MỞ ĐẦU
1. Tính cấp bách của đề tài
Cùng với sự đổi mới mạnh mẽ bộ máy nhà nước, vấn đề đổi mới tổ chức và
hoạt động của cơ quan tư pháp luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm.
Điều đó, được phản ảnh trong các văn kiện Đại hội của Đảng Cộng sản
Việt Nam (ĐCSVN) qua các kỳ Đại hội. Thực hiện chủ trương của Đảng những
năm qua trên thực tế, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án nhân
dân (TAND) đã được tiến hành khá nhiều lần trong lịch sử lập pháp nước ta. Nhất
là từ sau Hiến pháp 1992 Luật tổ chức TAND đã được Quốc hội liên tục sửa đổi bổ
sung để đáp ứng yêu cầu đổi mới của đất nước. Thông qua việc sửa đổi bổ sung, đó
mà TAND từng bước được nâng cao về vị trí, cùng với các cơ quan trong hệ thống
các cơ quan Tư pháp. Tại Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị Trung ương
ĐCSVN khóa IX đã khẳng định:
Trong những năm qua công tác tư pháp đã đạt được nhiều kết
quả, góp phần quan trọng vào việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, phục vụ tích cực cho công
cuộc đổi mới, phần lớn cán bộ làm công tác tư pháp giữ vững phẩm chất
chính trị, có tinh thần trách nhiệm và hoàn thành nhiệm vụ [20, tr. 1].
Tuy nhiên, so với nhiệm vụ đổi mới hoạt động lập pháp và nhiệm vụ cải
cách hành chính thì tiến độ thực hiện đổi mới trên lĩnh vực tư pháp còn chậm và kết
quả chưa đáp ứng yêu cầu. Chất lượng xét xử của TAND các cấp đã có thời gian
còn để tình trạng oan, sai, tồn động kéo dài, tổ chức bộ máy TAND các cấp chậm
được đổi mới, đội ngũ cán bộ nhất là đội ngũ Thẩm phán vừa thiếu về số lượng vừa
yếu về trình độ chuyên môn nên ảnh hưởng nhiều đến chất lượng xét xử. Điều đó
được phản ảnh trong Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị Trung ương ĐCSVN
khóa IX như sau: " Chất lượng công tác tư pháp nói chung chưa ngang tầm với
yêu cầu và đòi hỏi của nhân dân, còn nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan
1
người vô tội, vi phạm các quyền tự do dân chủ của công dân, làm giảm sút lòng tin
của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và các cơ quan tư pháp" [20, tr. 2].
Do vậy, công tác tư pháp trong thời gian tới phải có những biến chuyển
mạnh mẽ, trong đó đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND là một khâu quan
trọng.
Để đáp ứng yêu cầu đó Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam đã được sửa
đổi bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25/12/2001 của Quốc hội
khóa X, tại kỳ họp thứ 10. Trên cơ sở đó Luật tổ chức TAND đã được Quốc hội
nước CHXHCN Việt Nam thông qua ngày 02/4/2002, so với Luật tổ chức TAND
năm 1992 đã có những đổi mới nhất định như: về cơ cấu của TANDTC đã bỏ Ủy
ban Thẩm phán TANDTC thay đổi về thành phần và số lượng Hội đồng Thẩm
phán TANDTC và Ủy ban Thẩm phán TAND cấp tỉnh, giao TAND địa phương
cho TANDTC quản lý
Tuy nhiên, sự thay đổi trên cũng mới chỉ dừng lại ở một số vấn đề nhất
định. Những vấn đề rất cơ bản như thẩm quyền của Tòa án (TA) các cấp, về cơ cấu
tổ chức bộ máy của TAND như thế nào cho hợp lý, về các biện pháp bảo đảm các
nguyên tắc tổ chức và hoạt động của TAND chưa được xem xét đầy đủ, và ngay
cả các vấn đề đã sửa đổi cũng chỉ mới dừng lại ở tính chung nhất, làm cho việc
nhận thức và thực hiện gặp khó khăn như: vấn đề quản lý TA địa phương kết hợp
chặt chẽ với Hội đồng nhân dân (HĐND) địa phương như thế nào, và kết hợp đến
đâu, việc bỏ Ủy ban Thẩm phán TANDTC, vậy tổ chức hoạt động của Hội đồng
Thẩm phán TANDTC như thế nào để có hiệu quả, và để không còn án tồn đọng
Do vậy, mặc dù đã có những đổi mới nhất định trong tổ chức và hoạt động
của TAND thông qua Luật tổ chức TAND năm 2002, nhưng chưa thể nói tổ chức
và hoạt động của TAND hiện nay đã được hoàn thiện, đáp ứng được các yêu cầu
đòi hỏi của công cuộc cải cách tư pháp theo các mục tiêu của việc xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN ở nước ta.
2
Hàng loạt vấn đề lý luận, thực tiễn trong tổ chức và hoạt động của hệ thống
TAND ở nước ta vẫn đang tiếp tục được đặt ra và cần giải đáp. Nên việc nghiên
cứu lĩnh vực đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND ở nước ta hiện nay vẫn là
yêu cầu đòi hỏi bức thiết cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
TAND với vị trí là bộ phận quan trọng trong bộ máy nhà nước và là cơ
quan có vai trò to lớn trong việc bảo vệ pháp luật, bảo vệ các quyền dân chủ và duy
trì công lý, nên được Đảng và Nhà nước ta coi trọng và luôn chủ trương cải cách
đổi mới. Để đáp ứng yêu cầu đó của Đảng và Nhà nước, những năm gần đây đã có
nhiều công trình nghiên cứu nhằm góp phần thực hiện việc đổi mới TAND. Có thể
chia các công trình theo các nhóm sau đây:
Nhóm thứ nhất: Những công trình nghiên cứu về hệ thống tư pháp Việt
Nam có liên quan đến TAND. Bao gồm những công trình nghiên cứu về thực
trạng và phương hướng cải cách hệ thống tư pháp nước ta. Có thể kể đến những
công trình khoa học sau: Cải cách hệ thống tư pháp Việt Nam, Đề tài cấp Nhà
nước, mã số 92-98-353. Chủ nhiệm đề tài: Nguyễn Văn Yểu và Nguyễn Đình
Lộc (đề tài chưa bảo vệ); Xây dựng mô hình quản lý ngành tư pháp, Đề tài cấp
Bộ, mã số 96-98-028, Chủ nhiệm đề tài: Tiến Sĩ Nguyễn Ngọc Hiến (đề tài chưa
bảo vệ); Năm mươi năm ngành tư pháp Việt Nam, Mã số 96-98-035, Đề tài cấp
Bộ, Chủ nhiệm đề tài: Nguyễn Văn Thảo, năm 1996; Đại hội VII ĐCSVN và
những vấn đề cấp bách của khoa học về nhà nước và pháp luật, Giáo sư Tiến sĩ
khoa học Đào Trí Úc, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội, năm 1997; Cơ sở lý luận và
thực tiễn đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp (góp phần sửa
đổi Hiến pháp năm 1992), Đề tài cấp Bộ, Chủ nhiệm đề tài: Hoàng Thế Liên,
năm 2001; Một số vấn đề về hoàn thiện tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, PGS TS Lê Minh Thông, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 2001; Những vấn đề đổi mới hệ thống tư pháp ở
nước ta, PGS.TS Phạm Hồng Hải, Tạp chí TAND, số 04 năm 1999; Những vấn
3
đề đổi mới các cơ quan tư pháp trong bộ máy nhà nước Việt Nam, Luận văn
Thạc sĩ của Lê Thành Dương (1996)
Nhóm thứ hai: Những công trình nghiên cứu về TAND ở những góc độ
khác nhau. Có thể kể đến những công trình cơ bản sau: Cải cách tư pháp, Phần:
Đổi mới tổ chức hoạt động của TA, Đề tài cấp Bộ, mã số: 86-90-011, Chủ nhiệm
đề tài: Nguyễn Tất Viễn, tháng 12/1990; Vị trí vai trò và chức năng của TAND
trong bộ máy nhà nước qua các thời kỳ cách mạng Việt Nam, Đề tài cấp Bộ, mã
số 95-98-048/ĐT năm 1996, Chủ nhiệm đề tài: TS. Trịnh Hồng Dương; Xây
dựng và hoàn thiện cơ chế quản lý Thẩm phán TA địa phương, Đề tài cấp Bộ,
Mã số 96-98-029, Chủ nhiệm: Nguyễn Văn Sáu, năm 1996; Vai trò của TA trong
hệ thống các cơ quan tư pháp, PGS.TS Phạm Hồng Hải, Tạp chí TAND, số 05
năm 2001; Cơ sở lý luận và thực tiễn tăng cường năng lực xét xử của TAND cấp
huyện, Chủ nhiệm: TS. Nguyễn Văn Hiện, năm 2001
Những công trình nghiên cứu trên đã đánh giá một cách khá đầy đủ về lý
luận và thực tiễn hệ thống tư pháp Việt Nam về quá trình phát triển của TA và vị trí
của nó trong bộ máy nhà nước qua các giai đoạn; những cơ sở lý luận và thực tiễn
cải cách các cơ quan tư pháp, trong đó đã đưa ra nhiều kiến nghị quan trọng về đổi
mới TAND, bước đầu đặt nền móng cho việc nghiên cứu đề tài này.
