Tải bản đầy đủ (.doc) (84 trang)

CHIẾC ĐỒNG HỒ VÀ CÁI LA BÀN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (497.06 KB, 84 trang )

Nguyễn Ngọc Tuấn Ngân hàng 48A
LỜI NÓI ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, sự phát triển của các thành phần kinh tế
đang góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta. Các công ty TNHH, công ty cổ phần,doanh nghiệp tư
nhân… mọc lên hoàng loạt và cạnh tranh gay gắt với các doanh nghiệp Nhà nước.
Bên cạnh đó các chính sách kinh tế mở đã thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào
nước ta dưới mọi hình thức như liên doanh, liên kết, các khu chế xuất….mang theo
cả “bầu không khí” thị trường vào nước ta khiến cho nền kinh tế trong nước sôi động
hẳn lên. Trong chu kì phát triển đó vai trò của vốn và sự điều tiết của vốn là vô cùng
quan trọng. Chính vì vậy mà các ngân hàng thương mại đóng một vai trò vô cùng to
lớn trong nền kinh tế quốc dân.
Cùng với sự vận động của nền kinh tế, hệ thống Ngân hàng - sản phẩm của
nền kinh tế hàng hoá cũng đã, đang vận động kịp thời để thích nghi với điều kiện
mới. Hoạt động Ngân hàng là một mắt xích quan trọng trong sự vận động nhịp nhàng
của nền kinh tế, trong sự nghiệp đổi mới hệ thống ngân hàng nói chung và Ngân hàng
thương mại nói riêng đã góp phần tích cực vào công cuộc đổi mới của đất nước, xây
dựng hoàn thiện một nền kinh tế thị trường ở Việt Nam phát triển bền vững.
Đối với Ngân hàng thương mại thì nghiệp vụ tín dụng là nghiệp vụ chủ yếu,
chiếm tỷ trọng lớn khoảng 80%, đây là nghiệp vụ tạo ra khoảng 90% trong tổng lợi
nhuận của ngân hàng. Xong rủi ro từ nghiệp vụ tín dụng là rất lớn, nó có thể xảy ra
bất kỳ lúc nào, làm sai lệch đảo lộn kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng, có
thể đưa ngân hàng đến chỗ phá sản. Sự phá sản của ngân hàng là một cú sốc mạnh
không chỉ gây ảnh hưởng đến hệ thống ngân hàng, mà còn ảnh hưởng tới toàn bộ đời
sống kinh tế, chính trị, xã hội. Chính vì vậy đòi hỏi các Ngân hàng phải quan tâm và
hiểu rõ rủi ro, đặc biệt là rủi ro tín dụng. Việc đánh giá đúng thực trạng rủi ro tín
dụng để tìm ra các biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro là một yêu cầu cấp thiết,
đảm bảo an toàn và hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng
Chính vì vậy để hiểu rõ hơn về hoạt động tín dụng trong các NHTM và vai trò
to lớn của nó trong nền kinh tế thị trường nhằm khai thác có hiệu quả hoạt động tín
dụng ngân hàng góp phần phát triển nền kinh tế Việt Nam em xin chọn đề tài: ”Hoạt


Nguyễn Ngọc Tuấn Ngân hàng 48A
động tín dụng và một số biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP
Quân Đội chi nhánh Thanh Xuân”
Đề tài bao gồm có 3 chương:
Chương I : Tổng quan về rủi ro tín dụng tại NHTM
Chương II : Thực trạng quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Quân
Đội chi nhánh Thanh Xuân
Chương III: Một số biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng tại Ngân hàng
TMCP Quân Đội chi nhánh Thanh Xuân
Do trình độ còn hạn chế nên bài viết sẽ không tránh khỏi thiếu sót, em rất
mong sẽ nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và bạn bè để vấn đề
nghiên cứu được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn tập thể và ban lãnh đạo Ngân hàng TMCP Quân
Đội chi nhánh Thanh Xuân đã tạo điều kiện giúp đỡ và đặc biệt là sự chỉ dẫn của thầy
giáo Nguyễn Anh Tuấn để e hoàn thành đề án này.
Nguyễn Ngọc Tuấn Ngân hàng 48A
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NHTM
1.1 Ngân hàng thương mại :
1.1.1. Định nghĩa :
Ngân hàng Thương mại (NHTM) là tổ chức tài chính trung gian có vị trí quan
trọng nhất trong nền kinh tế, nó là một loại hình doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh
vực tiền tệ - tín dụng. Theo pháp lệnh ngân hàng ngày 23-5-1990 của Hội đồng Nhà
nước xác định:" Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động
chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả
và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện
thanh toán".
Như vậy NHTM làm nhiệm vụ trung gian tài chính đi vay để cho vay qua đó
thu lời từ chênh lệch lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi, nó thực sự là một loại
hình doanh nghiệp dịch vụ tài chính, mặc dù giữa NHTM và các tổ chức tài chính
trung gian khác rất khó phân biệt sự khác nhau, nhưng người ta vẫn phải tách NHTM

ra thành một nhóm riêng vì những lý do rất đặc biệt của nó như tổng tài sản có của
NHTM luôn là khối lượng lớn nhất trong toàn bộ hệ thống Ngân hàng, hơn nữa khối
lượng séc hay tài khoản gửi không kì hạn mà nó có thể tạo ra cũng là bộ phận quan
trọng trong tổng cung tiền tệ M
1
của cả nền kinh tế. Cho thấy NHTM có vị trí rất
quan trọng trong hệ thống ngân hàng cũng như trong nền kinh tế quốc dân.
1.1.2. Vai trò của NHTM đối với sự phát triển của nền kinh tế :
Thứ nhất: Với chức năng chung gian tài chính, ngân hàng là nơi cấp vốn cho
nền kinh tế.
Thứ hai: Ngân hàng thương mại là cầu nối giữa doanh nghiệp với thị trường,
hoạt động của các doanh nghiệp chịu sự tác động mạnh mẽ của các quy luật kinh tế
khách quan như: Quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh.
Thứ ba: Ngân hàng thương mại là một chủ thể tạo sự tác động trực tiếp của
những công cụ như lãi suất, dự trữ bắt buôc, thị trường mở ...các Ngân hàng thương
mại đã góp phần mở rộng và thu hẹp khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông để ổn
định giá trị đồng tiền cả về mặt đối nội và đối ngoại.
Thứ tư: Ngân hàng thương mại là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài
chính quốc tế.
Nguyễn Ngọc Tuấn Ngân hàng 48A
1.2. Hoạt động tín dụng của NHTM :
Hoạt động tín dụng là một trong những nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng, nó
là hoạt động sinh lợi chủ yếu và luôn chiếm một tỉ trọng lớn trong tổng tài sản có của
các NHTM, do đó nó có vị trí rất quan trọng trong hoạt động của ngân hàng.
1.2.1. Tín dụng ngân hàng :
1.2.1.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng :
Là quan hệ chuyển giao quyền sử dụng vốn lẫn nhau giữa người đi vay và
người cho vay trên nguyên tắc có hoàn trả (trong đó người cho vay là ngân hàng).
Quan hệ tín dụng dựa trên nền tảng của sự tin tưởng nhau giữa các chủ thể. Trong
quá trình đó, bên cho vay sẽ chuyển giao vốn của mình cho bên vay sử dụng trong

