Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

ảnh hưởng của mật độ sạ đến năng suất giống lúa ir50404 vụ đông xuân năm 2012 – 2013 tại thị trấn một ngàn, huyện châu thành a, tỉnh hậu giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.57 MB, 57 trang )


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG





NGUYỄN VĂN NGOAN





ẢNH HƯỞNG CỦA MẬT ĐỘ SẠ ĐẾN NĂNG SUẤT GIỐNG
LÚA IR50404 VỤ ĐÔNG XUÂN NĂM 2012 – 2013
TẠI THỊ TRẤN MỘT NGÀN, HUYỆN CHÂU THÀNH A,
TỈNH HẬU GIANG





LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP KỸ SƯ NÔNG HỌC











Cần Thơ, 2013

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG





LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP KỸ SƯ NÔNG HỌC




Tên đề tài:
ẢNH HƯỞNG CỦA MẬT ĐỘ SẠ ĐẾN NĂNG SUẤT GIỐNG
LÚA IR50404 VỤ ĐÔNG XUÂN NĂM 2012 – 2013
TẠI THỊ TRẤN MỘT NGÀN, HUYỆN CHÂU THÀNH A,
TỈNH HẬU GIANG






Giáo viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện:
GS.TS. Nguyễn Bảo Vệ Nguyễn Văn Ngoan

ThS. Trần Thị Bích Vân MSSV: 3103514
Lớp: NH K36


Cần Thơ, 2013

i
TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG
 O 


Luận văn tốt nghiệp kỹ sƣ ngành Nông Học

ĐỀ TÀI:
“ẢNH HƢỞNG CỦA MẬT ĐỘ SẠ ĐẾN NĂNG SUẤT GIỐNG
LÚA IR50404 VỤ ĐÔNG XUÂN NĂM 2012 – 2013
TẠI THỊ TRẤN MỘT NGÀN, HUYỆN CHÂU THÀNH A,
TỈNH HẬU GIANG ”





Sinh viên thực hiện: NGUYỄN VĂN NGOAN
Kính trình lên hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp xem xét.



Cần Thơ, ngày… tháng… năm 2013

Cán bộ hƣớng dẫn



GS.TS. Nguyễn Bảo Vệ
ThS. Trần Thị Bích Vân

ii
TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN DI TRUYỀN GIỐNG NÔNG NGHIỆP
 O 

Hội đồng khoa học chấm luận văn tốt nghiệp với đề tài:

“ẢNH HƢỞNG CỦA MẬT ĐỘ SẠ ĐẾN NĂNG SUẤT GIỐNG
LÚA IR50404 VỤ ĐÔNG XUÂN NĂM 2012 – 2013
TẠI THỊ TRẤN MỘT NGÀN, HUYỆN CHÂU THÀNH A,
TỈNH HẬU GIANG ”

Do sinh viên NGUYỄN VĂN NGOAN thực hiện và bảo vệ trƣớc hội đồng.
Ý kiến hội đồng:
…………………………………………………………………………………………
…… …………………………………………………………………………………
………… ………………………………………………………………….…………
…………………………………………………………………………………………
………………… ……………………………………………………………………
……………………… ………………………………………………………………
….………………………
Luận văn đã đƣợc hội đồng đánh giá ở mức: ……………

Cần Thơ, ngày……tháng… năm 2013
Thành viên Hội đồng





DUYỆT KHOA
Trƣởng Khoa Nông Nghiệp & SHƢD


iii
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân. Các số liệu, kết
quả đƣợc trình bày trong luận văn tốt nghiệp là trung thực và chƣa từng đƣợc ai
công bố trong bất kỳ công trình luận văn nào trƣớc đây.




Tác giả luận văn



Nguyễn Văn Ngoan

















iv
CẢM TẠ

Kính dâng
Cha mẹ đã tận tụy nuôi dƣỡng và tạo điều kiện cho con đƣợc học tập và rèn luyện.
Chân thành cảm tạ
Thầy Nguyễn Bảo Vệ và cô Trần Thị Bích Vân đã tận tình hƣớng dẫn, chỉ bảo và
tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành nghiên cứu.
Chân thành cảm ơn
Quý thầy cô của Khoa Nông Nghiệp và Sinh Học Ứng Dụng, Khoa Thủy Sản,
Trƣờng Đại học Cần Thơ đã truyền đạt những kiến thức quý báo cho em trong quá
trình học tập và rèn luyện tại trƣờng.
Gia đình chú Trƣơng Bé Tƣ hiện ngụ thị trấn Một Ngàn, huyện Châu Thành A, tỉnh
Hậu Giang đã giúp đã tạo điều kiện và giúp đỡ con trong suốt thời gian làm đề tài.
Các bạn sinh viên ngành Nông Học, Khóa 36 đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong quá
trình học tập và thực hiện đề tài.


















v


QUÁ TRÌNH HỌC TẬP

LÝ LỊCH SƠ LƢỢC
Họ và tên: Nguyễn Văn Ngoan
Ngày sinh: 1988
Nơi sinh: Châu Phú, An Giang
Dân tộc: Kinh
Chổ ở hiện nay: Ấp Thạnh Hòa, xã Thạnh Mỹ Tây, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang
Điện thoại: 01884045099
E- mail:
QUÁ TRÌNH HỌC TẬP
Năm 2001 tốt nghiệp tiểu học.

Năm 2007 tốt nghiệp trung học cơ sở.
Năm 2010 tốt nghiệp trung học phổ thông.
Năm 2010-2013 là sinh viên nghành Nông học khóa 36 Trƣờng Đại học Cần Thơ.















vi

NGUYỄN VĂN NGOAN, 2013 “ Ảnh hƣởng của mật độ sạ đến năng suất giống
lúa IR50404 vụ Đông - Xuân năm 2012-2013 tại thị trấn Một Ngàn, huyện Châu
Thành A, tỉnh Hậu Giang”. Luận văn tốt nghiệp đại học, Khoa Nông nghiệp và Sinh
học Ứng dụng, trƣờng Đại học Cần Thơ. Cán bộ hƣớng dẫn: GS. TS. Nguyễn Bảo
Vệ và ThS. Trần Thị Bích Vân.