Tuy nhiên, những đề tài trên theo chúng tôi cũng còn những hạn chế sau: ở
nhóm thứ nhất: đối tượng chính để nghiên cứu là hệ thống tư pháp, trong đó TAND
được đề cập đến với góc độ là một bộ phận của hệ thống đó, nên chưa đề cập một
cách đầy đủ về tổ chức và hoạt động của TAND và chưa có các giải pháp cụ thể
cho quá trình đổi mới về tổ chức và hoạt động của TAND một cách toàn diện.
Ở nhóm thứ hai, tuy các công trình đề cập trực tiếp đến TA nhất là đề tài
"Đổi mới tổ chức hoạt động của TA" của chủ nhiệm Nguyễn Tất Viễn. Song đề tài
được thực hiện ở những năm đầu của công cuộc đổi mới 1989 - 1990, cả về thực
tiễn và pháp lý, đã thay đổi rất lớn trong tình hình hiện nay, các đánh giá về thực
trạng và các giải pháp đến nay không còn phù hợp. Các đề tài khác chỉ đề cấp đến
4
những khía cạnh cụ thể, từng mặt của TA như: "vị trí, vai trò, chức năng của TA
trong bộ máy nhà nước qua các giai đoạn cách mạng", "cơ sở và thực tiễn tăng
cường năng lực xét xử của TAND cấp huyện"
Do vậy cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của
TAND trong giai đoạn hiện nay theo hướng có hệ thống hơn, toàn diện hơn làm
cơ sở lý luận và thực tiễn cho quá trình đổi mới đáp ứng yêu cầu trong tình hình
hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Mục đích của luận án là nghiên cứu một cách có hệ thống về mặt lý luận,
đánh giá một cách có căn cứ và khoa học về thực trạng tổ chức và hoạt động của
TA, để trên cơ sở đó hướng tới mục đích:
Xác định được các yêu cầu khách quan của sự đổi mới TA, xây dựng được
các nguyên tắc bảo đảm cho quá trình đổi mới của TA một cách đúng hướng và đạt
hiệu quả cao.
Đề xuất được một số nội dung thiết thực góp phần đổi mới mạnh mẽ về tổ
chức và hoạt động của TAND ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Từ mục đích đó, luận án có nhiệm vụ:
Làm rõ về mặt lý luận vị trí, chức năng các nguyên tắc tổ chức hoạt động
của TAND.
Đánh giá một cách khách quan, khoa học về thực trạng tổ chức và hoạt
động của TAND. Từ đó xác định được những mặt mạnh, mặt yếu, những nguyên
nhân của thực trạng, làm cơ sở vững chắc về mặt thực tiễn cho quá trình đổi mới.
Trên cơ sở lý luận, thực tiễn và những nhu cầu khách quan, đề xuất những
giải pháp thiết thực nhằm góp phần đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND trong
giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
5
Đối tượng nghiên cứu của luận án: là lĩnh vực tổ chức và hoạt động của
TAND trên cơ sở luật nước ta qua các giai đoạn và chủ yếu là giai đoạn hiện nay.
Thực tiễn tổ chức và hoạt động của TAND ở nước ta.
Cùng với những yếu tố kinh tế - xã hội, chính trị, pháp lý ảnh hưởng đến tổ
chức và hoạt động của TA.
Phạm vi nghiên cứu: Chủ yếu là nghiên cứu thực trạng về tổ chức và hoạt
động của TA theo luật hiện hành và thực tiễn của nó hiện nay về mặt tổ chức và
hoạt động những gì hợp lý, những gì chưa hợp lý, nguyên nhân của thực trạng;
Trong một chừng mực nhất định, luận án cũng đề cập đến vị trí vai trò của TA
thông qua việc tổ chức và hoạt động của nó trong các giai đoạn lịch sử, cũng như
mối quan hệ của nó đối với các cơ quan trong bộ máy nhà nước, nhất là các cơ quan
tư pháp khác.
5. Cở sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
Cơ sở lý luận của luận án là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm đường lối, chính sách của ĐCSVN và của nhà
nước ta về nhà nước pháp quyền và hoạt động tư pháp; các học thuyết chính trị về
nhà nước pháp quyền trên thế giới. Luận án cũng được trình bày trên cơ sở nghiên
cứu Hiến pháp, Luật tổ chức TAND, Pháp lệnh về Thẩm phán và các văn bản pháp
luật khác qui định về tổ chức và hoạt động của TAND.
Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, luận án đặc biệt coi trọng các phương pháp phân tích và tổng
hợp, phương pháp so sánh, phương pháp hệ thống, kết hợp với phương pháp khảo
sát thực tiễn để làm sáng tỏ những nội dung cần nghiên cứu của luận án.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án là công trình nghiên cứu một cách có hệ thống về vị trí vai trò,
chức năng của TA làm sáng tỏ những cơ sở lý luận về các quan điểm đúng đắn của
Đảng và Nhà nước ta về việc xác định vai trò "trọng yếu" của TA trong bộ máy nhà
6
nước. Từ đó đưa ra các khái niệm, những luận cứ xác đáng tiếp tục góp phần làm
thay đổi nhận thức về TA một cách đúng đắn hơn, khoa học hơn (vì lâu nay nhìn
TA như các ngành, các bộ khác trong bộ máy nhà nước) đã làm cho TA chậm phát
triển theo yêu cầu.
Luận án trình bày và đánh giá thực trạng về cơ cấu tổ chức và cán bộ, về
thực trạng hoạt động của TAND trong những năm qua một cách đầy đủ trên cơ sở
tổng hợp các số liệu qua nhiều nguồn xác thực, phân tích được những mặt mạnh,
mặt yếu của TAND cùng với những nguyên nhân của nó, làm cơ sở thực tiễn cho
việc cải cách tổ chức và hoạt động của TAND.
Dựa trên sự tổng hợp các quan điểm của Đảng và Nhà nước, luận án đã hệ
thống một cách đầy đủ các nguyên tắc bảo đảm cho quá trình đổi mới TAND bao
gồm các nguyên tắc chung và các nguyên tắc đặc thù xuất phát từ tính chất cũng
như mục đích hoạt động của TAND.