một thời gian nhất định mà hai bên thỏa thuận gọi là thời hạn tín dụng, khi đến hạn
bên đi vay sẽ phải hoàn trả vô điều kiện cả gốc lẫn lãi cho bên cho vay.
Điều 20 trong luật Các Tổ chức tín dụng Việt Nam quy định: “tín dụng ngân
hàng là quan hệ tín dụng trong đó người cho vay là ngân hàng hoặc các tổ chức tín
dụng còn người đi vay là các doanh nghiệp hoặc các cá nhân có nhu cầu về vốn.”
Theo đó, việc cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thoả thuận để khách hàng sử dụng
một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu,
cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác.
Điểm đặc biệt trong tín dụng ngân hàng là việc ngân hàng vừa là người đi vay
vừa là người cho vay bằng vốn của người khác. Quá trình vận động này đặc biệt ở
chỗ ngân hàng chỉ bán quyền sử dụng của mình đối với tiền hay hàng hoá, chứng
khoán, dịch vụ chứ không bán quyền sở hữu nên sau một thời gian sẽ thu hồi cả vốn
lẫn lãi.
Và giáo trình “Ngân hàng thương mại” của trường Đại học kinh tế quốc dân
định nghĩa rằng “Ngân hàng thương mại là một tổ chức tài chính cung cấp một danh
mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh
toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ tổ chức kinh doanh
nào trong lền kinh tế”. Từ định nghĩa đó ta thấy được hoạt động chính của các ngân
hàng là huy động vốn trong nền kinh tế và sử dụng số vốn huy động được vào hoạt
động kinh doanh của mình. Số vốn của ngân hàng thực tế nhỏ hơn rất nhiều so với
nhu cầu vay vốn của cá khách hàng vì vậy ngoài nguồn vốn chủ ngân hàng còn huy
động vốn từ nhiều nguồn khác nhau, những nguồn vốn này là cơ sở để ngân hàng tiến
Nguyễn Ngọc Tuấn Ngân hàng 48A
hành các hoạt động của mình trong đó có hoạt động tín dụng ngân hàng. Vì vậy có
thể nói đây là nguồn gốc của hoạt động tín dụng ngân hàng.
1.2.1.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng :
Tín dung ngân hàng là hoạt động quan trong nhất của các ngân hàng thương
mại. Nó có vai trò quan trọng đối với chính các ngân hàng này và với toàn bộ nền
kinh tế.
• Đối với nhà nước:

Trước hết tín dụng ngân hàng có vai trò điều chỉnh cung tiền thông qua dự trữ
bắt buộc và hạn mức tín dụng. Thông qua hoạt động cấp tín dụng cho nền kinh tế,
ngân hàng đã tạo ra số nhân tiền tệ. Đó chính là khả năng tạo tiền của ngân hàng.
Chúng ta đã biết công thức tính cung tiền của nền kinh tế M=m*MB trong đó m =
(1+c)/(r+c) với r = R/D và c = C/D. (M: cung tiền; MB: lượng tiền cơ sở; m: số nhân
tiền; c: tỷ lệ tiền tệ trong lưu thông; r: tỷ lệ dự trữ tiền gửi; R: lượng tiền dự trữ trong
ngân hàng; C: số lượng tiền mặt đang lưu thông; D: số lượng tiền gửi tại các ngân
hàng thương mại). Qua công thức ta nhận thấy cung tiền trong nền kinh tế tỷ lệ
nghịch với tỷ lệ dự trữ tiền gửi tại các ngân hàng. Tỷ lệ dự trữ này của các NHTM lại
phụ thuộc vào tỷ lệ dự trữ bắt buộc mà ngân hàng nhà nước quy định, các ngân hàng
thương mại luôn dự trữ một khoảng tiền lớn hơn mức dự trữ bắt buộc để vừa đảm
bảo được mức dự trữ của mình luôn phải đạt được mức dự trữ bắt buộc mà vẫn
không ảnh hưởng tới việc kinh doanh của ngân hàng. Còn về hạn mức tín dụng, nó sẽ
tác động đến lượng tiền cho vay của các NHTM với khách hàng và qua đó ảnh hưởng
tới số tiền cung tiền của nền kinh tế. Vì yếu tố đó mà ngân hàng nhà nước sẽ dễ dàng
thay đổi lượng tiền cung ứng bằng cách điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc hoặc hạn
mức tín dụng đối với các NHTM.
Tín dụng ngân hàng còn góp phần vào tài trợ nguồn vốn sản xuất kinh doanh,
mở rộng sản xuất của doanh nghiệp. Và khi các doanh nghi p m r ng s n xu t kinhệ ở ộ ả ấ
doanh s kéo theo n n s n xu t xã h i phát tri n. Bên c nh ó khi các doanh nghi pẽ ề ả ấ ộ ể ạ đ ệ
m r ng s n xu t s t o i u ki n cho m t b ph n lao ng trong xã h i có cở ộ ả ấ ẽ ạ đ ề ệ ộ ộ ậ độ ộ đượ
công n vi c làm, t ng thu nh p c i thi n i s ng góp ph n h n ch các t n nă ệ ă ậ ả ệ đờ ố ầ ạ ế ệ ạ
trong xã h i.ộ
Nguyễn Ngọc Tuấn Ngân hàng 48A
Với chức năng trung gian tài chính của mình, ngân hàng với nghiệp vụ tín
dụng của nó có vai trò quan trọng trong thúc đẩy lưu thông tiền tệ. Nếu không có các
tín dụng ngân hàng đứng ra làm cầu nối giữa người cho vay đầu tiên và người đi vay
cuối cùng thì những người này sẽ phải tự tìm đến nhau. Điều này vốn không phải dễ
vì rất khó để những người cho vay và đi vay ở cùng một mức lãi suất, cùng một
lượng tiền gặp nhau trong nền kinh tế. Điều đó dẫn tới hiện tượng ứ đọng vốn trong

nền kinh tế gây ra tồn đọng trong quá trình lưu thông tiền tệ. Với sự xuất hiện của tín
dụng ngân hàng vấn đề này đã được giải quyết. Và chúng ta cũng nhận thấy nếu
lượng vốn ứ đọng này không được giải quyết hợp lý sẽ ảnh hưởng đến lưu thông tiền
tệ dẫn đến mất cân đối trong mối quan hệ tiền – hàng, kéo theo sự biến động của hệ
thống giá cả. Do vậy, tín dụng ngân hàng đã góp phần vào ổn định tiền tệ, giá cả.
Ngoài ra tín dụng ngân hàng còn trở thành công cụ quan trọng của nhà nước
trong quá trình phục hồi nền kinh tế sau khủng hoảng. Khi khủng hoảng kinh tế diễn
ra, nhu cầu của nền kinh tế giảm, các doanh nghiệp cũng cắt giảm thu hẹp sản xuất.
Đề hồi phục nền kinh tế nhà nước có thể thực hiện các chính sách nhằm thúc đẩy tín
dụng ngân hàng phát triển thông qua đó thúc đẩy sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp. Trong cuộc khủng hoảng hiện nay nhà nước ta cũng đang thực hiện biện
pháp này thông qua chính sách hỗ trợ lãi suất trong thời gian vừa qua.
• Đối với ngân hàng:
Tín dụng là hoạt động chủ yếu của NHTM, phần lớn nguồn vốn mà các
NHTM huy động được đều được sử dụng cho hoạt động tín dụng. Hình thức tín dụng
truyền thống của các NHTM là hoạt động cho vay có bảo đảm bằng tài sản. Nhưng
hiện nay các NHTM đã thực hiện đa dạng hóa các hình thức tín dụng với nhiều loại
hình tín dụng mới.
Hoạt động tín dụng cũng đem lại thu nhập chủ yếu cho ngân hàng. Bởi vậy,
hoạt động tín dụng có vai trò quyết định tới sự tồn tại và phát triển của các NHTM.
Hoạt động tín dụng cũng là cơ sở quan trọng để NHTM phát triển các hoạt
động khác. Trong lịch sử phát triển của ngành ngân hàng hoạt động tín dụng chính là
hoạt động đầu tiên và cơ bản nhất của mỗi NHTM. Và từ hoạt động cơ bản đó
NHTM mới phát triển các hoạt động khác như thanh toán, quản lý quỹ hay dịch vụ
đại lý, tư vấn...
• Đối với doanh nghiệp
Nguyễn Ngọc Tuấn Ngân hàng 48A
Tín dụng ngân hàng còn góp phần vào tài trợ nguồn vốn sản xuất kinh doanh,
mở rộng sản xuất của doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt động của mình, ngoài
nguồn vốn chủ sở hữu, các doanh nghiệp đều cần đến một lựơng vốn vay để thực