TÓM LƢỢC
Hiện nay, tập quán sản xuất lúa của nông dân còn mang tính truyền thống là
sạ dày, bón nhiều phân đạm nên tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của sâu
bệnh làm giảm rất đáng kể đến năng suất. Do đó, đề tài “Ảnh hƣởng của mật độ

gieo sạ đến năng suất giống lúa IR50404 vụ Đông Xuân năm 2012-2013 tại thị trấn
Một Ngàn, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang” đƣợc thực hiện nhằm mục tiêu
xác định mật độ gieo sạ thích hợp để làm tăng hiệu quả kinh tế cho nông dân.
Thí nghiệm đƣợc tiến hành trong vụ Đông Xuân 2012- 2013 tại thị trấn Một
Ngàn, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang. Thí nghiệm đƣợc bố trí theo thể thức
khối hoàn toàn ngẫu nhiên, ba lần lặp lại, bao gồm 4 nghiệm thức: sạ ở mật độ 200
kg/ha (Đối chứng theo nông dân), sạ ở mật độ 160 kg/ha, sạ ở mật độ 120 kg/ha và
sạ ở mật độ 80 kg/ha.
Kết quả thí nghiệm cho thấy trong vụ Đông Xuân 2012 – 2013, sạ với mật độ
thƣa thì hạn chế sự đổ ngã và sâu bệnh so với mật độ sạ dày. Ngoài ra, sạ với mật
độ 120 kg/ha có số hạt chắc trên bông, tỷ lệ hạt chắc, trọng lƣợng 1000 hạt là cao
hơn so với hai mật độ sạ là 160 kg/ha và 200 kg/ha. Nghiệm thức sạ với mật độ 120
kg/ha đạt 7,2 tấn/ha là cao nhất so với các mật độ khác nhƣ sạ với mật độ 200 kg/ha
đạt 6,7 tấn/ha, sạ với mật độ 160 kg/ha đạt 6,78 tấn/ha và sạ với mật độ 80 kg/ha chỉ
đạt 6,22 tấn/ha (Bảng 3.3). Nhƣ vậy, sạ với mật độ 120 kg/ha tỏ ra hiệu quả trong
hạn chế đổ ngã, sâu bệnh và đạt năng suất cao nhất so với các mật độ sạ 200 kg/ha,
sạ với mật độ 160 kg/ha và sạ với mật độ 80 kg/ha. Từ đó cho ta thấy sạ với mật độ
120 kg/ha giúp giảm đƣợc lƣợng giống đáng kể đồng thời cũng giảm đƣợc chi phí
phân bón, thuốc bảo vệ thực vật và đạt hiêu quả kinh tế hơn so với tập quán sạ dày
của nông dân(200 kg/ha).


vii
MỤC LỤC

Trang phụ bìa i
Lời cam đoan iii
Cảm tạ iv
Quá trình học tập v
Tóm lƣợc vi

Mục lục vii
Danh sách bảng x
Danh sách hình xi
MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1. LƢỢC KHẢO TÀI LIỆU 2
1.1. SƠ LƢỢC VỀ HUYỆN CHÂU THÀNH A, TỈNH HẬU GIANG… 2
1.2. THỜI KỲ SINH TRƢỞNG CỦA CÂY LÚA 2
1.2.1. Giai đoạn tăng trƣởng 3
1.2.2. Giai đoạn sinh sản. 4
1.2.3. Giai đoạn chín 5
1.3. CÁC THÀNH PHẦN NĂNG SUẤT 6
1.3.1. Số bông/m
2
6
1.3.2. Số hạt/bông 7
1.3.3. Tỷ lệ hạt chắc 8
1.3.4. Trọng lƣợng 1000 hạt 9
1.4. PHƢƠNG PHÁP GIEO SẠ 10
1.4.1. Phƣơng pháp sạ lan 11
1.4.2. Phƣơng pháp sạ hàng 11
1.5. NHỮNG NGHIÊN CỨU VỀ MẬT ĐỘ GIEO SẠ 12
1.6. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN NĂNG SUẤT 14

viii
1.6.1. Nhiệt độ 14
1.6.2. Ánh sáng 14
1.6.3. Lƣợng mƣa 15
1.6.4. Nƣớc 15
1.6.5. Gió 15
1.6.6. Ảnh hƣởng của đất 16

1.6.7. Ảnh hƣởng của sâu bệnh 16
CHƢƠNG 2. PHƢƠNG TIỆN VÀ PHƢƠNG PHÁP 17
2.1. PHƢƠNG TIỆN 17
2.1.1. Thời gian và địa điểm 17
2.1.2. Phƣơng tiện 17
2.2. PHƢƠNG PHÁP 18
2.2.1. Phƣơng pháp bố trí thí nghiệm 18
2.2.2. Biện pháp canh tác 19
2.2.3. Các chỉ tiêu theo dõi 20
2.2.4. Đánh giá chỉ tiêu về các thành phần năng suất 20
2.2.5. Đánh giá chỉ tiêu về năng suất. 21
2.2.6. Đánh giá khả năng phản ứng với một số sâu bệnh hại 21
2.2.7. Phƣơng pháp phân tích số liệu 22
CHƢƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 23
3.1. ĐÁNH GIÁ TỔNG QUAN 23
3.2. ẢNH HƢỞNG CỦA MẬT ĐỘ GIEO SẠ ĐẾN SỰ SINH TRƢỞNG
CỦA CÂY LÚA. 24
3.2.1. Chiều cao cây. 24
3.2.2. Số chồi/m
2
25
3.2.3. Chiều dài bông 27

ix
3.3. ẢNH HƢỞNG CỦA MẬT ĐỘ GIEO SẠ ĐẾN THÀNH PHẦN NĂNG
SUẤT VÀ NĂNG SUẤT. 28
3.3.1. Số bông/m
2
28
3.3.2. Số hạt/bông. 29

3.3.3. Số hạt chắc/bông 29
3.3.4. Tỷ lệ hạt chắc 30
3.3.5 Trọng lƣợng 1000 hạt. 30
3.3.6. Năng suất lý thuyết. 31
3.3.7. Năng suất thực tế. 32
3.4. HIỆU QUẢ KINH TẾ 33
CHƢƠNG 4. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 35
4.1. KẾT LUẬN 35
2.2. ĐỀ NGHỊ 35
TÀI LIỆU THAM KHẢO 36

x
DANH SÁCH BẢNG

Bảng
Tựa bảng
Trang
2.1
Sơ đồ bố trí thí nghiệm
19
3.1
Ghi nhận tổng quan thí nghiệm giống lúa IR50404 sạ với các
mật độ khác nhau tại, thị trấn Một Ngàn, huyện Châu Thành
A, tỉnh Hậu Giang vụ Đông Xuân năm 2012-2013
23
3.2
Ảnh hƣởng của mật độ sạ đến chiều cao cây (cm) qua các
giai đoạn sinh trƣởng của giống lúa IR50404 vụ Đông - Xuân
năm 2012-2013 tại thị trấn Một Ngàn, huyện Châu Thành A,
tỉnh Hậu Giang