Luận án cũng đã đưa ra được những yêu cầu và những giải pháp thiết thực
nhằm góp phần đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND đáp ứng yêu cầu của công
cuộc đổi mới hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần làm sáng tỏ quan điểm của Đảng
và Nhà nước về vai trò của cơ quan tư pháp trong đó TAND giữ vai trò "trọng yếu"
trong việc bảo vệ pháp luật, bảo đảm dân chủ, kỷ cương xã hội và duy trì công lý.
Từ đó nâng cao nhận thức về vai trò và vị trí của TAND trong thời kỳ đổi mới.
Qua phân tích cơ sở lý luận và đánh giá thực trạng của TAND hiện nay,
luận án góp phần khẳng định một cách khoa học về tính tất yếu của việc cải cách hệ
thống tư pháp, đổi mới TAND nhằm bảo đảm các nhu cầu khách quan của tình
hình kinh tế - xã hội, đòi hỏi của nền dân chủ, nhu cầu đấu tranh chống vi phạm và
tội phạm hiện nay nhằm góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.
7
Đồng thời các kết luận, kiến nghị trong luận án có ý nghĩa thiết thực trong
việc xây dựng hệ thống đồng bộ các giải pháp nhằm nâng cao vị trí vai trò của
TAND, nhằm đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới. Luận án là công trình tham
khảo cần thiết cho các nhà tổ chức, các nhà quản lý và nó cũng là tài liệu cho việc
nghiên cứu và giảng dạy cho các cơ sở đào tạo khoa học pháp lý.
8. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm
3 chương, 7 mục.
8
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỔ CHỨC VÀ
HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÒA ÁN TRONG BỘ MÁY NHÀ NƯỚC
1.1.1. Vai trò và vị trí của Tòa án trong các kiểu Nhà nước (trước Nhà
nước xã hội chủ nghĩa)
Học thuyết Mác - Lênin đã vạch rõ: khi xã hội phát triển đến một trình độ
nhất định, chế độ tư hữu ra đời, làm cho xã hội phân chia giai cấp và đấu tranh giai
cấp không thể điều hòa được thì Nhà nước ra đời. Vì vậy, Nhà nước là kết quả tất
yếu của xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp không thể điều hòa được. Nhà nước
là công cụ bạo lực của giai cấp thống trị, do giai cấp thống trị tổ chức ra nhằm đàn
áp giai cấp khác. Nhờ có Nhà nước mà giai cấp thống trị về kinh tế đã trở thành giai
cấp thống trị và nắm giữ quyền lực xã hội.
Sự thống trị về mặt chính trị của giai cấp thống trị, trước hết đó là giai cấp
thống trị thông qua Nhà nước biến ý chí giai cấp mình thành pháp luật và buộc các
giai cấp khác trong xã hội phải chấp nhận và tuân theo. Quá trình đó được khoa học
pháp lý gọi là hoạt động lập pháp và nó là lĩnh vực thể hiện quyền lực nhà nước cơ
bản nhất nên bao giờ cũng giao cho cơ quan có quyền lực cao nhất nắm giữ và thực
hiện. Trong các Nhà nước Quân chủ các đạo dụ, chiếu chỉ của nhà vua là mệnh
lệnh tuyệt đối, trong các chính thể Cộng hòa quyền lập pháp giao cho cơ quan Nghị
viện hay Quốc hội.
Tuy nhiên, ý chí của giai cấp thống trị sẽ không đạt được, nếu ý chí đó chỉ
mới dừng lại ở những điều luật, thậm chí là những bộ luật hoàn thiện. Bởi lẽ những
điều luật tự nó sẽ không đi vào cuộc sống, nếu không có sự tổ chức. Hơn nữa trong
các xã hội có giai cấp thì pháp luật chính là ý chí của giai cấp thống trị, ý chí này
đối lập với ý chí của các tầng lớp nhân dân lao động, nên bị nhân dân chống đối và
không thực hiện.
9
Do vậy, giai cấp thống trị phải tổ chức ra một bộ máy dựa trên sức mạnh
vật chất như điều kiện kinh tế, quân đội, cảnh sát và được giao cho nhiệm vụ lớn
lao, đó là tổ chức thi hành pháp luật, kể cả hình thức đàn áp nhằm bắt buộc các tầng
lớp xã hội phải chấp hành pháp luật. Đó là hệ thống cơ quan hành pháp, một bộ
phận quan trọng nhất nắm giữ các yếu tố vật chất và có khả năng đàn áp mạnh mẽ
để bảo đảm pháp luật được thực thi trong xã hội. Như vậy quyền lập pháp và hành
pháp là những phạm vi quyền lực cơ bản và thể hiện sự gắn bó mật thiết giữa chúng
trong quyền lực nhà nước. Đồng thời giai cấp nào khi ban hành pháp luật cũng
mong muốn cho pháp luật của giai cấp mình được thực thi nghiêm chỉnh trong xã
hội, do đó bao giờ cũng có nhu cầu cho sự hình thành một hệ thống bảo đảm trên cơ
sở giám sát và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật không chỉ từ phía giai cấp đối
kháng, mà ngay cả việc giám sát, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm pháp luật
trong các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Sự đảm bảo đó trước hết phải bằng hoạt
động của các cơ quan trong hệ thống các cơ quan nhà nước. Các cơ quan này có
quyền nhân danh quyền lực nhà nước xét xử các hành vi vi phạm các quy định của
pháp luật nhà nước. Đó là hệ thống các cơ quan tư pháp và cơ quan giữ vai trò trọng
trách đó chính là TA.
Như vậy xét về mặt phạm vi quyền lực thì Nhà nước có ba loại quyền:
quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp, trong đó quyền tư pháp (chữ tư
pháp ở đây chúng ta dịch từ tiếng Trung Quốc chính xác là "Xét xử") do TA thực
hiện. Từ đó cho phép chúng ta khẳng định rằng hoạt động xét xử là hoạt động tất
yếu, là chức năng không thể thiếu được của mọi Nhà nước.
Điều đó đã thể hiện rõ ngay từ thời kỳ cổ Hy Lạp, La Mã, người ta đã
khẳng định: ở đâu có pháp luật, thì ở đó phải có một hệ thống bảo đảm cho pháp luật
được thi hành một cách nghiêm chỉnh. Sự bảo đảm đó trước hết phải bằng hoạt
động của các cơ quan trong hệ thống cơ quan nhà nước, các cơ quan này có chức năng
xét xử hành vi vi phạm pháp luật, chính là chức năng của TA một cơ quan trong bộ
máy nhà nước.
10
Tuy nhiên, ở mỗi kiểu Nhà nước với chế độ chính trị khác nhau, bộ máy
nhà nước được tổ chức khác nhau, trong đó vị trí của TA cũng khác nhau.
Ở chế độ Chiếm hữu nô lệ và Phong kiến, hình thức Nhà nước chủ yếu là
Quân chủ, hoạt động xét xử cũng như các hoạt động lập pháp và hành pháp đều tập
trung vào giai cấp Chủ nô và Phong kiến mà đại diện là nhà vua. Nhà vua là người
ban hành các đạo luật, vừa là người quyết định tổ chức thực hiện, vừa là người có
quyền lực xét xử cao nhất. Do vậy, TA cùng với hoạt động xét xử trong giai đoạn
này chưa được tổ chức thành hệ thống rõ ràng và chưa trở thành một lĩnh vực hoạt
động độc lập trong bộ máy nhà nước Chiếm hữu nô lệ và Phong kiến.
Vào những năm của thế kỷ 17, 18, giai cấp tư sản phát triển mạnh mẽ trong
xã hội phong kiến, đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến của thời đại, là giai
cấp đại diện cho xu hướng, chính trị tiến bộ cần phải hạn chế quyền lực vô hạn định
của nhà vua, tiến đến xóa bỏ Nhà nước phong kiến đã lỗi thời, các học giả tư sản
đưa ra các luận điểm cần phải tách các hoạt động ban hành pháp luật, hoạt động
thực hiện các văn bản pháp luật và hoạt động xét xử các hành vi vi phạm pháp luật
và chia quyền lực nhà nước ra thành các loại quyền khác nhau.