hiện quá trình sản xuất kinh doanh. Đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường như ngày
nay việc sử dụng vốn vay lại càng trở thành tất yếu. Để thực hiện mục tiêu mở rộng
sản xuất ở từng doanh nghiệp, đáp ứng nhu cầu cạnh tranh, yêu cầu về nguồn vốn là
một trong những mối quan tâm hàng đầu được đặt ra. Bởi lẽ, đẩy mạnh tiến độ phát
triển sản xuất không thể chỉ trông chờ vào vốn tự có mà doanh nghiệp còn phải biết
tận dụng các nguồn vốn khác trong xã hội. Từ đó, tín dụng ngân hàng với tư cách là
nơi tập trung đại bộ phận vốn nhàn rỗi sẽ là trung tâm đáp ứng nhu cầu vốn bổ sung
cho đầu tư phát triển. Như vậy, tín dụng ngân hàng vừa giúp cho doanh nghiệp nhanh
chóng đầu tư mở rộng sản xuất, vừa góp phần đẩy nhanh tốc độ tập trung và tích lũy
vốn cho nền kinh tế.
Tín dụng ngân hàng cũng góp phần nâng cao uy tín của doanh nghiệp, tăng
hiệu quả của dự án phương án. Để đảm bảo nguồn vốn vay được sử dụng có hiệu quả
các NHTM thường tìm hiểu kĩ về các doanh nghiệp và đưa ra những nguyên tắc tín
dụng. Vì vậy để vay vốn được từ các NHTM thì các doanh nghiệp buộc phải nâng
cao uy tín và hiệu quả hoạt động của mình. Tương tự đối với các dự án, muốn vay
vốn thực hiện dự án các doanh nghiệp cũng phải tìm hiểu thị trường, khai thác thông
tin, định lượng hoạt động kinh doanh để đảm bảo hiệu quả của dự án.
Hiện nay trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp luôn hoạt động trong
mối quan hệ qua lại với nhau. Đặc biệt trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế thì các
doanh nghiệp đó còn có quan hệ xuất nhập khẩu với các công ty nước ngoài. Với các
dịch vụ như bảo lãnh, cho vay doanh nghiệp, tín dụng ngân hàng có thể giúp tăng
cường các mối quan hệ này.
1.2.1.3. Các hình thức tín dụng ngân hàng :
• Chiết khấu thương phiếu.
Trong nền kinh tế thị trường, các loại giấy tờ có giá được phát hành và lưu
thông rộng rãi. Người nắm giữ những giấy tờ có giá này nếu cần tiền mặt mà những
giấy tờ có giá này chưa đến hạn thì có thể mang giấy tờ đó đến ngân hàng chiết khấu.
Đây được coi là một nghiệp vụ đơn giản, dựa trên sự tín nhiệm giữa ngân hàng và
những người kí tên trên thương phiếu. Điều 57 mục 2 Luật các tổ chức tín dụng quy
định: “Tổ chức tín dụng được cấp tín dụng dưới hình thức chiết khấu thương phiếu

Nguyễn Ngọc Tuấn Ngân hàng 48A
và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác. Người chủ sở hữu thương phiếu và các giấy tờ
có giá ngắn hạn khác phải chuyển giao ngay mọi quyền, lợi ích hợp pháp phát sinh từ
các giấy tờ đó cho tổ chức tín dụng.”
Như vậy về bản chất đây là hoạt động tín dụng ngắn hạn. Có thể nói chiết
khấu là một hình thức cấp tín dụng theo đó các tổ chức tín dụng nhận các chứng từ có
giá và trao cho khách hàng một số tiền bằng mệnh giá của chứng từ nhận chiết khấu
trừ đi phần lợi nhuận và chi phí mà ngân hàng được hưởng. HÌnh thức này khác với
cho vay ở chỗ: không cần tài sản thế chấp mà sử dụng ngay chứng từ nhận chiết khấu
làm đảm bảo tín dụng, ngân hàng thu lãi trước khi phát tiền vay bằng cách khấu trừ
vào mệnh giá, qui trình xem xét cấp tín dụng đơn giản và nhanh chóng hơn so với
cho vay. Hiện nay các NHTM thường nhận chiết khấu hai loại chứng từ cơ bản:
thương phiếu và chứng từ có giá khác như trái phiếu, kỳ phiếu…
• Cho vay.
Quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng quy định: cho vay là một hình thức
của cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng cho khách hàng vay một khoản tiền để sử
dụng vào một mục đích và thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc hoàn
trả cả gốc lẫn lãi. Cho vay là một hình thức tín dụng lâu đời, nó đã phát triển với
nhiều hình thức khác nhau.
Thấu chi: thấu chi là một nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người
vay được chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định
và trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi. Đây
là hình thức tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong quá trình thanh toán, tuy
nhiên chúng chỉ được áp dụng với những khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều
đặn và có kì thu nhập ngắn.
Cho vay trực tiếp từng lần: đây là hình thức cho vay của các NHTM đối với
các khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên và không có đủ điều kiện để
được cấp hạn mức thấu chi. Theo hình thức này mỗi lần vay khách hàng phải làm
đơn và trình ngân hàng phương án sử dụng vốn vay, sau đó ngân hàng sẽ tiến hành
phân tích khách hàng và kí hợp đồng cho vay, xác định quy mô cho vay, thời hạn giải

ngân, thời hạn trả nợ, lãi suất và yêu cầu bảo đảm nếu cần. Và mỗi món vay loại này
được quản lý tách biệt theo các hồ sơ khác nhau.
Cho vay theo hạn mức: đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thỏa
thuận cấp cho khách hàng một hạn mức tín dụng, hạn mức này có thể tính cho cả kì
hoặc cuối kì, đó chính là dư nợ tối đa tại mỗi thời điểm tính. Trong nghiệp vụ này các
Nguyễn Ngọc Tuấn Ngân hàng 48A
NHTM sẽ không xác định trước kì hạn nợ và thời hạn tín dụng. Khi khách hàng có
thu nhập NHTM sẽ tiến hành thu nợ. Hình thức này tạo sự chủ động cho khách hàng
trong việc quản lý ngân quỹ. Tuy nhiên việc không tách thành các khoản nợ cụ thể
lên các NHTM cũng gặp khó khăn trong việc quản lý và kiểm soát hiệu quả sử dụng
vốn trong từng lần vay.
Cho vay luân chuyển: là nghiệp vụ cho vay dựa trên quá trình luân chuyển của
hàng hóa. Trong quá trình hoạt động của mình các doanh nghiệp có thể gặp phải hiện
tượng thiếu vốn khi mua hàng, khi đó, ngân hàng có thể cho doanh nghiệp vay để
mua hàng và doanh nghiệp sẽ phải trả nợ khi bán được hàng. Theo phương thức này
thì đầu năm hoặc quý doanh nghiệp sẽ phải làm đơn xin vay luân chuyển. Cũng theo
phương thức này, mọi khoản thu từ bán hàng của doanh nghiệp đều được dùng để trả
vào tài khoản tiền vay trước khi được trích sang tài khoản tiền gởi thanh toán của
khách hàng. Có thể nhận thấy theo hình thức này, giá trị hàng hóa mua vào đều là đối
tượng được ngân hàng cho vay và thu nhập từ bán hàng đều là nguồn để chi trả cho
ngân hàng, đồng thời các khoản phải thu và hàng hóa trong kho trở thành vật bảo
đảm cho khoản vay. Phương thức này thường được áp dụng với các doanh nghiệp
thương nghiệp hoặc doanh nghiệp sản xuất có chu kì ngắn ngày.
Cho vay trả góp: là hình thức tín dụng mà theo đó ngân hàng cho phép khách
hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận. Các khoản cho vay
trả góp thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn tài trợ cho các
tài sản cố định và hàng lâu bền. Đây là hình thức cho vay rủi ro cao nhất trong các
hình thức cho vay vì các khoản vay này thường được thế chấp bằng chính các loại
hàng hóa mua trả góp, khả năng trả nợ lại phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của người
vay, nếu người này mất việc ốm đau, giảm thu nhập thì khả năng trả nợ cho ngân