24
3.3
Thành phần năng suất của giống lúa IR50404 đƣợc thí
nghiệm ở các mật độ khác nhau tại thị trấn Một Ngàn, huyện
Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang vụ Đông Xuân năm 2012-
2013
28
3.4
Năng suất lý thuyết và năng suất thực tế của giống lúa
IR50404 sạ với các mật độ khác nhau tại, thị trấn Một Ngàn,
huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang vụ Đông Xuân năm
2012-2013
32
3.5
Phân tích hiệu quả kinh tế
34













xi


DANH SÁCH HÌNH

Hình
Tựa hình
Trang
2.1
Bản đồ hành chính tỉnh Hậu Giang
17
3.1
Ảnh hƣởng của mật độ gieo sạ đến số chồi/m
2
của giống
lúa IR50404 sạ với các mật độ khác nhau tại, thị trấn Một
Ngàn, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang vụ Đông
Xuân năm 2012-2013
26
3.2
Ảnh hƣởng của mật độ gieo sạ đến chiều dài bông của
giống lúa IR50404 sạ với các mật độ khác nhau tại, thị trấn
Một Ngàn, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang vụ Đông
Xuân năm 2012-2013
27
















1


MỞ ĐẦU

Trong những yếu tố kỹ thuật để tăng năng suất cây trồng, ngoài phân bón và
cách bón phân, thì mật độ quần thể ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của cây trồng. Sự
cạnh tranh quần thể cũng ảnh hưởng đến sự phát triển của cây lúa, khi cây lúa phải
sống trong đều kiện chật hẹp, thiếu ánh sáng làm cây lúa trở nên yếu ớt sâu bệnh dễ
tấn công và dịch bệnh phát triển mạnh (Nguyễn Kim Chung và Nguyễn Ngọc Đệ,
2005). Ở nước ta nghề trồng lúa nước đã có từ rất lâu và năng suất lúa ngày càng
tăng một phần là do sự góp phần quan trọng của công tác chọn giống lúa, bằng
phương pháp cổ truyền, chọn lọc theo kiểu phả hệ, lai hữu tính, ứng dụng công nghệ
sinh học như tạo biến dị, nuôi cấy mô, biến đổi gen. Tuy nhiên, người dân có tập
quán truyền thống gieo sạ với mật độ cao khoảng 200 kg/ha, nhưng trong thực tế
lúa là loại cây có khả năng tự điều chỉnh trong quần thể, nếu sạ với mật độ quá cao
cây lúa sẽ đẻ nhánh ít hoặc không đẻ nhánh, tỉ lệ chồi vô hiệu cao, thậm chí cây bị
chết do cạnh tranh sinh tồn, cùng với đó là việc bón nhiều phân đạm dẫn đến sâu
bệnh phát triển mạnh và làm giảm năng suất (Nguyễn Trường Giang, 2010 ). Trên
một đơn vị diện tích nếu mật độ càng cao thì số bông càng nhiều. Trong một giới
hạn nhất định việc tăng số bông không làm giảm số hạt/bông và khối lượng nghìn
hạt nhưng nếu vượt qua giới hạn nhất định, số hạt/bông sẽ giảm dần và khối lượng

nghìn hạt sẽ giảm dần do sự cạnh tranh dinh dưỡng và ánh sáng, vì thế khi cấy quá
dầy sẽ làm năng suất giảm nghiêm trọng. Tuy nhiên, nếu cấy mật độ quá thưa đối
với giống có thời gian sinh trưởng ngắn ngày khó đạt được số bông tối ưu. Vì vậy,
chọn mật độ thích hợp là phương pháp tối ưu nhất để đạt được số lượng hạt chắc
nhiều nhất trên một đơn vị diện tích gieo cấy (Nguyễn Thị Nga, 2011). Do đó, đề tài
“ Ảnh hưởng của mật độ sạ đến năng suất giống lúa IR50404 vụ Đông Xuân
năm 2012 - 2013 tại Thị Trấn Một Ngàn, Huyện Châu Thành A, Tỉnh Hậu
Giang” được thực hiện nhằm tìm ra mật độ gieo sạ thích hợp làm tăng năng suất và
hiệu quả kinh tế.




2


CHƢƠNG 1
LƢỢC KHẢO TÀI LIỆU

1.1. SƠ LƢỢC VỀ HUYỆN CHÂU THÀNH A, TỈNH HẬU GIANG
Vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên: Huyện Châu Thành A nằm trên quốc lộ
1A, tiếp giáp và cách trung tâm TP. Cần Thơ trên 10km về phía nam, cách thị xã Vị
Thanh 25km về hướng Đông Bắc. Hiện Hậu Giang đang xúc tiến xây dựng tại nơi
này cụm công nghiệp Tân Phú Thạnh với diện tích 220ha, kéo theo là việc hoạch
định xây dựng một khu đô thị mới (khu tái định cư, thương mại). Ngoài ra Châu
Thành A còn có thế mạnh về nông nghiệp như chăn nuôi (heo, bò, gà, vịt) và cả
trồng trọt (xoài, bưởi Năm Roi, măng cụt, cam, quýt… )
Tình hình khí hậu, thủy văn: huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang có khí
hậu cận xích đạo gió mùa. Tính chất cận xích đạo được thể hiện ở những đặc điểm
về quang và nhiệt. Số giờ nắng trong năm nhiều, trung bình 2300 – 2500 giờ, tổng

lượng bức xạ trung bình khoảng 1500 kcal/cm
2
/năm. Nhiệt độ trung bình cao,
khoảng 26,7 – 27
0
C, tổng nhiệt hằng năm là 9.800
0
C. biên độ nhiệt trong năm thấp,
tháng 4 nóng nhất với khoảng 28,6
0
C, tháng 1 lạnh nhất với khoảng 25,5
0
C. Biên độ
nhiệt giữa ngày và đêm dao động lớn, khoảng 7
0
C, mùa khô chênh lệch cao hơn,
mùa mưa chệnh lệch ít hơn. Tính chất mùa thể hiện rõ nét ở chế độ gió và chế độ
ẩm. Trong năm, Hậu Giang chịu ảnh hưởng của hai mùa gió: mùa mưa có gió Tây
Nam từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô có gió Đông Bắc từ tháng 12 đến tháng 4
năm sau. Huyện Châu Thành A có hệ thống sông chằng chịch với lượng nước dồi
dào không chỉ cung cấp nước cho nông nghiệp mà còn có tầm quan trọng trong
ngành giao thông đường thủy.
1.2. THỜI KỲ SINH TRƢỞNG CỦA CÂY LÚA
Trong chu kỳ phát sinh và phát triển của cây lúa, cây lúa phải hoàn thành hai
giai đoạn sinh trưởng phân biệt kế tiếp nhau: dinh dưỡng và sinh dục. Các giống lúa
có thời gian sinh trưởng dài ngắn khác nhau chủ yếu là do sự dài ngắn khác nhau ở
thời kỳ sinh trưởng sinh dưỡng, phụ thuộc vào giống và điều kiện ngoại cảnh.