Đó là tư tưởng của các nhà Triết học, Xã hội học, và Luật học ở thế kỷ 17 –
18, mà đại diện là John Locce, Montesquieu
John Locce, nhà triết học người Anh phân hoạt động nhà nước thành ba
nhánh quyền lực: Lập pháp, Hành pháp, và Bang giao quốc tế.
Montesquieu thì lại chia thành: Lập pháp, Hành pháp và Tư pháp.
Học thuyết của Montesquieu, đã trở thành hạt nhân của học thuyết "Tam
quyền phân lập". Montesquieu viết:
Khi quyền lập pháp được sáp nhập với quyền hành pháp và tập
trung trong tay một người hay một tập đoàn, thì sẽ không có tự do được:
bởi vì người ta có thể sợ rằng chính nhà vua hay nghị viện ấy sẽ làm
những đạo luật độc đoán để thi hành một cách độc đoán.
11
Sẽ không có tự do nếu quyền xét xử không được phân biệt với
quyền lập pháp và quyền hành pháp. Nếu quyền xét xử được sáp nhập vào
quyền lập pháp, thì sẽ không có tự do, nếu quyền xét xử được nhập vào
quyền hành pháp thì Thẩm phán sẽ trở thành những kẻ áp bức [45, tr.
81].
Ông còn nhấn mạnh rằng: "Mọi thứ sẽ bị biến mất cả nếu chính một người,
hay chính một tập đoàn các thân hào hay các quý tộc hay bình dân hành sự cả ba
quyền: quyền làm luật, quyền thi hành các quyết nghị chung và quyền xét xử các tội
phạm hay các vụ tranh chấp giữa các tư nhân" [45, tr. 85].
Để có một Nhà nước pháp quyền theo quan niệm phân lập các quyền lực
của Nhà nước tư sản, cũng như các cơ quan nhà nước khác, cơ quan tư pháp, TA
phải có vị trí xứng đáng, phải được tổ chức sao cho có tính độc lập, tham gia vào cơ
chế đối trọng và chế ước; kiểm soát lẫn nhau giữa các bộ phận, các nhánh quyền
lực nhà nước. Từ đó mà bảo vệ chế độ dân chủ, bảo đảm tự do cho các công dân
phù hợp với ý chí của giai cấp tư sản và trong khuôn khổ pháp luật của nó.
Cũng như các cơ quan nhà nước khác, TA nếu không được tổ chức thỏa
đáng sẽ trở thành nguy cơ cho quốc gia và tự do của công dân. Một bộ máy nhà
nước, một "cơ quan cầm quyền, vừa là kẻ thi hành luật, vừa cho mình là kẻ lập
pháp. Họ có thể tàn phá quốc gia bằng những ý chí chung sai lầm của họ. Mà họ
còn nắm cả quyền xét xử nữa thì họ có thể đè nát mỗi công dân theo ý muốn của
họ" [45, tr. 87].
Như vậy, theo quan điểm của giai cấp tư sản thì TA là cơ quan bảo vệ pháp
luật quan trọng nhất, bảo vệ công lý và là người trọng tài vô tư, khách quan để đánh
giá các vi phạm pháp luật, giải quyết các tranh chấp. Đối tượng xét xử của TA
không chỉ là hành vi của con người, của công dân mà còn cả hoạt động của Nhà
nước, của công quyền. Đây cũng là điểm thể hiện rõ nét tính đối trọng giữa quyền
Tư pháp với các quyền Lập pháp và Hành pháp, là điểm thể hiện rõ nét tính độc lập
của TA trong bộ máy nhà nước tư sản.
12
Vấn đề độc lập của TA, tách khỏi nhà vua, cùng với những vấn
đề khác như nghị viện, tự do dân chủ, trở thành khẩu hiệu phương hướng
và động lực cho việc lật đổ chế độ phong kiến thiết lập nên chế độ tư
bản, phải nói một cách công bằng rằng, chế độ tư bản và nhất là thời kỳ
cách mạng của nó bỏ rất nhiều công sức vào việc đấu tranh giành độc lập
cho hoạt động của TA. Sự độc lập của TA khỏi lập pháp và hành pháp là
một trong những đảm bảo quan trọng trong công việc bảo đảm quyền
bình đẳng, quyền tự nhiên của con người, nhất là trong việc chống lại
tình trạng tham nhũng, lợi dụng quyền lực của những nhà cầm quyền, vì
đam mê quyền lực, vì vụ lợi mà họ xâm phạm đến quyền tự do, bình
đẳng, quyền tự nhiên của quần chúng nhân dân lao động [11, tr. 249].
Có thể nói rằng, sự tách riêng và độc lập của TA khỏi hai nhánh quyền lực
lập pháp và hành pháp, đã ảnh hưởng rất lớn đến việc xác lập chế độ dân chủ tư sản,
nó là thành quả lớn lao phúc đáp phần nào nguyện vọng của quần chúng dân trong
cuộc đấu tranh chống chế độ chuyên quyền phong kiến, khi mà ở đó mọi quyền con
người bị chà đạp bởi sức mạnh tuyệt đối và vô hạn của nhà vua.
Tuy nhiên, tính độc lập của TA trong Nhà nước tư sản cũng phụ thuộc rất
nhiều vào chính thể. Nếu như chính thể cộng hòa Đại nghị (Cộng hòa Đại nghị là
chính thể cộng hòa mà ở đó nghị viện do cử tri bầu ra và đảng nào chiếm đa số ghế
nắm thủ tướng và thành lập chính phủ và do nắm đa số ghế và trực tiếp điều hành
chính phủ, do đó chính cơ quan hành pháp là cơ quan thực quyền trong nhà nước
Cộng hòa Đại nghị) thì nhánh quyền lực tư pháp mềm yếu hơn.
Do vậy khi so sánh bản chất giữa ba nhánh quyền lực (lập pháp, hành pháp
và tư pháp) trong bộ máy nhà nước tư sản chúng ta có thể thấy rằng: nhánh quyền
lập pháp không những có quyền quy định cho mình khả năng kiểm soát tài chính,
mà còn có quyền qui định ra các luật lệ chi phối sinh hoạt của công dân. Quyền
hành pháp không chỉ có quyền ra các mệnh lệnh hành chính trực tiếp điều hành các
quan hệ xã hội, mà còn được quyền chi phối tài sản lẫn sức mạnh của xã hội, quyền
13
được sử dụng vũ lực để bảo đảm quyền lực nhà nước. Ngược lại, quyền tư pháp
không có quyền nắm giữ và sử dụng các cơ quan cưỡng chế, không nắm và kiểm
soát tài chính, cũng không có quyền chi phối tài sản lẫn sức mạnh xã hội. Khi
nghiên cứu về bản chất của nó (quyền tư pháp), một học giả tư sản là A.Hamiton đã
viết: "Có thể nói rằng ngành tư pháp vừa không có lực lượng, lại vừa không có ý
chí mà chỉ có trí phán đoán mà thôi, và cần dựa vào trợ tá của ngành hành pháp mới
có thể thi hành quyết định trí phán đoán của mình" [11, tr. 250].