hàng cũng giảm. Chính vì lý do đó nên lãi suất cho vay trả góp thường cao nhất trong
khung lãi suất cho vay của ngân hàng.
Cho vay gián tiếp: đây là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian.
Trong phương thức này ngân hàng có thể chuyển một vài khâu của hoạt động cho vay
sang các tổ chức trung gian. Tổ chức trung gian cũng có thể đứng ra tín chấp cho các
thành viên tham gia vay vốn ngân hàng. Và để bù đắp một phần chi phí của trung
gian, ngân hàng trích một phần thu nhập để lại cho trung gian. Hình thức này thường
được áp dụng với thị trường có nhiều khoản vay nhỏ, người vay phân tán, cách xa
ngân hàng.
• Cho thuê tài sản
Nguyễn Ngọc Tuấn Ngân hàng 48A
Cho thuê là hình thức tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng. Hoạt động này
được phân thành hai hình thức là cho thuê hoạt động (còn gọi là cho thuê vận hành)
và cho thuê tài chính.
Theo điều 1 khoản 1 của nghị định số 16/2001/NĐ-CP ngày 02 tháng 5
năm 2001 quy định: “Cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung và dài hạn
thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản
khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê với bên thuê. Bên cho thuê cam
kết mua máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác theo yêu
cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với các tài sản cho thuê. Bên thuê sử
dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên
thỏa thuận.” Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền lựa chọn mua lại tài sản
thuê hoặc tiếp tục thuê theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng cho thuê tài
chính. Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng cho thuê tài chính, ít
nhất phải tương đương với giá trị của tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng.
Cho thuê vận hành là hình thức cho thuê tài sản theo đó Bên thuê sử dụng tài
sản cho thuê của bên cho thuê trong một thời gian nhất định và sẽ trả lại tài sản đó
cho bên cho thuê khi kết thúc thời hạn thuê tài sản. Bên cho thuê giữ quyền sở hữu tài
sản cho thuê và nhận tiền cho thuê theo hợp đồng cho thuê.
• Bảo lãnh, tái bảo lãnh.

Theo quy chế bảo lãnh ngân hàng: bảo lãnh là cam kết bằng văn bản của tổ
chức tín dụng (bên bảo lãnh) với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện
nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng (bên được bảo lãnh) khi khách hàng không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh.
Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số tiền đã được trả thay.
Bảo lãnh thường có 3 bên: bên hưởng bảo lãnh, bên được bảo lãnh và bảo lãnh. Bảo
lãnh được chia thành nhiều hình thức khác nhau theo mục tiêu của bảo lãnh đó là bảo
lãnh tham gia dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng , bảo lãnh hoàn trả tiền ứng
trước, bảo lãnh hoàn trả vốn vay, bảo lãnh đảm bảo thanh toán.
Ta có thể thấy bản chất của bảo lãnh ngân hàng là một hình thức tài trợ của
ngân hàng cho khách hàng, qua đó khách hàng có thể tìm nguồn tài trợ mới từ đó
thực hiện được các hoạt động sản xuất kinh doanh của họ nhằm tìm kiếm lợi nhuận.
Bảo lãnh là hình thức tài trợ thông qua uy tín. Ngân hàng không phải bỏ tiền ngay khi
kí kết hợp đồng bảo lãnh, chính vì thế, bảo lãnh không được quản lý trong bảng cân
đối kế toán của ngân hàng mà được quản lý trong phần tài sản ngoại bảng. Và khi
Nguyễn Ngọc Tuấn Ngân hàng 48A
khách hàng không thực hiện được cam kết, ngân hàng sẽ phải đứng ra chi trả cho bên
thứ ba. Khi đó khoản tiền chi trả này sẽ được xếp vào loại tài sản xấu trong bảng cân
đối kế toán và khoản chi trả này cúng là một phần cấu thành lên nợ quá hạn của ngân
hàng. Qua đó ta có thể thấy bảo lãnh cũng chưa đựng các loại rủi ro như một khoản
cho vay lên nó cúng đòi hỏi phải phân tích khách hàng như khi cho vay. Tuy nhiên
khác với các khoản cho vay ngân hàng thu lãi từ lãi suất thì bảo lãnh ngân hàng thu
phí của khách hàng. Phí bảo lãnh này được tính theo phần trăm của số tiền bảo lãnh.
Ngoài ra ngân hàng có thể yêu cầu khách hàng kí quỹ.
1.2.2. Rủi ro tín dụng ngân hàng :
1.2.2.1. Khái niệm rủi ro và quản lý rủi ro :
Trong cuộc sống hàng ngày chúng ta vẫn thường gặp “sự rủi ro”. Đó là những
gì không tốt, ngoài sự mong đợi, có thể xảy ra đối với chúng ta trong mọi mặt của đời
sống xã hội: vật chất, sức khoẻ, tinh thần và bao gồm cả tư duy, như bị mất cắp tiền,
tai nạn giao thông, thất vọng, buồn chán do không đạt được mục đích nào đó…

Như vậy, “rủi ro” là một phần của cuộc sống hàng ngày, nó diễn ra ở hầu hết
các lĩnh vực cuộc sống; là những nguy cơ tiềm ẩn có khả năng xảy ra và có thể sẽ
mang đến những tổn hại về vật chất, tinh thần hoặc các yếu tố khác trong các lĩnh
vực của đời sống xã hội...
Trong nền kinh tế thị trường, kinh doanh và rủi ro là hai phạm trù có tính song
hành. Khi tiến hành mọi hoạt động kinh doanh chúng ta luôn phải đứng trước sự đánh
đổi giữa rủi ro và lợi nhuận, lợi nhuận càng cao rủi ro càng lớn, bất cứ một hoạt động
đem lại lợi nhuận nào đều hàm chứa rủi ro đi kèm.
Khái niệm rủi ro thường bao gồm 02 nhân tố: Khả năng xảy ra rủi ro (tần số
khả năng xẩy ra rủi ro nhiều hay ít) và hậu quả nếu rủi ro xảy ra (sự thiệt hại do rủi ro
gây ra nhiều hay ít)
Trong cuộc sống cũng như trong công việc, chúng ta luôn tìm cách dự đoán
trước những rủi ro có thể xảy ra và lựa chọn cách xử lý đối với những rủi ro này bằng
cách: ngăn chặn không cho rủi ro xảy ra, giảm thiểu hậu quả của rủi ro, né tránh rủi
ro hoặc chấp nhận để cho rủi ro xảy ra. Đây là phản ứng mang tính tự nhiên được đưa
ra nhằm bảo vệ chúng ta - đôi khi bảo vệ sự sống còn - trước những thiệt hại có thể
xảy ra, hay còn gọi là quản lý rủi ro. Tất cả chúng ta đều có kỹ năng quản lý rủi ro,
mặc dù có thể đôi khi chúng ta không nhận ra điều này. Ví dụ: vào mùa mưa, đi làm
Nguyễn Ngọc Tuấn Ngân hàng 48A
phải đem áo mưa; để không bị kẹt xe phải tránh giờ cao điểm hoặc chọn đường đi
khác, v.v…..
Như vậy, Quản lý rủi ro là việc dự đoán về những khả năng và mức độ hậu
quả của sự việc có thể xảy ra, qua đó áp dụng những biện pháp để làm giảm độ không
an toàn và thay đổi cách xem xét và hành động đối với sự việc đó.
Dưới góc độ quản lý, quản lý rủi ro là một phương pháp để phát hiện ra những
yếu tố gây ảnh hưởng xấu đến hiệu quả của công tác quản lý từ đó thay đổi cách xem
xét và hành động nhằm loại trừ hoặc làm giảm sự ảnh hưởng của những yếu tố trên.
Như nội dung đã đề cập phần trên, khi xác định được rủi ro, chúng ta thường
lựa chọn các biện pháp xử lý nhằm ngăn chặn, làm triệt tiêu các rủi ro, né tránh hoặc
làm giảm các thiệt hại do rủi ro gây ra. Thông thường có các hình thức xử lý rủi ro