3



Theo Morais (1998) những cây lúa có chiều cao cây thấp hơn thì ít đổ ngã
hơn. Đổ ngã ảnh hưởng rất nhiều đến năng suất. Nhưng khả năng năng suất hoặc
tiềm năng năng suất của cây trồng lại được xác định chủ yếu là trong thời kỳ trước
trổ bông. Để đánh giá năng suất, chủ yếu dựa vào lượng tinh bột chứa trong hạt lúa
vào thời kỳ trổ bông. Vì thế về mặt nông học, người ta chia đời sống của cây lúa
làm 3 giai đoạn chính (Yoshida, 1981)
1.2.1 Giai đoạn tăng trƣởng
Giai đoạn này của cây lúa được bắt đầu từ khi hạt nảy mầm cho đến khi bắt
đầu phân hóa đòng. Thời gian dành cho giai đoạn này khác nhau tùy theo thời gian
sinh trưởng của từng giống lúa. Đối với những giống có thời gian sinh trưởng 120
ngày được trồng ở các nước có khí hậu nhiệt đới, giai đoạn này chiếm 60 ngày
(Yosida, 1981). Đối với vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long, các giống lúa có thời
gian sinh trưởng là 90 ngày thì giai đoạn này chiếm khoảng 30 ngày.
Giai đoạn này cây phát triển về thân lá, chiều cao tăng dần và ra nhiều chồi
mới. Cây ra lá ngày càng nhiều và kích thước ngày càng lớn giúp cây lúa nhận được
nhiều ánh sáng mặt trời để quang hợp, hấp thụ dinh dưỡng, gia tăng chiều cao, nở
bụi và chuẩn bị cho các giai đoạn sau. Trong điều kiện đầy đủ chất dinh dưỡng, ánh
sáng và thời tiết thuận lợi, cây lúa có thể bắt đầu nở bụi khi có lá thứ 5-6 (Nguyễn
Ngọc Đệ, 2008). Thời gian sinh trưởng của cây lúa kéo dài hay ngắn khác nhau chủ
yếu là do giai đoạn tăng trưởng này dài hay ngắn (Nguyễn Thành Hối, 2010).
Nhờ sự phát triển của rễ và lá diễn ra cùng lúc nên thúc đẩy sự phát triển
mạnh của thân chính và quá trình đẻ nhánh diễn ra đều đặn làm tăng dần số nhánh
trên một bụi lúa. Quá trình đẻ nhánh của cây lúa chỉ diễn ra trong một thời gian nhất
định được gọi là thời gian đẻ nhánh và thời gian này kết thúc khi cây lúa đạt được
số chồi tối đa trên một đơn vị diện tích. Mật độ gieo sạ thưa thì thời gian đẻ nhánh
dài hơn so với gieo sạ dày (Nguyễn Đình Giao và ctv., 1997). Sự khác biệt về giống,
thời vụ và kỹ thuật canh tác sẽ làm thay đổi thời gian đẻ nhánh của cây lúa.
Trong giai đoạn này những nhánh được hình thành chỉ có hai khả năng, (1) là
hình thành nhánh hữu hiệu (nhánh sẽ hình thành bông) và (2) là hình thành nhánh

vô hiệu (nhánh không hình thành bông). Thường thì các nhánh đẻ sớm thì cho bông,

4


còn các nhánh đẻ muộn thì có thể cho bông và không (Yosida, 1981).
Thời gian sinh trưởng của các giống lúa kéo dài hay ngắn khác nhau chủ yếu
là do giai đoạn tăng trưởng này dài hay ngắn. Thường các giống lúa rất ngắn ngày
và ngắn ngày có giai đoạn tăng trưởng ngắn và thời điểm phân hóa đòng có thể xảy
ra trước hoặc ngay khi cây lúa đạt được số chồi tối đa. Ngược lại các giống lúa dài
ngày (trên 4 tháng) thường đạt được số chồi tối đa trước khi phân hóa đòng. Thông
thường, số chồi hình thành bông (chồi hữu hiệu hay là chồi có ích) thấp hơn so với
số chồi tối đa và ổn định khoảng 10 ngày trước khi đạt được số chồi tối đa. Các chồi
ra sau đó, thường sẽ tự rụi đi không cho bông được, do chồi nhỏ, yếu không đủ khả
năng cạnh tranh dinh dưỡng, ánh sáng với các chồi khác, gọi là chồi vô hiệu, trong
canh tác người ta hạn chế đến mức thấp nhất việc sản sinh ra số chồi vô hiệu này
bằng cách tạo điều kiện cho lúa nở bụi càng sớm càng tốt và khống chế sự mọc
thêm chồi từ khoảng 7 ngày trước khi phân hóa đòng trở đi, để tập trung dinh dưỡng
cho những chồi hữu hiệu (Nguyễn Ngọc Đệ, 2008).
1.2.2. Giai đoạn sinh sản
Giai đoạn này bắt đầu từ lúc phân hóa đòng đến khi lúa trổ bông, giai đoạn
này kéo dài khoảng 27 - 35 ngày, trung bình là 30 ngày, giống lúa dài ngày hay
ngắn ngày thường không khác nhau nhiều, lúc này số chồi vô hiệu giảm nhanh,
chiều cao bắt đầu tăng rõ rệt do sự vươn dài của 5 lóng trên cùng. Đòng lúa hình
thành và phát triển qua nhiều giai đoạn cuối cùng thoát ra khỏi bẹ của lá cờ: lúa trổ
bông (Nguyễn Ngọc Đệ, 2008).
Trong đời sống của cây lúa, giai đoạn này được đặc trưng bởi hiện tượng
thân chính của lúa vươn cao nhanh làm tăng chiều cao cây, giảm nhanh chóng số
nhánh vô hiệu, xuất hiện lá đòng, và cuối cùng là trổ bông (Nguyễn Thành Hối,
2003).