Nhưng nếu là chính thể Cộng hòa tổng thống thì quyền tư pháp có khả
năng bền vững hơn, vì với chính thể này sự phân định giữa quyền lập pháp và hành
pháp rõ ràng hơn; trong đó Nghị viện và Tổng thống (thể hiện sự độc lập của mình
thông qua việc bầu cử trực tiếp của cử tri và đại cử tri đối với hai cơ quan này, đồng
thời hai cơ quan này cũng có sự chi phối cánh quyền lực thứ ba đó là quyền tư
pháp, chính sự cùng chi phối của hai cơ quan tương đối độc lập, khiến cho quyền
lực tư pháp không lệ thuộc vào cơ quan duy nhất nào, nên là cơ sở cho tính độc lập
của nó, đồng thời các cơ quan này (lập pháp và tư pháp) đã có nhiều cố gắng làm
cho cơ quan tư pháp bảo đảm tính độc lập. Mỹ là một nước thể hiện rõ sự phân
quyền này. Vì vậy mà A.Hamiton đã viết: "Trong tất cả các yếu tố khiến cho ngành
tư pháp có thể duy trì được tính độc lập và cương quyết của mình, nhiệm kỳ của vị
Chánh án là yếu tố quan trọng nhất và chúng ta (Mỹ) có thể coi yếu tố đó là một
thành trì bảo vệ công lý và an ninh cho công chúng vậy" [11, tr. 251].
Chẳng những thế đối tượng và phạm vi hoạt động của quyền tư pháp cũng
phát triển theo thời gian và sự phát triển của nền dân chủ tư sản. Lúc đầu đối tượng
xét xử TA chỉ là "dân đen" vì theo họ chỉ có thần dân mới vi phạm pháp luật của
giai cấp tư sản, còn pháp luật là lợi ích là ý chí và công cụ của giai cấp tư sản. Và
ngược lại những kẻ "áo dài, mũ cao" thì hoạt động của họ là những hoạt động mẫu
mực không bao giờ có vi phạm pháp luật (đây là những lý do giải thích những
quyền miễn trừ tư pháp của các quan lại cao cấp). Nhưng càng về sau các quan
14
chức cũng phải chịu trách nhiệm về những hoạt động vi phạm pháp luật của mình
và cũng là đối tượng xét xử của TA.
Cũng tương tự như vậy, ban đầu phạm vi xem xét của TA là các hoạt động
vi phạm các đạo luật thường nhưng về sau thì xem xét đến cả việc vi phạm Hiến
pháp.
Về vấn đề này ở Mỹ, David Cusman Coyle viết:
Trong buổi ban đầu của nền Cộng hòa, TA không phải trực tiếp
đương đầu với vấn đề phải làm gì khi chính quyền vi phạm Hiến pháp.
Hiến pháp đã được chấp thuận như "luật pháp tối thượng của đất nước.
Và bất cứ một hành động nào của Quốc hội hay Tổng thống mà vi phạm
Hiến pháp thì theo lý thuyết, đó không phải là luật pháp [11, tr. 252].
Tuy nhiên, vì những lợi ích của các tập đoàn và các động cơ khác nhau,
ngày càng thể hiện nhiều hoạt động vi phạm Hiến pháp nên cần có nhu cầu phán
quyết của TA, do vậy mà TA Hiến pháp ra đời bên cạnh TA thường. Đồng thời
cùng với sự phát triển của xã hội ngày càng xuất hiện nhiều quan hệ kinh tế, thương
mại, điền địa và những quan hệ xã hội khác mà Nhà nước cần can thiệp, do đó
ngoài TA tư pháp thường về hình sự tư pháp, đã ra đời các TA dân sự, TA thương
mại, TA điền địa, TA hành chính
Đến đây chúng ta có thể thấy rằng, TA không chỉ là một bộ phận của bộ
máy nhà nước để xét xử các hành vi là tội phạm, bảo vệ giai cấp thống trị mà nó
còn là sự nối dài cánh tay Nhà nước can thiệp vào các quan hệ dân sự, kinh tế,
thương mại, hành chính
Như vậy ngay từ khi Nhà nước xuất hiện nhu cầu phán quyết xét xử của
Nhà nước đã ra đời và ngày càng trở nên quan trọng trong việc thực thi quyền lực
nhà nước. Tuy nhiên, tùy theo kiểu Nhà nước và phương thức thực hiện quyền lực
đối với xã hội khác nhau mà bộ máy được tổ chức khác nhau, và do vậy, mà quyền
xét xử và cơ quan thực hiện quyền này trong mỗi kiểu Nhà nước cũng khác nhau. ở
15
Nhà nước chiếm hữu nô lệ và phong kiến quyền này không tách rời quyền lập pháp
và hành pháp và đều do giai cấp thống trị (giai cấp chủ nô và giai cấp phong kiến)
nắm giữ và sử dụng thông qua người đại diện là nhà vua.
Với đặc điểm và bản chất của xã hội tư bản, Nhà nước tư sản được tổ chức
dựa trên nền dân chủ tư sản, do vậy để xóa bỏ tính chuyên quyền của Nhà nước
phong kiến, giai cấp tư sản tổ chức Nhà nước dựa trên nguyên tắc "phân quyền" và
thích ứng với nó bộ máy nhà nước được chia thành ba cơ quan có vị trí độc lập
nhau đó là: cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp. Trong đó, cơ
quan tư pháp (TA) cùng với sự phát triển nền dân chủ tư sản, thì vai trò của nó càng
trở nên quan trọng và vị trí độc lập của nó càng được xác lập và tăng cường. Đồng
thời với sự tăng cường quyền lực nhà nước vào các quan hệ xã hội thì đối tượng xét
xử, phạm vi xét xử của TA cũng càng được mở rộng hơn.
Song "TA tư sản hiện đại là một trong những khâu đặc biệt độc lập của cơ
cấu Nhà nước, tách khỏi nhân dân" [106, tr. 61], vì vậy, TA dưới chế độ tư bản
cũng chỉ bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản mà thôi.
Tuyệt nhiên với bản chất là Nhà nước XHCN, chúng ta không thể áp dụng
cách tổ chức theo kiểu Nhà nước tư sản được và do vậy TA nước ta không thể áp
dụng nguyên tắc "phân quyền" và "đối trọng" giữa cơ quan tư pháp (TA) với các cơ
quan lập pháp và hành pháp như bộ máy nhà nước tư sản. Tuy nhiên, theo quan
điểm đổi mới của Đảng ta tại Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX:
"Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp". Thì những
kinh nghiệm quý báu trong việc xác lập, mở rộng, nâng cao từng bước vị trí, vai trò
và phạm vi tác động của TA vào các lĩnh vực đời sống xã hội, ở các kiểu Nhà nước,
nhất là Nhà nước tư sản; đặc biệt là lĩnh vực đấu tranh không mệt mỏi của các nhà
luật học nhằm bảo đảm cho sự độc lập của TA trong bộ máy nhà nước và trong
hoạt động xét xử của nó, luôn là những kinh nghiệm tham khảo cần thiết và quý giá
trong công cuộc cải cách tư pháp và đổi mới TA ở nước ta hiện nay.
16
1.1.2. Các nguyên tắc cơ bản về tổ chức, hoạt động của Tòa án trong
các nước tư bản
Với vị trí là cơ quan độc lập trong bộ máy nhà nước, thực hiện quyền tư
pháp, hệ thống TA các nước đều phải được tổ chức theo những nguyên tắc nhất
định. Những nguyên tắc này xuất phát từ tính chất đặc thù của hoạt động xét xử, nó
là bộ phận quyền lực của Nhà nước, được quyền nhân danh Nhà nước để phán
quyết các hành vi tranh tụng nhằm bảo vệ công lý. Những nguyên tắc này bảo đảm
cho TA tổ chức để xét xử được công bằng, khách quan, công minh. Theo Hiến
pháp mỗi nước, việc qui định các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của TA có khác
nhau, nhưng khái quát thì có những nguyên tắc mang tính phổ biến sau đây:
Nguyên tắc bảo đảm tính độc lập của TA trong hoạt động xét xử
Như phần trên đã trình bày hoạt động tư pháp là hoạt động quyền lực nhà
nước, nhưng không phải là hoạt động ban hành pháp luật, cũng không phải là hoạt
động điều hòa các quan hệ xã hội bằng việc ra các mệnh lệnh hành chính, mà là
hoạt động áp dụng pháp luật thông qua sự phán đoán trên cơ sở đánh giá các
chứng cứ.