chủ yếu như sau:
- Ngăn chặn, làm triệt tiêu nguyên nhân, điều kiện nảy sinh rủi ro;
- Làm giảm tác hại của rủi ro;
- Né tránh đối với những rủi ro mà nếu ta áp dụng biện pháp để ngăn chặn
hiệu quả sẽ thấp vì chi phí cho việc ngăn chặn này sẽ lớn hơn hậu quả của rủi ro có
thể xảy ra;
- Chuyển giao rủi ro;
- Chấp nhận những rủi ro có khả năng và mức độ xảy ra thấp, vì chi phí
cho việc quản lý những rủi ro này sẽ cao hơn hậu quả có thể xảy ra.
1.2.2.2. Rủi ro tín dụng :
1.2.2.2.1. Khái niệm và đặc điểm của rủi ro tín dụng
Theo sách “Quản trị ngân hàng thương mại” của Peter Rose: trong hoạt động
kinh doanh ngân hàng, tín dụng là hoạt động kinh doanh đem lại lợi nhuận chủ yếu
của ngân hàng nhưng cũng là nghiệp vụ tiềm ẩn rủi ro rất lớn. Các thống kê và
nghiên cứu cho thấy, rủi ro tín dụng chiếm đến 70% trong tổng rủi ro hoạt động ngân
hàng. Mặc dù hiện nay đã có sự chuyển dịch trong cơ cấu lợi nhuận của ngân hàng,
theo đó thu nhập từ hoạt động tín dụng có xu hướng giảm xuống và thu dịch vụ có xu
hướng tăng lên nhưng thu nhập từ tín dụng vẫn chiếm từ 1/2 đến 2/3 thu nhập ngân
hàng. Từ đó cho thấy rủi ro tín dụng là rủi ro đặc trưng nhất, dễ xẩy ra nhất và gây
hậu quả nặng nề nhất đối với hoạt động của ngân hàng.
Kinh doanh ngân hàng là kinh doanh rủi ro, theo đuổi lợi nhuận với rủi ro
chấp nhận được là bản chất ngân hàng. Trong mọi hoạt động của ngân hàng, bất kì
hoạt động nào cũng đều hàm chứa rủi ro và tín dụng không phải là một ngoại lệ.
Nguyễn Ngọc Tuấn Ngân hàng 48A
Chính vì thế P. Volker, cựu chủ tịch Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) cho rằng: “Nếu
ngân hàng không có những khoản vay tồi thì đó không phải là hoạt động kinh
doanh”. Rủi ro tín dụng là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây tổn thất và ảnh
hưởng nghiêm trọng đến chất lượng kinh doanh ngân hàng. Thế nên đã có rất nhiều
nhà kinh tế nghiên cứu về rủi ro tín dụng và đã đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về
rủi ro tín dụng :

Theo Timothy W.Koch: “Một khi ngân hàng nắm giữ tài sản sinh lợi, rủi ro
xảy ra khi khách hàng sai hẹn – có nghĩa là khách hàng không thanh toán vốn gốc và
lãi theo thỏa thuận. Rủi ro ro tín dụng là sự thay đổi tiềm ẩn của thu nhập thuần và thị
giá củ a v ố n xu ấ t phát t ừ vi ệ c khác h hàng không thanh toán hay thanh toán trễ
hạn” (trong sách Bank Management, Đại học nam Carolina, The Dryden Press, 1995,
trang 107)
Trong tài liệu “Financial Institutions Management – A Modern Perpective”, A.
Saunder và H.Lange lại cho rằng: “rủi ro tín dụng là khoản lỗ tiềm tàng khi ngân
hàng cấp tín dụng cho một khách hàng, nghĩa là khả năng các luồng thu nhập dự tính
mang lại từ khoản cho vay của ngân hàng không thể được thực hiện đầy đủ về cả số
lượng và thời hạn”
Còn theo Henie Van Greuning, Sonja Brajovic Bratanovic: Rủi ro tín dụng
được định nghĩa là nguy cơ mà người đi vay không thể chi trả tiền lãi hoặc hoàn trả
vốn gốc so với thời hạn đã ấn định trong hợp đồng tín dụng. đây là thuộc tính vốn có
của hoạt động ngân hàng.
Theo ngân hàng thế giới (The World Bank): Rủi ro tín dụng tức là việc chi trả
một khoản tín dụng bị trì hoãn, hoặc tồi tệ hơn là không chi trả được toàn bộ. Điều
này gây ra sự cố đối với dòng chu chuyển tiền tệ và ảnh hưởng tới khả năng thanh
khoản của ngân hàng.
Trong luật pháp nước ta, theo khoản 1 Điều 2 Quy định về phân loại nợ, trích
lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ
chức tín dụng, được ban hành kèm theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày
22/4/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, quy định: “rủi ro tín dụng là khả
năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng
không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết.”
Các định nghĩa khá đa dạng nhưng tựu trung lại chúng ta có thể rút ra các nội
dung cơ bản của rủi ro tín dụng như sau:
Nguyễn Ngọc Tuấn Ngân hàng 48A
- Rủi ro tín dụng phát sinh khi người vay sai hẹn (defaut) trong thực hiện
nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng, bao gồm vốn hoặc lãi hoặc cả hai. Sự sai hẹn có thể là

trễ hạn (delayed payment) hoặc không thanh toán (non payment). Hay có thể hiểu là
rủi ro tín dụng phát sinh khi ngân hàng không thu được vốn lãi hoặc cả hai đúng hạn,
phát sinh nợ quá hạn hoặc nợ khó đòi có thể dẫn đến mất vốn.
- Rủi ro tín dụng sẽ dẫn đến tổn thất tài chính, tức là giảm thu nhập ròng và
giảm giá trị thị trường của vốn. Trong trường hợp nghiêm trọng có thể dẫn đến thua
lỗ, hoặc ở mức độ cao hơn có thể dẫn đến phá sản ngân hàng. Có thể ví rủi ro tín
dụng như một “ngòi nổ”, khi nó xẩy ra gây thiệt hại không lớn lắm nhưng với những
tác động dây chuyền mà nó tạo ra có thể gây ra những thiệt hại lớn thậm chí có thể
gây ra khủng hoảng tài chính hoặc khủng hoảng kinh tế xã hội trên phạm vi quốc gia
hoặc thế giới, điển hình là cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đang diễn ra vốn suất
phát từ những rủi ro tín dụng trong thị trường tín dụng nhà đất ở Mĩ.
- Đối với các nước đang phát triển (như ở Việt Nam), các ngân hàng thiếu đa
dạng trong kinh doanh cá dịch vụ tài chính, các sản phẩm dịch vụ còn nghèo nàn, vì
vậy tín dụng được coi là dịch vụ sinh lời chủ yếu và thậm chí gần như là duy nhất,
đặc biệt đối với các ngân hàng nhỏ. Vì vậy rủi ro tín dụng cao hay thấp sẽ quyết định
hiệu quả kinh doanh của ngân hàng
- Mặt khác, rủi ro và lợi nhuận kỳ vọng của ngân hàng là hai đại lượng đồng
biến với nhau trong một phạm vi nhất định (lợi nhuận kỳ vọng càng cao, thì rủi ro
tiềm ẩn càng lớn).
Tuy nhiên, chúng ta cần hiểu rủi ro tín dụng theo nghĩa xác suất, là khả năng,
do đó có thể xảy ra hoặc không xảy ra tổn thất. Điều này có nghĩa là một khoản vay
dù chưa quá hạn nhưng vẫn luôn tiềm ẩn nguy cơ xảy ra tổn thất, một ngân hàng có
tỷ lệ nợ quá hạn thấp nhưng nguy cơ rủi ro tín dụng sẽ rất cao nếu danh mục đầu tư
tín dụng tập trung vào một nhóm khách hàng, ngành hàng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Cách
hiểu này sẽ giúp cho hoạt động quản trị rủi ro tín dụng được chủ động trong phòng
ngừa, trích lập dự phòng, đảm bảo chống đỡ và bù đắp tổn thất khi rủi ro xảy ra.
Để chủ động phòng ngừa rủi ro tín dụng có hiệu quả, ngoài việc hiểu thế nào
là rủi ro tín dụng thì việc nhận biết các đặc điểm của rủi ro tín dụng cũng là rất cần
thiết và hữu ích. Rủi ro tín dụng có những đặc điểm cơ bản sau :
- Rủi ro tín dụng mang tính gián tiếp: Trong quan hệ tín dụng, ngân hàng