Trong giai đoạn này, điều quan tâm nhất chính là sự hình thành và phát triển
của đòng lúa, sự phân hóa đòng thường diễn ra sau khi cây lúa đạt được số chồi tối
đa. Đây chính là thời kỳ báo hiệu cây lúa chuyển từ pha sinh trưởng sang pha sinh
sản. Dấu hiệu đầu tiên là sự vươn lóng diễn ra ở lóng đầu tiên và kế đến là quá trình
hình thành đòng lúa. Sự phát triển của đòng lúa trải qua nhiều quá trình phân chia tế

5


bào và giảm nhiễm. Theo Nguyễn Xuân Trường (2004), thì quá trình này trải qua
chín bước, sau khi đòng lúc hình thành hoàn chỉnh thì nhờ sự vươn dài của hai lóng
trên cùng mà đòng lúa thoát ra khỏi bẹ lá cờ (Nguyễn Đình Giao và ctv., 1997).
Ở giai đoạn này, cây lúa được cung cấp đầy đủ dinh dưỡng, mực nước thích
hợp, ánh sáng nhiều, không sâu bệnh và thời tiết thuận lợi thì bông lúa sẽ hình thành
nhiều hơn và vỏ trấu sẽ đạt kích thước lớn nhất của giống (Nguyễn Ngọc Đệ, 2008).
Như vậy, trong giai đoạn này đặc trưng bởi sự phân hóa và hình thành đòng của cây
lúa, quá trình này sẽ quyết định đến số hoa được phân hóa trên bông lúa nên ảnh
hưởng đến sự hình thành số hạt/bông, số hạt chắc/bông và tỷ lệ hạt chắc của cây lúa
(Nguyễn Trường Giang, 2010).
1.2.3. Giai đoạn chín
Giai đoạn này được tính từ khi cây lúa trổ bông đến khi thu hoạch. Thời gian
dành cho giai đoạn này khoảng 30 ngày đối với hầu hết các giống lúa. Tuy nhiên,
nếu đất ruộng có nhiều nước, thiếu lân, thừa đạm, trời mưa ẩm, ít nắng trong giai
đoạn này thì sẽ làm cho thời gian chín kéo dài hơn và ngược lại (Lê Văn Hòa và
ctv., 2001).
Trong giai đoạn này lá lúa sẽ già đi và sự phát triển to dần lên của hạt lúa, hạt
lúa tăng trưởng mạnh cả về khối lượng hạt tươi và khối lượng khô trong giai đoạn
này. Tuy nhiên, trước khi chín khô tăng chậm, mà khối lượng tươi giảm nhanh
chóng do mất nước. Dựa vào sự thay đổi về hình dạng, màu sắc, chất dự trữ và
trọng lượng hạt mà quá trình chín của hạt lúa được chia thành các thời kỳ chín sữa,

chín sáp, chín vàng và chín hoàn toàn (Nguyễn Ngọc Đệ, 2008).
Trong đó quan trọng nhất của giai đoạn này là thời kỳ chín sữa. Trong quá
trình chín sữa, các chất dự trữ trong thân lá và sản phẩm quang hợp được chuyển
vào trong hạt. Hơn 80% lượng vật chất khô tích lũy trong hạt là do quá trình quang
hợp sau trổ cung cấp. Do đó, các điều kiện dinh dưỡng, tình trạng sinh trưởng, phát
triển của cây lúa và thời tiết giai đoạn sau trổ trở đi hết sức quan trọng đối với quá
trình hình thành năng suất lúa, kích thước và trọng lượng hạt gạo tăng dần làm đầy
vỏ trấu (Nguyễn Bảo Vệ, 2003).
Như vậy, trong giai đoạn này thời kỳ chín sữa là quan trọng nhất, do sự tích

6


lũy vật chất khô vào hạt tăng trong điều kiện đầy đủ ánh sáng và dinh dưỡng. Đó là
quá trình ảnh hưởng rất lớn đến trọng lượng hạt.
1.3. CÁC THÀNH PHẦN NĂNG SUẤT
Theo Nguyễn Ngọc Đệ (2008) thì năng suất được hình thành và chịu ảnh
hưởng của bốn yếu tố gọi là bốn thành phần năng suất: số bông trên đơn vị diện
tích, số hạt trên bông, tỷ lệ hạt chắc và trọng lượng 1000 hạt. Năng suất lúa được
tính theo công thức:

-5
Y=N×F×w×10

Trong đó:
Y: Năng suất (tấn/ha)
N: số hạt/m
2

F: tỷ lệ hạt chắc

w: trọng lượng 1000 hạt (g)
Năng suất là chỉ tiêu tổng hợp của tất cả các yếu tố cấu thành năng suất. Trên
thực tế, các yếu tố cấu thành năng suất có quan hệ rất chặt chẽ với nhau. Muốn tăng
năng suất lúa không chỉ tác động riêng rẽ từng yếu tố mà phải tác động tổng hợp.
1.3.1. Số bông/m
2

Số bông/m
2
là yếu tố quan trọng nhất quyết định đến năng suất lúa. Với mật
độ gieo sạ khác nhau thì số bông/m
2
là khác nhau (Nguyễn Thị Nga, 2011). Số bông
trên đơn vị diện tích được quyết định vào giai đoạn sinh trưởng ban đầu của cây lúa
(giai đoạn tăng trưởng), nhưng chủ yếu là giai đoạn từ khi cấy đến khoảng 10 ngày
trước khi có chồi tối đa, số bông trên đơn vị diện tích tùy thuộc vào mật độ sạ cấy
và khả năng nở bụi của lúa. Mật độ sạ cấy và khả năng nở bụi của lúa thay đổi tùy
theo giống lúa, điều kiện đất đai, thời tiết, lượng phân bón nhất là phân đạm và chế
độ nước. Số bông trên đơn vị diện tích có ảnh hưởng thuận với năng suất lúa
(Nguyễn Ngọc Đệ, 2008).
Theo Nguyễn Đình Giao và ctv. (1997) thì số bông/m
2
là yếu tố đóng góp
nhiều nhất vào năng suất lúa. Số bông có thể đóng góp 74% năng suất, trong khi đó
số hạt và trọng lượng của hạt đóng góp 26%. Khi xem xét mối quan hệ nguồn và