Do vậy muốn có sự đánh giá đúng đắn, khách quan nhằm đưa ra phán
quyết công bằng, nhất thiết các TA và các Thẩm phán phải được độc lập cả về tổ
chức và cả "tư duy". Do vậy việc đấu tranh cho sự độc lập của TA là một thành quả
đáng "kính trọng" của chế độ tư sản. Và cho đến nay, cuộc đấu tranh để cho hoạt
động xét xử của TA hoàn toàn độc lập trước lập pháp và hành pháp vẫn còn đang
tiếp diễn và cũng không ít những khó khăn.
Do vậy, "sự độc lập của TA đối với các cơ quan nhà nước khác, với các
nhóm áp lực xã hội (đảng phái, tôn giáo ) là một trong những nguyên tắc cơ bản
nhất của một chế độ pháp trị, một Nhà nước pháp quyền" [69, tr. 3-5].
Nguyên tắc bảo đảm sự độc lập của TA được thể hiện trước hết là sự cố gắng
của các nhà lập pháp qui định trong Hiến pháp về thẩm quyền và trách nhiệm độc lập
17
của cơ quan tư pháp không lệ thuộc vào cơ quan lập pháp và hành pháp. Sự phân
định càng rành mạch trách nhiệm và thẩm quyền, thì tính độc lập càng bảo đảm. Đây
là nguyên tắc cơ bản nhất bảo đảm cho hoạt động xét xử của TA mà tất cả Hiến
pháp các nước tư sản đều ghi nhận. Hiến pháp của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ tại
Điều III, khoản 1 đã ghi: "Quyền tư pháp Hợp chủng quốc sẽ được trao cho một tối
cao pháp viện" [11, tr. 590]. Tại bản Hiến pháp của Đệ ngũ Cộng hòa Pháp quốc
(4.01.1958) Điều 64 qui định: "Tổng Thống bảo đảm sự độc lập của cơ quan tư pháp"
[11, tr. 568], tương tự Hiến pháp Thụy Điển năm 1974 cũng đã thể hiện tại Chương
XI, Điều 1: "TA tối cao là cơ quan xét xử cao nhất về pháp luật chung" và Điều 2
cũng ghi: "Không một cơ quan nhà nước nào, kể cả Quốc hội, được quyết định theo
cách mà một TA đã xét xử và áp dụng luật trong một trường hợp riêng biệt" [11, tr.
626].
Biểu hiện nguyên tắc độc lập trong hoạt động xét xử của TA thể hiện ở nội
dung thứ hai rất quan trọng đó là: đề cao vai trò độc lập của Thẩm phán trong xét xử,
bởi vì hoạt động xét xử của Thẩm phán là hoạt động tư duy, mà tư duy con người:
Thường bị ảnh hưởng bởi những ngoại cảnh như dư luận xã hội,
các sức ép của các thế lực Nhà nước, tôn giáo, đảng phái và gay gắt của
các đương sự. Công lý theo cách nói của các luật gia La Mã thì đó là tập
quán của ý chí Do đó nếu không có sự độc lập thì phán quyết của
Thẩm phán có thể sẽ không khách quan, hành vi nói luật sẽ không thể là
sự phân phát công lý [11, tr. 261].
Hiến pháp Nhật Bản năm 1946 đã qui định tại Điều 76 chương VI như sau:
" Các Thẩm phán xét xử theo lương tâm và phải tôn trọng Hiến pháp và pháp luật
một cách triệt để " [11, tr. 588} Hiến pháp của Đệ ngũ Cộng hòa Pháp quốc năm
1958 Điều 64 đã thể hiện: "Một đạo luật biên chế ấn định qui chế của Thẩm phán.
Các Thẩm phán xét xử có tính cách bất di bất dịch" [11, tr. 590] và Hiến pháp Cộng
hòa Liên bang Đức năm 1959 tại Điều 97 qui định: "Thẩm phán xét xử độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật" [11, tr. 620].
18
Chính sự qui định khi xét xử Thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật,
sẽ tạo điều kiện cho Thẩm phán tránh được mọi áp lực từ phía các quan chức nhà
nước, kể cả các Thẩm phán của TA cấp trên. Đồng thời, sự ràng buộc này làm cho
Thẩm phán nâng cao năng lực phán đoán cũng như tự chịu trách nhiệm và cũng hạn
chế việc lợi dụng quyền lực của các Thẩm phán. Nó chính là yêu cầu của bảo đảm
tính công lý. Mặt khác ở nhiều nước, một cơ chế nâng cao tính độc lập trong hoạt
động của Thẩm phán đó là bảo đảm cho các vị Thẩm phán một chế độ bổ nhiệm và
nhiệm kỳ đặc biệt. Hamiton đã viết: "Trong tất cả các yếu tố khiến cho ngành tư
pháp có thể duy trì được tính độc lập và cương quyết của mình, nhiệm kỳ trường kỷ
của các vị Chánh án là yếu tố quan trọng nhất " [11, tr. 250]. Điều đó đã được thể
hiện trong Hiến pháp Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (tại khoản một Điều III): " Các
pháp quan tối cao pháp viện và của những pháp viện hạ cấp sẽ giữ chức vụ của
mình vĩnh viễn nếu lúc nào cũng có một hành vi chính đáng. Và sẽ có quyền
hưởng, trong những kỳ hạn nhất định một trợ cấp sẽ không bao giờ bị sút giảm suốt
trong thời kỳ tại chức". Hiến pháp Cộng hòa Liên bang Đức năm 1959 tại Điều 97
qui định: "Những Thẩm phán được bổ nhiệm chính và theo kế hoạch chỉ có thể bị
bãi miễn trước khi kết thúc nhiệm kỳ họ, hoặc bị tước cương vị lâu dài hay ngắn
hạn bằng một quyết định của TA và chỉ khi có lý do. Cơ quan lập pháp có thể qui
định giới hạn tuổi hưu của các Thẩm phán được bổ nhiệm suốt đời ". Hiến pháp
Nhật Bản năm 1946 tại Điều 78 ghi: "Các Thẩm phán chỉ bị cách chức theo thủ tục
đặc biệt không một cơ quan nào trong ngành hành pháp có thể áp dụng biện pháp
kỷ luật đối với Thẩm phán".
Ngoài những điều kiện đảm bảo trên, các Thẩm phán còn được hưởng chế
độ vật chất tương đối cao so với các quan chức nhà nước khác, để giúp họ bảo đảm
cuộc sống cho bản thân và gia đình tránh sự cám dỗ trong nghề nghiệp của họ.
Đến đây chúng ta có thể nhận xét rằng, thông qua việc nghiên cứu một số
Hiến pháp của các nước tư sản (như trên) thì chế định bảo đảm cho sự "độc lập" của
TA được thực hiện ở các yếu tố cơ bản đó là:
19
Bảo đảm cho TA độc lập không bị lệ thuộc về mặt tổ chức đối với cơ quan
lập pháp và hành pháp.
Bảo đảm cho hoạt động tư pháp không bị sự can thiệp của các tổ chức, cá
nhân từ các cơ quan hành pháp và lập pháp.
Bảo đảm cho các Thẩm phán được bổ nhiệm theo thủ tục đặc biệt và với
nhiệm kỳ chung thân và được hưởng chế độ miễn trừ trách nhiệm tư pháp đặc biệt.
Bảo đảm cho các viên Thẩm phán được hưởng chế độ vật chất tối ưu.
Đó cũng là kinh nghiệm để chúng ta phân tích, đánh giá so sánh và vận
dụng tính hợp lý và tránh những yếu tố hạn chế trong quá trình xây dựng cơ chế bảo
đảm nguyên tắc độc lập trong xét xử của TA nước ta.
Nguyên tắc xét xử tập thể
Cùng với nguyên tắc độc lập xét xử của TA là nguyên tắc xét xử tập thể.