chuyển giao quyền sử dụng vốn cho khách hàng. Rủi ro tín dụng chủ yếu xảy ra khi
khách hàng gặp những tổn thất và thất bại trong quá trình sử dụng vốn. Hay nói cách
Nguyễn Ngọc Tuấn Ngân hàng 48A
khác những rủi ro trong hoạt động kinh doanh của khách hàng là nguyên nhân chủ
yếu gây nên rủi ro tín dụng của ngân hàng.
- Rủi ro tín dụng có tính chất đa dạng và phức tạp: đặc điểm này biểu hiện ở
sự đa dạng, phức tạp của nguyên nhân, hình thức, hậu quả của rủi ro tín dụng tại các
ngân hàng. Do đó khi phòng ngừa và xử lý rủi ro tín dụng phải chú ý đến mọi dấu
hiệu rủi ro, xuất phát từ nguyên nhân bản chất và hậu quả do rủi ro tín dụng đem lại
để có biện pháp phòng ngừa phù hợp.
- Rủi ro tín dụng có tính tất yếu tức luôn tồn tại và gắn liền với hoạt động tín
dụng của ngân hàng thương mại: tình trạng thông tin bất cân xứng đã làm cho ngân
hàng không thể nắm bắt được các dấu hiệu rủi ro một cách toàn diện và đầy đủ, điều
này làm cho bất cứ khoản vay nào cũng tiềm ẩn rủi ro đối với ngân hàng. Kinh doanh
ngân hàng thực chất là kinh doanh rủi ro ở mức phù hợp và đạt được lợi nhuận tương
ứng.
1.2.2.2.2. Phân loại rủi ro tín dụng
Có nhiều cách phân loại rủi ro tín dụng khác nhau tùy theo mục đích, yêu cầu
của việc nghiên cứu hoặc quản lý. Đối với ngân hàng việc phân loại có ý nghĩa rất
quan trọng, nó liên quan tới việc thiết kế chính sách, quy trình, thủ tục và mô hình tổ
chức của ngân hàng nhằm đảm bảo nhận biết đầy đủ các nguyên nhân làm phát sinh
rủi ro và phân chia trách nhiệm giữa các bộ phận của ngân hàng. Tùy theo tiêu chí
phân loại mà người ta chia rủi ro tín dụng thành các loại khác nhau.
• Theo đối tượng sử dụng
Rủi ro tín dụng phân loại theo đối tượng sử dụng thực tế là phân loại theo đối
tượng khách hàng của ngân hàng. Theo cách phân loại này rủi ro tín dụng được phân
thành:
Rủi ro tín dụng khách hàng cá thể.
Rủi ro tín dụng công ty, rủi ro tổ chức kinh tế.
• Theo giai đoạn phát sinh rủi ro

Quy trình tín dụng bao gồm nhiều bước, nhiều giai đoạn khác nhau. Trong
mỗi giai đoạn đó đều có thể phát sinh rủi ro đối với hoạt động tín dụng của ngân
hàng. Phân loại rủi ro tín dụng theo tiêu chí này bao gồm:
Rủi ro trong giai đoạn thẩm định hay rủi ro do đánh giá sai khách hàng.
Rủi ro khi cho vay.
Rủi ro trong khi quản lý, xử lý thu nợ.
Nguyễn Ngọc Tuấn Ngân hàng 48A
• Theo sản phẩm tín dụng
Hoạt động tín dụng của các NHTM rất đa dạng. Do đó loại hình sản phẩm
trong hoạt động tín dụng của NHTM cũng rất đa dạng và phong phú. Chúng ta có thể
tạm chia các sản phẩm tín dụng của các NHTM thành hai loại đó là các sản phẩm nội
bảng và các sản phẩm ngoại bảng. Cũng giống như vậy rủi ro tín dụng cũng có thể
phân chia thành rủi ro tín dụng nội bảng và rủi ro tín dụng ngoại bảng.
• Theo thời hạn của khoản vay
Tương tự như tín dụng ngân hàng có thể phân chia theo thời hạn thành tín
dụng ngắn hạn, trung hạn và dài hạn thì rủi ro tín dụng cũng có thể phân chia thành
rủi ro tín dụng dài hạn, rủi ro tín dụng trung hạn và rủi ro tín dụng ngắn hạn.
• Theo phạm vi:
Rủi ro đơn lẻ: được hiểu là loại rủi ro gắn liền với một giao dịch cụ thể nào
đó.
Rủi ro hệ thống: rủi ro gắn liền với một nhóm khách hàng có thể là đối với
khách hàng trong một ngành cũng có thể là khách hàng trong toàn bộ nền kinh tế.
• Theo nguyên nhân của rủi ro:
Rủi ro giao dịch: là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát
sinh là do những hạn chế trong quá trình giao dịch và xét duyệt cho vay, đánh giá
khách hàng. Rủi ro giao dịch bao gồm rủi ro lựa chọn (rủi ro có liên quan đến quá
trình đánh giá và phân tích tín dụng, phương án vay vốn để quyết định tài trợ của
ngân hàng); rủi ro bảo đảm (rủi ro phát sinh từ các tiêu chuẩn đảm bảo như mức cho
vay, loại tài sản đảm bảo, chủ thể đảm bảo…); rủi ro nghiệp vụ (rủi ro liên quan đến
công tác quản lý khoản vay và hoạt động cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống

xếp hạng rủi ro và kỹ thuật xử lý các khoản vay có vấn đề).
Rủi ro danh mục: là rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn
chế trong quản lý danh mục cho vay của ngân hàng, được phân thành rủi ro nội tại
(xuất phát từ đặc điểm hoạt động và sử dụng vốn của khách hàng vay vốn, lĩnh vực
kinh tế) và rủi ro tập trung (rủi ro do ngân hàng tập trung cho vay quá nhiều vào một
số khách hàng, một ngành kinh tế hoặc trong cùng một vùng địa lý nhất định hoặc
cùng một loại hình cho vay có rủi ro cao).
Nếu phân loại theo tính khách quan, chủ quan của nguyên nhân gây ra rủi ro
thì rủi ro tín dụng được phân ra thành rủi ro khách quan và rủi ro chủ quan. Rủi ro
khách quan là rủi ro do các nguyên nhân khách quan như thiên tai, địch họa, người
Nguyễn Ngọc Tuấn Ngân hàng 48A
vay bị chết, mất tích và các biến động ngoài dự kiến khác làm thất thoát vốn vay
trong khi người vay đã thực hiện nghiêm túc chế độ chính sách. Rủi ro chủ quan do
nguyên nhân thuộc về chủ quan của người vay và người cho vay vì vô tình hay cố ý
làm thất thoát vốn vay hay vì những lý do chủ quan khác.
• Theo tính chất của rủi ro:
Rủi ro ứ đọng vốn, thiếu hụt vốn: trong đó rủi ro ứ đọng vốn là loại rủi ro xẩy
ra khi vốn huy động được bị tồn đọng lớn không cho vay hoặc đầu tư được. Còn rủi
ro thiếu hụt vốn là loại rủi ro xẩy ra khi ngân hàng sử dụng vốn vượt quá mức mà
ngân hàng có thể huy động được, để bù đắp mức thiếu hụt này ngân hàng phải huy
động tại các nguồn khác đắt hơn làm giảm thu nhập của ngân hàng.
Rủi ro nợ quá hạn: xẩy ra khi đến hạn thanh toán mà người vay chư trả đủ bị
chuyển sang nợ quá hạn.
1.2.2.2.3. Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng:
Kinh doanh ngân hàng là kinh doanh rủi ro hay nói cách khác Hoạt động ngân
hàng luôn phải đối diện với rủi ro. Vì vậy, nhận diện những nguyên nhân gây ra rủi
ro tín dụng giúp ngân hàng có biện pháp phòng ngừa hiệu quả, giảm thiệt hại. Có 3
nhóm nguyên nhân cơ bản sau đây :
* Các nguyên nhân khách quan:
• Nhân tố kinh tế:

