minh tội phạm cũng như việc quyết định bản án.
Thứ hai, Thẩm phán và Hội thẩm còn lệ thuộc vào kết quả điều tra ban đầu,
những thông tin, tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Trong nhiều trường hợp, Hội đồng xét
xử tin vào kết quả điều tra có trong hồ sơ vụ án nên có thành kiến bị cáo có tội, từ đó
đặt ra những câu hỏi mang tính áp đặt, buộc bị cáo khai đúng với lời khai trước đó,…

Từ đó dẫn đến tình trạng bản án được xét xử theo kết luận của Cơ quan điều tra và cáo
trạng của Viện kiểm sát.
Thứ ba, còn có sự tác động từ các nhân tố bên ngoài tới việc xét xử của Thẩm
phán và Hội Thẩm nhân dân như: sự tác dộng của Chánh án, sự tác động của các cấp
Đảng ủy, của các cá nhân, tổ chức khác, của cơ quan báo chí, dư luận,… Hiện nay,
Tòa án cấp trên quản lý Tòa án cấp dưới cả về tổ chức, tài chính và chỉ đạo chuyên
môn nghiệp vụ, do đó dễ dẫn đến sự vi phạm nguyên tắc xét xử độc lập của Thẩm
phán và Hội thẩm khi mà Tòa án cấp dưới chịu nhiều sự tác động của Tòa án cấp trên
trong quá trình xét xử.
Sở dĩ còn tồn tại những hạn chế trên là do nhiều nguyên nhân như: thiếu một hệ
thống pháp luật hoàn chỉnh; tổ chức và hoạt động của Tòa án còn nhiều bất cập; sự
hạn chế trong trình độ chuyên môn nghiệp vụ của Hội thẩm và Thẩm phán; vấn đề đạo
đức nghề nghiệp chưa được coi trọng thực sự; chế độ ưu đãi đối với Thẩm phán và
Hội thẩm chưa đúng mức, trong khi sự phát triển của nền kinh tế theo cơ chế thị
trường đặt yếu tố lợi ích lên hàng đầu cũng ảnh hưởng đến Thẩm phán và Hội thẩm
Do đó, cần thiết phải có những giải pháp cụ thể để khắc phục kịp thời những hạn chế
trên.
2. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của nguyên tắc Thẩm phán và Hội
thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
Để nâng cao tính độc lập trong xét xử của các Hội đồng xét xử, hạn chế tối đa
oan sai, tiêu cực; xét xử đúng người, đúng tội thực hiện nghiêm túc Nghị quyết số
49/NQ-TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp và nâng
cao hoạt động xét xử thực tiễn khi áp dụng nguyên tắc thì chúng ta cần phải làm tốt
một số nội dung sau:
Thứ nhất, các Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải nâng cao trình độ chuyên
môn nghiệp vụ, giữ gìn đạo đức, lương tâm nghề nghiệp. Các Thẩm phán phải được
đào tạo chuẩn (có trình độ tốt nghiệp đại học và trên đại học chuyên ngành luật) và
thường xuyên được cập nhật những kiến thức mới về tin học, ngoại ngữ, pháp luật
quốc tế. Đồng thời, có tinh thần dũng cảm, dám đấu tranh cho sự công bằng, bảo vệ lẽ
~ 9 ~