Nguyên tắc này còn được gọi là nguyên tắc "Hội phán", tức là hoạt động xét xử
được thông qua một hội đồng xét xử (thành phần hội đồng và số lượng tùy thuộc
vào cấp xét xử mà luật mỗi nước qui định).
Sự quy định nguyên tắc này, trong tổ chức và hoạt động của TA là bắt nguồn
từ tính chất đặc thù của hoạt động xét xử của TA. Bởi vì quá trình xét xử là quá trình
tiếp nhận và đánh giá chứng cứ và cuối cùng là được nhân danh quyền lực nhà nước
đưa ra một phán quyết đối với chủ thể tham gia có thể là cá nhân, là pháp nhân mà
hậu quả của phán quyết này không chỉ liên quan đến quyền lợi vật chất, tự do, tinh
thần mà cả sinh mạng con người, tính chất đặc thù này đòi hỏi việc xét xử của TA
phải thận trọng và khách quan, nên cần có sự bàn bạc trao đổi tập thể để quyết định.
Nội dung của nguyên tắc là việc xét xử được thông qua hội đồng tập thể
bàn bạc và quyết định theo đa số nhằm đưa ra phán quyết với tính khách quan để
bảo đảm được công lý.
Công lý cũng đồng nghĩa với tính khách quan của bản án và được "tâm
phục khẩu phục". Nguyên tắc xét xử tập thể cho phép các Thẩm phán có thể trao
đổi, cọ xát ý kiến với nhau. Mọi tình tiết của vụ án được hội đồng xét xử thảo luận,
20
xem xét kỹ lưỡng theo nhiều góc độ. Qua đó, vấn đề của vụ án được làm sáng tỏ và
đưa ra được giải pháp của đa số.
Công lý trong phán quyết của TA trước hết là sự vô tư của bản án, nếu bản
án không vô tư thì không có công lý. Cơ chế hội phán sẽ tạo được sự vô tư của hoạt
động xét xử ở chỗ nó hạn chế được sự tùy tiện hay thiên vị trong phán quyết của
Thẩm phán; một Thẩm phán không thể áp đặt ý kiến riêng của mình bởi việc quyết
định là một tập thể (và các thành viên hội đồng đều ngang quyền với nhau). Nhờ sự
vô tư trong phán quyết của hội đồng xét xử, hoạt động xét xử của TA sẽ chiếm
được lòng tin của công chúng.
Nguyên tắc xét xử tập thể còn làm cho phán quyết của hội đồng xét xử trở
nên "vô danh", bởi bản án là của một số đông không do một cá nhân tuyên xử nên
tín nhiệm cũng được san sẻ, Thẩm phán cũng bớt e dè, ngần ngại trong việc đưa ra
phán quyết, để tránh được các áp lực bên ngoài. Chính vì vậy nhiều luật gia cho
rằng, nguyên tắc xét xử tập thể làm cho hoạt động xét xử bảo đảm được tính độc
lập.
Tuy nhiên, việc quy định nguyên tắc xét xử tập thể thì ở các nước tư bản
hiện nay cũng rất khác nhau. Đối với Tòa phúc án (xét xử phúc thẩm) hoặc giám
đốc thẩm thì chế độ xét xử là tập thể. Nhưng đối với cấp sơ thẩm thì thủ tục thường
chỉ có một Thẩm phán xét xử, và nếu trong chừng mực nào đó vụ án có tính phức
tạp thì thông thường luật qui định có đoàn bồi thẩm tham gia, bồi thẩm đoàn là
những công dân bất kỳ ai được đề cử và lập danh sách nơi họ cư trú tại các địa
phương của TA đó và khi bồi thẩm đoàn tham gia họ sẽ là "người" quyết định có
việc phạm tội theo tội danh của cơ quan công tố truy tố hay không. Và khi quyết
định là "tội danh được thành lập" thì quyền phán quyết cụ thể do Thẩm phán chủ
tọa quyết định theo pháp luật. Như vậy ngay khi việc xét xử có bồi thẩm đoàn tham
gia thì nguyên tắc xét xử tập thể và nguyên tắc độc lập xét xử của TA cũng được
kết hợp một cách hài hòa và chặt chẽ.
Ở nước ta nguyên tắc xét xử tập thể được thể hiện một cách nhất quán trong
tất cả các phiên Tòa và ở tất cả các cấp; ở cấp phúc thẩm và giám đốc thẩm hội
21
đồng tập thể bao gồm các Thẩm phán (từ 3 Thẩm phán trở lên), ở cấp sơ thẩm Hội
đồng xét xử bao gồm Thẩm phán và Hội thẩm TAND và trong đó Hội thẩm bao
giờ cũng chiếm đa số hơn (2/3 nếu là hội đồng 3; 3/5 nếu là hội đồng 5). Như vậy
việc thực hiện chế độ xét xử tập thể là nguyên tắc xuất phát từ tính chất đặc thù của
hoạt động xét xử của TA. Tuy nhiên, cơ chế này mục đích là bảo đảm cho hoạt
động thận trọng, khách quan và chính xác, vì vậy, việc qui định như thế nào là tính
đến hiệu quả của quá trình xét xử. Do vậy trong điều kiện hiện nay trình độ của Hội
thẩm, Điều kiện tham gia nghiên cứu và chuẩn bị cho việc xét xử có nhiều hạn chế,
nên chăng nghiên cứu hội đồng xét xử cấp sơ thẩm về thành phần tham gia hội
đồng xét xử cho phù hợp và có hiệu quả, là một trong những nội dung cần bàn
trong quá trình đổi mới TA ở nước ta hiện nay.
Nguyên tắc xét xử hai cấp
Khác với các phán quyết trong lĩnh vực hành chính, các quyết định hành
chánh được ban hành đúng thẩm quyền đòi hỏi phải thực thi ngay. Người thi hành
quyết định hành chính được khiếu nại nhưng vẫn phải thực hiện nghiêm chỉnh,
không phải chờ kết quả khiếu nại, trừ khi có qui định hành chánh cấp trên quyết
định hủy bỏ hoặc ngưng thi hành.
Ngược lại, hoạt động xét xử của TA phải được thực hiện theo nguyên tắc
xét xử hai cấp, bởi vì phán quyết của TA liên quan trực tiếp đến lợi ích của Nhà
nước, tập thể và các quyền cơ bản của công dân. Mặt khác xét xử là hoạt động dựa
trên sự phán đoán của các Thẩm phán và chỉ diễn ra trong một thời gian nhất định
nên có thể bị sai sót. Do vậy cần có cơ chế nhằm bảo đảm cho phán quyết của TA
phải thật thận trọng và chính xác, phải lắng nghe cả từ phía người bị phán quyết
bất lợi để xem xét kỹ lưỡng và kiểm tra một cách khách quan. Có vậy phán quyết
mới đạt chân lý. Vì vậy cần phải qui định nguyên tắc xét xử lại bản án sơ thẩm khi
có kháng cáo, kháng nghị là cần thiết. Do vậy việc bản án được xét xử lại nhiều
lần và qua nhiều cấp là nguyên tắc truyền thống trong hoạt động xét xử của TA
các nước trên thế giới.
22
Mặt khác, xét xử cũng đòi hỏi phải đáp ứng được nhu cầu giải quyết nhanh
chóng. Quyền lợi của nhân dân cũng trở nên bị xâm hại nếu việc giải quyết của TA
kéo dài không có kết thúc. Chính vì vậy, các quốc gia hoạch định cho ngành TA
của mình một hệ thống xét xử gồm hai cấp. Một vụ án đã được xét xử có thể được
xét xử lại một lần nữa theo thủ tục phúc thẩm. Với nguyên tắc này, pháp luật các
nước đều qui định bị cáo, các đương sự có quyền kháng cáo các bản án sơ thẩm
để xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm. Đồng thời, các bản án sơ thẩm đều không
được phép đem ra thi hành ngay, mà còn phải chờ đến khi hết thời hạn kháng cáo
của đương sự, bị cáo và họ không thực hiện quyền kháng cáo và cơ quan công tố
không kháng nghị.