7


sức chứa thì số bông/m

2
ảnh hưởng đến năng suất kinh tế với hệ số tương quan rất
cao r = 0,91 (Phạm Văn Chương, 2002).
Khi phân tích tương quan hệ số Path năng suất và thành phần năng suất cho
thấy số bông/m
2
gia tăng khi mật độ sạ tăng (Trần Thị Ngọc Huân và ctv,. 1999).
Tuy nhiên, trong điều kiện mật độ sạ cao làm tăng số bông/m
2
ở mức vừa phải, nếu
tăng mật độ lên quá cao sẽ gây hiện tượng lốp, đỗ, sâu bệnh dễ bộc phát và số hạt
trên bông sẽ ít đi rõ rệt (Yosida, 1981).
Theo Vũ Văn Hiển và Nguyễn Văn Hoan (1999), số bông trên đơn vị diện
tích được quyết định bởi hai yếu tố: mật độ sạ và tỷ lệ đẻ nhánh. Mật độ sạ đặt cơ sở
cho việc hình thành số bông. Trong điều kiện thâm canh cần mật độ sạ phù hợp tùy
giống, đất đai, phân bón, thời vụ,
Nói chung, đối với các giống lúa ngắn ngày, thấp cây, nở bụi ít, đất xấu,
nhiều nắng nên gieo cấy dày để tăng số bông trên đơn vị diện tích. Ngược lại, trên
đất giàu hữu cơ, thời tiết tốt, lượng phân bón nhiều (nhất là đạm) và giữ nước thích
hợp thì lúa nở bụi khỏe có thể gieo cấy thưa hơn. Các giống lúa cải thiện thấp cây
có số bông/m
2
trung bình phải đạt 500 – 600 bông đối với lúa sạ hoặc 350 – 450
bông đối với lúa cấy mới có được năng suất cao (Phạm Sĩ Tân, 2008).
Tóm lại, số bông/m
2
là một thành phần năng suất góp phần quan trọng trong
việc tạo nên năng suất và chịu ảnh hưởng của mật độ gieo sạ. Số chồi hữu hiệu là
yếu tố trực tiếp quyết định đến số bông/m
2

.
1.3.2. Số hạt/bông
Số hạt/bông cũng là yếu tố quan trọng cấu thành năng suất. Số hạt/bông chủ
yếu do yếu tố di truyền của giống quy định. Tuy nhiên nó cũng chịu tác động của
các yếu tố ngoại cảnh do ảnh hưởng đến quá trình phân hóa hoa. Số hạt/bông phụ thuộc
vào số gié, số hoa phân hóa cũng như số gié, số hoa thoái hóa. Số hạt/bông = Số hoa phân
hóa - Số hoa thoái hóa.
Số hạt trên bông được quyết định từ lúc tượng cổ bông đến 5 ngày trước khi trổ,
nhưng quan trọng nhất là thời kỳ phân hóa hoa và giảm nhiễm tích cực. Ở giai đoạn này,
số hạt trên bông có ảnh hưởng thuận đối với năng suất lúa do ảnh hưởng đến số hoa được
phân hóa. Sau giai đoạn này, số hạt trên bông đã hình thành có thể bị thoái hóa có ảnh

8


hưởng âm (Võ Thị Lang và ctv,. 2008).
Số hạt trên bông nhiều hay ít tùy thuộc vào số gié, hoa phân hóa cũng như số gié,
hoa thoái hóa. Các quá trình này nằm trong thời kỳ sinh trưởng sinh dục từ lúc làm đòng
đến trổ bông (Nguyễn Đình Giao và ctv., 1997).
Số hạt/bông chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố. Yếu tố trồng trọt: trong điều kiện
canh tác ngoài đồng cây lúa tăng trưởng kém, số hạt/bông có thể được làm tăng bằng cách
gia tăng mật độ gieo sạ ở mức vừa phải và gia tăng lượng phân đạm bón cho cây. Yếu tố
đặc tính sinh trưởng: nếu như cây lúa có đặc tính đẻ nhánh kém thì đòi hỏi mật độ gieo sạ
phải cao, các giống có thời gian sinh trưởng ngắn và trong điều kiện bón ít phân đạm thì
đòi hỏi mật độ sạ phải cao hơn để đạt số hạt trên đơn vị diện tích không thay đổi (Lê Hữu
Toàn, 2009).
Nhìn chung, số hạt/bông phụ thuộc vào số hoa được phân hóa và số hoa bị thoái
hóa, hai yếu tố này chịu ảnh hưởng bởi giống lúa, kỹ thuật canh tác và điều kiện thời tiết.
Đối với những giống lúa bông to, kỹ thuật canh tác tốt, bón phân đầy đủ, chăm sóc đúng
mức, thời tiết thuận lợi thì số hoa phân hóa sẽ nhiều, số hoa thoái hóa càng ít, nên số hạt

cuối cùng trên bông cao. Ở các giống lúa cải thiện, số hạt từ 80 – 100 hạt đối với lúa sạ
hoặc 100 – 120 hạt đối với lúa cấy là tốt trong điều kiện Đồng Bằng Sông Cửu Long
(Nguyễn Ngọc Đệ, 2008). Như vậy, số hạt/bông là yếu tố quyết định bởi sự sai khác giữa
số hoa được phân hóa và số hoa bị thoái hóa đi, yếu tố thành phần năng suất này chịu ảnh
hưởng của đặc tính về giống và điều kiện ngoại cảnh.
1.3.3. Tỷ lệ hạt chắc
Tỷ lệ hạt chắc được quyết định từ đầu thời kỳ phân hóa đòng đến khi lúa vào chắc
nhưng quan trọng nhất là các thời kỳ phân bào giảm nhiễm, trổ bông, phơi màu, thụ phấn,
thụ tinh và vào chắc. Tỷ lệ hạt chắc tùy thuộc vào số hoa trên bông, đặc tính sinh lý của
cây lúa và chịu ảnh hưởng lớn của điều kiện ngoại cảnh, thường số hoa trên bông quá
nhiều sẽ dẫn đến tỷ lệ hạt chắc thấp. Các giống lúa có khả năng quang hợp, tích lũy và
chuyển vị các chất mạnh, cộng với cấu tạo mô cơ giới vững chắc không đỗ ngã sớm, lại trổ
và tạo hạt trong điều kiện thời tiết tốt, dinh dưỡng đầy đủ thì tỷ lệ hạt chắc sẽ cao và ngược
lại. Muốn có năng suất cao tỷ lệ hạt chắc phải trên 80% (Nguyễn Xuân Trường, 2004).
Nguyên nhân hạt lép là do quá trình thụ phấn thụ tinh không thuận lợi, khi ra hoa