Bài tập lớn học kì Sinh viên thực hiện: Ly A Dính
phải. Chỉ khi Thẩm phán có một trình độ chuyên môn cao với cái tâm trong sáng, tôn
trọng sự công bằng, thì họ mới không bị chi phối bởi những suy nghĩ lệch lạc hoặc
những tác động bên ngoài mang tính chất vụ lợi cá nhân. Khi đó, Thẩm phán sẽ có
niềm tin nội tâm vững chắc để xét xử đúng pháp luật. Cùng với Thẩm phán, các Hội
thẩm nhân dân cũng phải được bồi dưỡng tập huấn nâng cao kiến thức pháp luật, kỹ
năng xét xử để đủ năng lực khi xét xử. Cần hoàn thiện các quy định để nâng cao trách
nhiệm của Thẩm phán như quy định về kỷ luật, quy định về bãi miễn khi Thẩm phán
vi phạm phẩm chất đạo đức hoặc năng lực xét xử yếu kém. Bởi vì, pháp luật quy định
người Thẩm phán độc lập trong xét xử thì họ cũng phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về
những phán quyết của mình.
Thứ hai, xây dựng và củng cố các cơ quan, tổ chức, bổ trợ tư pháp vững mạnh.
Thực tiễn xét xử cho thấy, hoạt động của các cơ quan bổ trợ tư pháp như luật sư, công
chứng, giám định, hộ tịch… tuy không trực tiếp quyết định các bản án, nhưng sự
khách quan, kịp thời, chính xác của các hoạt động bổ trợ tư pháp sẽ góp phần bảo đảm
chất lượng xét xử của Tòa án. Nếu hoạt động bổ trợ tư pháp kém hiệu quả, sẽ dẫn đến
sự sai lệch trong kết quả điều tra, truy tố và khi xét xử, Thẩm phán rất dễ sai lầm, đưa
ra phán quyết không đúng pháp luật. Vì vậy, trong tiến trình cải cách tư pháp, phải
hoàn thiện pháp luật về luật sư, công chứng, giám định, hộ tịch theo hướng công khai,
minh bạch, đơn giản và thuận tiện cho người dân.
Thứ ba, tăng cường vai trò giám sát của các Đoàn đại biểu Quốc hội, của Hội
đồng nhân dân đối với hoạt động xét xử của Tòa án. Đồng thời, nâng cao chất lượng
hoạt động của các phương tiện thông tin đại chúng trong việc tuyên truyền, cung cấp
thông tin về hoạt động xét xử.
Thứ tư, tăng cường cơ sở vật chất, chế độ chính sách đối với Thẩm phán, cán bộ
Tòa án. Nhà nước cần ưu tiên đầu tư xây dựng trụ sở, trang thiết bị, phương tiện làm
việc cho các Tòa án; cần có chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ thỏa đáng đối với
Thẩm phán, cán bộ Tòa án để họ yên tâm công tác và tăng khả năng tự vệ phòng,
chống tiêu cực trong hoạt động xét xử. Mặt khác, Nhà nước cần quy định chế độ bảo
đảm an ninh đối cơ quan Tòa án, Thẩm phán và gia đình họ trong trường hợp thi hành

công vụ.
Thứ năm, xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, không chồng chéo, mâu
thuẫn với nhau; các văn bản hướng dẫn thi hành và giải thích luật phải kịp thời. Có
~ 10 ~
Bài tập lớn học kì Sinh viên thực hiện: Ly A Dính
như vậy mới tạo điều kiện cho Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân khi xét xử có cơ sở
pháp lý vững chắc và chỉ tuân theo pháp luật.
KẾT LUẬN
Trong nhiều năm qua, pháp luật tố tụng hình sự nước ta đã có nhiều tiến bộ
trong việc quy định, phân định nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của người tiến
hành tố tụng. Đó là cơ sở pháp lý cho hoạt động tố tụng hình sự đạt hiệu quả. Tuy
nhiên, nhiều quy định còn bất cập; một số quy định còn vướng mắc trong quá trình
triển khai thực hiện trên thực tế. Vì vậy cần hoàn thiện hơn nữa các quy định trong tố
tụng hình sự để nâng cao tính độc lập trong xét xử, hạn chế tối đa oan sai, xét xử đúng
người, đúng tội không để lọt tội phạm; đảm bảo quyền và lợi ích cho người tham gia
tố tụng. Đây cũng là đòi hỏi của xã hội ta trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
~ 11 ~
Bài tập lớn học kì Sinh viên thực hiện: Ly A Dính
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
 Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013
 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, NXB.
CAND, Hà nội, 2007, 2008.
 Trường Đại học Luật Hà Nội, Những nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình
sự Việt Nam, Nxb. CAND, Hà Nội, 2000.
 Viện khoa học pháp lý, Chế định thẩm phán, một số vấn đề lý luận và thực tiễn
 Và một số website
1.
2.

3.
~ 12 ~
Bài tập lớn học kì Sinh viên thực hiện: Ly A Dính
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG 1
1. Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập 3
2. Thẩm phán và Hội thẩm xét xử chỉ tuân theo pháp luật 5
III. Thực tiễn áp dụng và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc Thẩm phán
và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật 8
KẾT LUẬN 11
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 12
~ 13 ~

×