Ngân hàng là một trung gian tài chính, hoạt động của NHTM có thể được coi
là chiếc cầu nối giữa các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế. Chính vì vậy hoạt động
của nó chịu ảnh hưởng rất lớn bởi các ngành khác trong nền kinh tế. Sự biến động bất
thường của một hoạt động kinh tế nào đó trong nền kinh tế nói chung cũng đều ảnh
hưởng đến việc sản xuất kinh doanh trong các lĩnh vực còn lại, với vai trò cầu nối của
mình thì hoạt động của ngân hàng càng chịu nhiều ảnh hưởng từ những biến động bất
thường đó. Vì thế có thể khẳng định môi trường kinh tế ảnh hưởng rất lớn rất lớn tới
các ngân hàng. Trong số các hoạt động của các NHTM thì hoạt động tín dụng cũng
chính là hoạt động nhạy cảm nhất với những biến động của nền kinh tế. Do đó các
nhân tố kinh tế này là sẽ tác động mạnh mẽ tới hoạt động tín dụng của ngân hàng
thương mại. Khi nền kinh tế ở trạng thái hưng thịnh thì các ngành trong nền kinh tế
cũng phát triển kéo theo nhu cầu tín dụng cao, đồng thời các biến số của nền kinh tế
tăng cao và ổn định, tín dụng ngân hàng sẽ phát triển và gặp ít rủi ro hơn. Ngược lại,
nếu nền kinh tế rơi vào khủng hoảng hay suy thoái, các doanh nghiệp có khuynh
Nguyễn Ngọc Tuấn Ngân hàng 48A
hướng giảm thiểu hoạt động kinh doanh của mình, tín dụng ngân hàng sẽ bị thu hẹp,
đồng thời những khoảng tín dụng đã cấp cũng có nguy cơ gặp rủi ro cao.
Trong các nhân tố kinh tế chúng ta cũng cần chú ý tới các chính sách kinh tế
vĩ mô của chính phủ. Hoạt động của ngân hàng chịu ảnh hưởng rất lớn của các chính
sách kinh tế vĩ mô của chính phủ. Vì thế bất kì một thay đổi nào trong hệ thống chính
sách kinh tế vĩ mô của chính phủ đều có thể gây ra ảnh hưởng tới hoạt động tín dụng
của ngân hàng, có nguy cơ gây ra rủi ro tín dụng.
• Nhân tố xã hội :
Các nhân tố xã hội như trình độ dân trí, trật tự an ninh, an toàn xã hội... ảnh
hưởng trực tiếp tới các bên tham gia vào quan hệ tín dụng ngân hàng đó chính là ngân
hàng và khách hàng của ngân hàng. Thực tế cho thấy, nếu một nơi nào an ninh trật tự
không đảm bảo, an toàn xã hội kém, có nhiều tội phạm sẽ gây ra thiếu an toàn trong
các hoạt động đầu tư gây trở ngại cho hoạt động tín dụng và rủi ro tín dụng cũng theo
đó mà tăng lên.
• Nhân tố pháp lý :

Môi trường pháp lý trong hoạt động kinh doanh là tổng hợp các yếu tố pháp lý
có tác động tới hoạt động kinh doanh, bao gồm hệ thống pháp luật và hệ thống các
biện pháp đảm bảo cho hệ thống pháp luật được thực thi cùng với sự chấp hành pháp
luật của các chủ thể tham gia hoạt động kinh doanh. Trong hoạt động tín dụng ngân
hàng đó chính là các quy định của NHNN, luật các tổ chức tín dụng, luật dân sự và
một số luật định khác liên quan. Nếu như các quy định của pháp luật không rõ ràng,
thiếu đồng bộ, thiếu kịp thời, thiếu ổn định và nhiều kẽ hở thì sẽ gây khó khăn cho
các NHTM trong các hoạt động nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng. Nếu các
NHTM hoạt động trong môi trường pháp lý như vậy sẽ không đạt được hiệu quả và
dễ gặp rủi ro. Ngược lại, với một môi trường pháp lý vững chắc, rõ ràng, đầy đủ,
đồng bộ và ổn định sẽ góp phần đẩy mạnh hoạt động của các NHTM và hạn chế rủi
ro trong các hoạt động của NHTM trong đó có hoạt động tín dụng. Và môi trường
pháp lý đó cũng là cơ sở pháp lý để ngân hàng giải quyết các khiếu nại, tố cáo khi có
tranh chấp xẩy ra trong hoạt động tín dụng của ngân hàng
* Các nguyên nhân từ phía khách hàng:
Khách hàng là người lập phương án, dự án vay vốn, và cũng chính họ cũng là
người sử dụng nguồn vốn vay được của ngân hàng vào việc sản xuất, kinh doanh
cũng như tiêu dùng của chính họ. Vì vậy, rủi ro tín dụng cũng xuất phát từ phía người
vay.
Nguyễn Ngọc Tuấn Ngân hàng 48A
• Năng lực của khách hàng: năng lực của khách hàng quyết định tới việc
sử dụng vốn vay có hiệu quả hay không. Nếu năng lực của khách hàng yếu kém sẽ
gây ra thiếu hiệu quả trong việc thực hiện các dự án, phương án từ đó sẽ dẫn tới rủi
ro tín dụng với các ngân hàng. Năng lực của khách hàng có thể xét trên hai yếu tố:
Khả năng quản lý kinh doanh của khách hàng: trong nền kinh tế thị trường
hiện nay, vai trò của của nhà quản lý ngày càng quan trọng. Đặc biệt là trong quá
trình hội nhập kinh tế, và việc gia nhập WTO của nước ta như hiện nay, vai trò của
nhà quản trị càng được đề cao. Khả năng quản lý kinh doanh và quản trị tài chính của
khách hàng ngày càng tác động nhiều hơn tới chất lượng hoạt động sản xuất kinh
doanh của chính các khách hàng và từ đó tác động tới chất lượng tín dụng của ngân