9


gặp rét hoặc nóng quá, ẩm độ không khí quá thấp hoặc quá cao, làm cho hạt phấn mất khả
năng nảy mầm hoặc trước đó nhị và nhụy phát triển không hoàn toàn, tế bào mẹ hạt phấn
bị hại (Nguyễn Đình Giao và ctv., 1997).
Khi xét mối quan hệ nguồn và sức chứa, số hạt chắc trên bông ảnh hưởng đến năng
suất thực tế (Phạm Văn Chương, 2002). Kết quả phân tích hệ số tương quan Path năng
suất và thành phần năng suất cho thấy khi gia tăng mật độ gieo sạ thì số hạt chắc/bông
giảm và làm giảm tỷ lệ hạt chắc (Trần Thị Ngọc Huân và ctv., 1999).
Nguyễn Thành Hối (2003) cho rằng, lúa Đông Xuân xuống giống muộn sẽ gặp bất
lợi nhiều về điều kiện thời tiết lúc lúa trổ, do lúc này là đầu mùa mưa nên vũ lượng cao,
mưa kéo dài và đặc biệt là trời hay mưa vào buổi sáng nên bông lúa khó thụ phấn, thụ tinh
và hạt bị lép nhiều. Trong điều kiện thời tiết không thuận lợi, như nhiệt độ thấp và cao vào

giai đoạn phân bào giảm nhiễm và trổ gié hoa có thể gây ra bất thụ. Các điều kiện thời tiết
không thuận lợi lúc chín có thể ức chế sự sinh trưởng trực tiếp của vài gié hoa, cho ra
những gié hoa lép (Bùi Huy Đáp, 1980).
Tỷ lệ hạt chắc ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố như: phân bón, nhiệt độ, mưa gió và hạn
hán. Đối với mỗi giống có yêu cầu về lượng phân bón nhất định. Nhiệt độ trên 20
0
C nếu
duy trì liên tục từ lúc lúa làm đòng đến trổ bông hoặc nhiệt độ cao trên 35
0
C sau khi lúa
trổ xong đều làm giảm tỷ lệ hạt chắc. Gió, mưa và bão làm ảnh hưởng đến quá trình thụ
phấn, thụ tinh và gây đỗ ngã làm ảnh hưởng đến tỷ lệ hạt chắc. Ngoài ra, hạn hán làm thiếu
nước tưới của một số vùng cũng làm giảm tỷ lệ hạt chắc nhất là khi cây lúa vừa trổ xong
và bắt đầu ngậm sữa (Lê Hữu Toàn, 2009). Tỷ lệ hạt chắc là kết quả của quá trình thụ phấn
và thụ tinh trong môi trường. Và thành phần này chịu sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố môi
trường vào khoảng thời gian trước, trong và sau trổ.
1.3.4. Trọng lƣợng 1000 hạt
Trọng lượng hạt được quyết định ngay từ thời kỳ phân hóa hoa đến khi lúa chín,
nhưng quan trọng nhất là các thời kỳ giảm nhiễm tích cực và vào chắc rộ. Trọng lượng hạt
tùy thuộc vào cỡ hạt và độ mẩy (no đầy) của hạt lúa. Đối với lúa, người ta thường biểu thị
trọng lượng hạt bằng trọng lượng của 1000 hạt với đơn vị là gram. Ở phần lớn các giống
lúa, trọng lượng 1000 hạt thường biến thiên tập trung trong khoảng 20 – 30 gram (Nguyễn
Ngọc Đệ, 2008).

10


Trọng lượng 1000 hạt ít chịu tác động của môi trường và có hệ số di truyền cao. Nó
phụ thuộc hoàn toàn vào giống. Trọng lượng 1000 hạt của một giống giữ ổn định không có
nghĩa là từng hạt có khối lượng như nhau, chúng thay đổi trong một giới hạn nhất định

nhưng có giá trị trung bình luôn ổn định. Trọng lượng 1000 hạt do hai bộ phận cấu thành,
trọng lượng vỏ trấu và trọng lượng hạt gạo. Trọng lượng vỏ trấu thường chiếm 20% và
trọng lượng hạt gạo chiếm 80% trọng lượng toàn hạt. Muốn có trọng lượng hạt gạo cao
phải tác động vào cả hai yếu tố này (Nguyễn Đình Giao và ctv., 1997).
Khi xem xét mối quan hệ nguồn và sức chứa cho thấy, trọng lượng 1000 hạt ảnh
hưởng đến năng suất thực tế (Phạm Văn Chương, 2002). Kết quả phân tích tương quan hệ
số Path năng suất và thành phần năng suất cho thấy trọng lượng 1000 hạt là đặc tính của
giống và là nhân tố thứ hai (sau số hạt chắc/bông) trong xác định năng suất cây lúa (Trần
Thị Ngọc Huân và ctv., 1999).
Nguyễn Đình Giao và ctv. (1997) cho rằng hạt lúa được quy định bởi kích thước
của hai vỏ trấu tạo nên sức chứa cho hạt và yếu tố kế đến là lượng chất khô tích lũy tạo nên
hạt gạo. Cho nên, quá trình quang hợp trong giai đoạn chín của cây lúa sẽ làm ảnh hưởng
đến sự cung cấp carbohyrate cho hạt, bên cạnh đó nếu tình trạng đỗ ngã xảy ra sẽ làm ngăn
cản sự chuyển vị sản phẩm của quang hợp làm cho hạt lúa bị lép lững nhiều. Trọng lượng
hạt chủ yếu do đặc tính di truyền của giống quyết định, điều kiện môi trường có ảnh hưởng
một phần vào thời kỳ giảm nhiễm (18 ngày trước khi trổ) trên cở hạt, cho đến khi vào chắc
rộ (15 – 25 ngày sau khi trổ) trên độ mẩy của hạt (Nguyễn Ngọc Đệ, 2008).
Như vậy, trọng lượng 1000 hạt chịu ảnh hưởng lớn của đặc tính giống, sự tác động
của điều kiện tự nhiên và kỹ thuật canh tác có thể cũng làm thay đổi trọng lượng hạt phần
nhỏ, sản phẩm quang hợp sau trổ là yếu tố quyết định đến trọng lượng 1000 hạt.
1.4. PHƢƠNG PHÁP GIEO SẠ
Có nhiều phương pháp để gieo sạ. Tuy nhiên, dựa vào điều kiện đất đai và nước
tưới mà chọn lựa phương pháp sạ thích hợp. Những vùng chủ động được nguồn nước tưới
và đất tương đối bằng phẳng thường áp dụng phương pháp sạ ướt. Hiện nay, hầu hết diện
tích trồng lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long là lúa cao sản và phương pháp sạ ướt được áp
dụng nhiều nhất (Nguyễn Thành Hối, 2010).