Tuy nhiên, nói đến hai cấp xét xử không có nghĩa bản án chỉ được xét xử
đến lần thứ hai là kết thúc không được xét xử nữa. Mà thực tế hoạt động xét xử có
thể tiến hành nhiều lần, nhiều cấp và trong thời gian dài mới đạt chân lý. Do vậy
nguyên tắc xét xử hai cấp chỉ có nghĩa là khi bản án được xét xử phúc thẩm (tức xử
lại lần thứ hai) thì bản án phúc thẩm là chung thẩm có hiệu lực thi hành, bị cáo,
đương sự không còn quyền kháng cáo; nhưng bị cáo, đương sự được quyền đề nghị
với TA cấp trên có thẩm quyền, xem xét lại bản án phúc thẩm theo trình tự giám
đốc thẩm hoặc tái thẩm. Nhưng việc có tái thẩm hoặc giám đốc thẩm hay không là
thẩm quyền của TA cấp trên, về nguyên tắc các đương sự, bị cáo buộc phải chấp
hành bản án phúc thẩm mà không phải chờ ý kiến của cấp giám đốc, trừ khi cấp
giám đốc có quyết định khác.
Như vậy, đối với nguyên tắc này vừa đảm bảo tính thận trọng, kỹ lưỡng,
khách quan, trong việc xét xử cần có cơ chế xét xử nhiều lần đối với bản án đã xét
xử. Nhưng để bảo đảm quyền lợi của công dân, tránh tình trạng thiệt thòi trong việc
kéo dài và không thi hành được bản án, nên luật các nước đều qui định hai cấp xét
xử. Tuy nhiên trong từng nước và ở từng trường hợp, nguyên tắc hai cấp xét xử
cũng có khác, như nước ta trước đây có qui định chế định xét xử sơ chung thẩm,
bản án xử sơ thẩm có hiệu lực ngay và bị cáo, đương sự không có quyền kháng cáo;
23
một số nước thì ở tất cả các tranh chấp giản đơn, nhỏ nhặt luật pháp cho phép TA
xét xử sơ thẩm và cho thi hành ngay.
Đặc biệt trong từng lĩnh vực có một số nước cho phép đương sự kháng cáo
hai lần, có nghĩa là áp dụng chế độ "Ba cấp xét xử" chứ không phải hai cấp, đó là
trường hợp của Nhật Bản, đương sự, bị cáo không đồng tình với phán quyết của TA
sơ thẩm có thể đưa đơn kháng cáo lần thứ nhất (đối với vụ dân sự, hình sự gọi là
kháng cáo Koso, đối với vụ việc hôn nhân, gia đình gọi là kháng cáo Kokoku), và
nếu như cũng không đồng tình với phán quyết của TA các cấp phúc thẩm thì có
quyền kháng cáo lần thứ hai (đối với vụ hình sự, dân sự gọi là kháng cáo Jokoku,
đối với vụ hôn nhân, gia đình gọi là kháng cáo Kokoku đặc biệt) lên TA cấp cao
hơn. Phán quyết của TA phúc thẩm lần thứ hai là chung thẩm.
Qua phân tích trên có thể cho ta kết luận rằng hoạt động xét xử là hoạt động
đặc thù và rất phức tạp. Người xét xử không trực tiếp chứng kiến sự việc xảy ra mà
thông qua sự tái lập bằng các nguồn chứng cứ. Đối với các nước tư bản nhất là các
nước theo luật án lệ thủ tục xét xử phụ thuộc vào các luật lệ công tố xuất trình tại
Tòa (đối với các vụ án hình sự), đối với các tranh tụng dân sự, kinh tế thông qua
các chứng cứ do các luật sư các bên xuất trình, do vậy nếu những người giàu có họ
sẽ được sự tích cực của các luật sư giỏi có kinh nghiệm trong việc thu thập và tham
gia tranh tụng và ngược lại người nghèo bị thiệt thòi hơn, chưa kể đến hiện tượng
"đi đêm" giữa các luật sư với nhau. Do vậy việc dẫn đến sai sót của các quan tòa là
không tránh khỏi, nên thực hiện chế độ nhiều cấp xét xử trong thủ tục tố tụng của
TA tư sản là cần thiết.
So sánh với thủ tục xét xử nước ta có ưu điểm là các vụ án hình sự được
khởi tố điều tra của cơ quan điều tra; kiểm sát, truy tố do Viện Kiểm sát; và xét xử
được thực hiện bởi TA; đối với các vụ án dân sự, kinh tế, lao động, hành chính TA
có trách nhiệm thụ lý, điều tra và xét xử. Do vậy quá trình xét xử tại Tòa là quá
trình kiểm tra các chứng cứ đã được thu thập điều tra, đồng thời tiếp nhận các
chứng cứ khác từ bị cáo, bị hại, người có liên quan, nhân chứng, luật sư Nhưng
hiện nay cũng có nhiều ý kiến đánh giá rằng chính vì lệ thuộc vào kết quả điều tra
24
nên các Thẩm phán xét xử không chú trọng các chứng cứ mới được xuất trình tại
Tòa và quá trình xét xử hướng theo kết quả đã xác định trước (án bỏ túi), vì vậy cần
bảo đảm quá trình xét xử dân chủ công khai và tôn trọng kết quả xét xử tại Tòa nên
Nghị quyết của Bộ Chính trị số 08-NQTW ngày 02-01-2002 "Về một số nhiệm vụ
trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới" đã chỉ rõ:
Khi xét xử, các TA phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng
tại phiên Tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến
của Kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn,
bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án,
quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục [20, tr. 3].
Đồng thời bảo đảm quyền kháng cáo của bị cáo, bị hại cũng như kháng
nghị của Viện Kiểm sát cần bảo đảm tốt việc tiến hành xét xử phúc thẩm và nâng
cao hiệu quả về thủ tục giám đốc thẩm các bản án đã có hiệu lực pháp luật có sai sót
nghiêm trọng. Là những nội dung cơ bản trong đổi mới, tổ chức và hoạt động của
TA nước ta trong giai đoạn hiện nay.
1.1.3. Các mô hình chung về tổ chức Tòa án của các nước trên thế giới
Tùy thuộc vào điều kiện lịch sử, tính chất của Nhà nước, đặc điểm mỗi
quốc gia và quan điểm giai cấp của giai cấp thống trị thông qua các nhà cầm
quyền mà hệ thống TA của các nước được tổ chức theo những cách thức khác
nhau: Đối với các quốc gia có lãnh thổ rộng lớn như Hoa Kỳ, Trung Quốc, việc tổ
chức TA không thể không chú ý đến vấn đề địa lý lãnh thổ, nhưng ở Nhật Bản tuy
TA cũng tổ chức theo từng cấp như TA tối cao, các Tòa thượng thẩm và Tòa cơ sở,
nhưng các TA được đặt tập trung ở các thành phố lớn, hoặc các thủ phủ của mỗi
vùng lãnh thổ lớn. Còn ở Anh quốc đạt được sự phù hợp đó khi không coi trọng các
yếu tố địa lý, dân cư mà lại nhấn mạnh việc tổ chức TA theo thẩm quyền xét xử vụ
việc, để thuận tiện nhà cầm quyền Anh quốc qui định những vụ việc quan trọng thì
được xét xử ở Luân Đôn. Ở nước Đức là một nước rất khắt khe với các công dân
của mình, các bộ trưởng thì lại càng phải là những công dân gương mẫu, quan niệm
trên qui định mọi tội trạng cùng hình phạt mà các quan chức cao cấp được liệt kê
25