11



1.4.1. Phƣơng pháp sạ lan
Đặc điểm của phương pháp sạ này là cây lúa đẻ nhánh sớm, số bông nhiều, năng
suất quan hệ chặt chẽ với số bông. Tuy nhiên, nhược điểm của phương pháp này là mật độ
thường không đều, bộ rễ ăn cạn, dễ bị chim chuột phá hoại và lúa thường bị đỗ ngã vào
mùa mưa gió nhiều (Nguyễn Đình Giao và ctv., 1997).
Phương pháp sạ lan đã được nông dân áp dụng từ khi bắt đầu canh tác lúa cao sản
thay thế cho lúa mùa năng suất thấp. Phương pháp này tỏ ra có những ưu điểm nổi trội so
với phương pháp sạ hoặc cấy lúa mùa về khả năng gia tăng số bông/m
2
, tính đồng đều về
chiều cao và khả năng nhận ánh sáng (Trần Đức Viên, 2007).
Hiện nay, lượng giống cao sản ngắn ngày sạ lan được khuyến cáo là 150 kg/ha
(Nguyễn Thành Hối, 2010). Tuy nhiên, trong thực tế sản xuất thường người dân trồng lúa
theo tập quán với mật độ cao, lượng giống gieo sạ từ 200 – 300 kg/ha (Nguyễn Văn Luật,
2001). Với lượng giống gieo sạ nhiều như thế thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự tiếp nhận ánh
sáng của từng cây lúa trong quần thể ruộng lúa, nhu cầu dinh dưỡng từ đất trồng và tạo
điều kiện thuận lợi cho sâu bệnh phát triển. Các nhà khoa học đã chứng minh được những
yếu tố gây dịch bệnh tích cực nhất là khi cây trồng phải sống trong quần thể chật hẹp thiếu
ánh sáng cho các lá dưới, làm cây lúa trở nên yếu ớt sâu bệnh dễ tấn công (Nguyễn Kim
Chung và Nguyễn Ngọc Đệ, 2005).
1.4.2. Phƣơng pháp sạ hàng
Hiện nay, sạ hàng ở Đồng bằng sông Cửu Long đã thể hiện nhiều ưu điểm so
với sạ lan truyền thống như: tiết kiệm vật tư mà chủ yếu là giống và phân bón, tạo
điều kiện thuận lợi để thâm canh, giảm thiệt hại do sâu bệnh, tăng năng suất so với
sạ lan và kết hợp nuôi cá hay nuôi vịt chóng lớn (Nguyễn Văn Luật, 2001).
Ứng dụng kỹ thuật từ mẫu máy sạ hàng được cải tiến từ “drum seeder” của
Viện Nghiên cứu lúa quốc tế (IRRI) và bắt đầu được thực hiện ở Đồng bằng sông
Cửu Long từ năm 1990 cho đến nay (Bùi Chí Bửu và Nguyễn Thị Lang, 2009). Có
thể thấy rằng phương pháp sạ hàng tỏ ra hiệu quả so với sạ lan truyền thống. Tuy
nhiên, việc áp dụng kỹ thuật này cũng gặp một số trở ngại như ốc bươu vàng, diện

tích nhỏ khó áp dụng và đất thiếu bằng phẳng (Lê Trường Giang, 2005).
Với phương pháp này, cây lúa có sự phân bố trong quần thể ruộng lúa thích

12


hợp nên đã tận dụng được năng lượng mặt trời cho quá trình quang hợp tạo năng
suất và làm giảm thiệt hại do tác động của ngoại cảnh (Nguyễn Văn Luật, 2001).
Theo nhiều kết quả nghiên cứu cho thấy lượng giống gieo sạ thích hợp cho kỹ thuật
này ở Đồng bằng sông Cửu Long là khoảng từ 70-100 kg giống/ha (Bùi Chí Bửu và
Nguyễn Thị Lang, 2009). Dưới điều kiện quản lý đồng ruộng tốt, mật độ sạ 100 kg
giống/ha được khuyến cáo để nhận năng suất lúa có chất lượng tốt, cũng như đáp
ứng đủ số bông/m
2
cho việc chín đồng bộ trong hệ thống canh tác lúa sạ ướt (Trần
Thị Ngọc Huân và ctv ., 1999).
So với phương pháp sạ lan truyền thống thì phương pháp sạ hàng có thể làm
giảm được lượng giống sử dụng từ 50-75%, lượng giống giảm tương ứng khoảng
100-150 kg/ha (Nguyễn Văn Luật và ctv., 1999). Như vậy, phương pháp sạ hàng có
nhiều ưu điểm so với sạ lan như: giảm được lượng giống gieo sạ, giảm sâu bệnh và
có thể tăng năng suất.
1.5. NHỮNG NGHIÊN CỨU VỀ MẬT ĐỘ GIEO SẠ
Theo Nguyễn Văn Hoan (1995), thì tùy từng giống lúa để chọn mật độ thích
hợp vì cần tính đến khoảng cách đủ rộng để làm hàng lúa thông thoáng, các bụi lúa
không chen nhau. Cách bố trí bụi lúa theo hình chữ nhật là phù hợp nhất vì như thế
mật độ trồng được đảm bảo nhưng lại tạo ra được sự thông thoáng trong quần thể,
tăng khả năng quang hợp, chống bệnh tốt và tạo ra hiệu ứng rìa sẽ cho năng suất cao
hơn.
Mật độ trồng thích hợp, quần thể lúa sẽ sử dụng tốt nước và dinh dưỡng để
tạo ra năng suất cao nhất, mật độ sản xuất giống đảm bảo tạo ra 400-500 bông/ m

2
,
có nghĩa là 70-100 cây mạ/ m
2
là tốt nhất. Mật độ thưa sẽ tăng khả năng đẻ nhánh
và có thể gây ra biến động lớn về độ chín đồng đều của các bông ảnh hưởng tới chất
lượng hạt giống, mật độ thưa làm tăng cỏ dại cũng làm giảm chất lượng hạt giống.
Mật độ trồng quá cao làm giảm năng suất và chất lượng hạt giống vì cạnh tranh
nước và dinh dưỡng, che khuất lẫn nhau, dễ đổ và giảm kích thước hạt.
Theo Tăng Thị Hạnh (2003) cho rằng mật độ gieo cấy khác nhau ảnh hưởng
rõ đến khả năng đẻ nhánh của cây lúa. Chỉ số diện tích lá tăng khi mật độ tăng từ
25- 165 chồi/ m
2
, nếu cùng số chồi/ bụi khi mật độ tăng trong hai giai đoạn nhưng

×