hàng và có thể sẽ gây ra rủi ro tín dụng cho ngân hàng. Trong quá trình hoạt động của
mình rất có thể do trình độ của nhà quản lý, của chủ doanh nghiệp còn yếu kém,
không dự đoán được những biến động của thị trường, thiếu hiểu biết về việc sản xuất,
phân phối và khuếch trương sản phẩm... dẫn tới những tính toán thiếu hợp lý trong
khi lập và thực hiện dự án kinh doanh. Từ đó sẽ dấn tới việc dự án kém hiệu quả gây
ảnh hưởng tới việc trả nợ cho ngân hàng dẫn tới rủi ro tín dụng.
Khả năng thích nghi với môi trường cạnh tranh. Để tồn tại trong nền kinh tế
thị trường, cạnh tranh là một yếu tố không thể tránh khỏi, bất kỳ doanh nghiệp nào
cũng phải đối mặt với cạnh tranh. Đặc biệt là trong điều kiện hội nhập kinh tế như
hiện nay, các doanh nghiệp không chỉ đối mặt với cạnh tranh từ các doanh nghiệp
trong nước mà còn phải cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài. Trong điều kiện
như vậy năng lực cạnh tranh của khách hàng là một yếu tố quan trọng, nếu năng lực
cạnh tranh của khách hàng tốt thì khách hàng đó sẽ tồn tại và phát triển, khả năng trả
nợ cho ngân hàng lớn và ngược lại năng lực cạnh tranh kém có thể dẫn tới thua lỗ,
khó khăn trong việc trả nợ cho ngân hàng gây ra rủi ro tín dụng cho ngân hàng.
• Sự trung thực của khách hàng: tính trung thực của khách hàng cũng là
một yếu tố quan trọng, một nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng của ngân hàng. Sự
trung thực của khách hàng có thể xét trên ba khía cạnh:
Sử dụng vốn sai mục đích. Đây là một loại rủi ro phổ biến trong hoạt động của
ngân hàng. Sau khi vay vốn vủa ngân hàng thay vì sử dụng vốn như đã nêu trong hợp
đồng vay vốn khách hàng đã sử dụng vốn vào việc có mà theo họ có thể đem lại lợi
nhuận cao hơn, tuy nhiên đi kèm theo đó là mức độ rủi ro cũng cao hơn, nguy cơ mất
vốn cao hơn gây ra rủi ro tín dụng cho ngân hàng.
Nguyễn Ngọc Tuấn Ngân hàng 48A
Cung cấp số liệu sai cho nhân viên tín dụng để vay tiền. Đây là loại rủi ro xẩy
ra khi khách hàng cố tình lừa đảo ngân hàng, không cung cấp số liệu trung thực hay
cố tình vi phạm các nguyên tắc kế toán để tạo ra số liệu đẹp nhằm qua mặt nhân viên
tín dụng. Trong điều kiện thông tin không tốt, thiếu tính phổ thông như hiện nay, việc
phát hiện ra các sai phạm đó là rất khó đối với ngân hàng, tình trang thông tin không
cân xứng rất dễ xẩy ra làm cho ngân hàng có những quyết định tín dụng không hợp

lý, dẫn đến khả năng mất vốn cao. Từ đó gây ra rủi ro tín dụng cho ngân hàng.
Cố ý chốn tránh nhiệm vụ trả nợ. Đây là hiện tượng, khi đến hạn trả nợ cho
ngân hàng, mặc dù khách hàng có đủ khả năng thanh toán nhưng lại không muốn trả
nợ cho ngân hàng. Họ cố tình chây ì, nhằm chiếm dụng vốn của ngân hàng. Đây là
một loại rủi ro đạo đức của người vay.
• Rủi ro về tài sản đảm bảo của khách hàng: tài sản đảm bảo là một trong
những điều kiện quan trọng để khách hàng có thể vay tiền. Nó chính là nguồn trả nợ
thứ hai cảu khách hàng khi nguồn trả nợ thứ nhất của ngân hàng (thu nhập của khách
hàng hay lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh) không đủ để trả nợ cho ngân hàng. Nó
là một trong những yếu tố làm giảm thiểu rủi ro tín dụng của ngân hàng. Tuy nhiên
hiện nay vẫn còn hiện tượng tài sản thế chấp là nhà xưởng, máy móc, thiết bị cũ lạc
hậu không còn đủ tiêu chuẩn là vật thế chấp gây khó khăn cho ngân hàng trong công
tác cho vay. Bên cạnh đó là hiện tượng vật được đem ra thế chấp bị mất giá, giảm giá
trong quá trình cho khách hàng vay, hay khi khách hàng không còn khả năng trả nợ,
ngân hàng tiến hành phát mại tái sản nhưng lại không bán được hay bán được nhưng
vẫn không đủ bù đắp nợ của khách hàng.
• Các nguyên nhân khác từ phía khách hàng: người vay chết, mất tích...
* Các nguyên nhân từ phía ngân hàng :
NHTM là bên cho vay trong quan hệ tín dụng ngân hàng. Và cũng có nhiều rủi
ro tín dụng mà nguyên nhân xuất phát từ phía ngân hàng. Các nguyên nhân đó có thể
được xét trên các khía cạnh :
• Chính sách tín dụng:
Chính sách tín dụng phản ánh cương lĩnh tài trợ của một ngân hàng, trở thành
hướng dẫn chung cho cán bộ tín dụng và nhân viên ngân hàng, tăng cường chuyên
môn hóa trong phân tích tín dụng, tạo sự thống nhất chung trong hoạt động tín dụng
nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao khả năng sing lời (giáo trình ngân hàng thương
mại). Chính sách tín dụng bao gồm các yếu tố: hạn mức tín dụng đối với khách hàng,;
Nguyễn Ngọc Tuấn Ngân hàng 48A
các loại hình tín dụng được thực hiện; kỳ hạn tín dụng được áp dụng; lãi suất và phí
suất tín dụng; điều kiện giải ngân, thanh toán; phương hướng giải quyết các khoản tín

dụng có vấn đề. Việc hạn chế rủi ro tín dụng của ngân hàng chịu ảnh hưởng rất lớn từ
các yêu tố này. Chính sách tín dụng hợp lý, linh họat, đúng đắn, đáp ứng được nhu
cầu của khách hàng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý rủi ro tín dụng.
Tuy nhiên, nếu các chính sách tín dụng mà thiếu hợp lý, cứng nhắc cũng là nguyên
nhân dẫn đến những khó khăn trong quản lý rủi ro tín dụng. Bên canh đó nếu hệ
thống chính sách tín dụng không ổn định, lỏng lẻo, hay thay đổi, chưa chú trọng phân
tích khách hàng... sẽ gây ra những hậu quả nguy hiểm, là nguyên nhân gây ra không
ít rủi ro tín dụng cho ngân hàng.
Bên cạnh đó việc mở rộng quy mô tín dụng mà không chú ý tới chất lượng tín
dụng, chính sách tín dụng chỉ chú ý tới mở rộng quy mô mà xem nhẹ chất lượng
khoản vay cũng là một nguyên nhân dẫn tới rủi ro tín dụng.
• Quy trình cấp tín dụng :
Quy trình cấp tín dụng là tập hợp những nhiệm vụ cơ bản và những bước
trong quá trình cho vay, thu nợ nhằm đảm bảo an toàn vốn tín dụng. Nó bao gồm các
bước từ khâu chuẩn bị cho vay, giải ngân, kiểm tra quá trình sử dụng vốn vay của
khách hàng và quá trình thu hồi nợ. Vai trò của quy trình tín dụng rất quan trọng. Một
quy trình tín dụng hợp lý, linh hoạt, chủ động, thích hợp với mỗi loại khách hàng
khác nhau sẽ giảm bớt được rủi ro tín dụng cho ngân hàng. Đồng thời sự kết hợp nhịp
nhành của các bước trong quy trình tín dụng cũng sẽ giúp cho các ngân hàng phát
hiện kịp thời các khuyết điểm, nắm được tình hình của các khoản tín dụng để có biện
pháp can thiệp kịp thời, sớm ngăn chặn và hạn chế các rủi ro tín dụng có thể xẩy ra.
Ngược lại một quy trình tín dụng bất hợp lý thiếu gắn kết giữa các bước cũng là một
nguyên nhân dẫn tới rủi ro tín dụng.
• Mạng lưới thông tin tín dụng:
Mạng lưới thông tin tín dụng cũng là một yếu tố quan trọng tác động tới rủi ro
tín dụng của ngân hàng thương mại. Những thông tin tín dụng có chất lượng sẽ là
những căn cứ để đưa ra những quyết định tín dụng đúng đắn, hạn chế những rủi ro tín
dụng có thể xảy ra. Những thông tin về khách hàng mà ngân hàng cần quan tâm bao
gồm:
Nguyễn Ngọc Tuấn Ngân hàng 48A

- Thông tin tài chính của khách hàng, hiệu quả sản xuất kinh doanh của
phương án vay vốn, nhu cầu vốn thực tế của dự án, khả năng trả nợ của người vay,
giá trị tài sản thế chấp...
- Thông tin gián tiếp: thông tin về xu hướng phát triển và khả năng cạnh
tranh của ngành mà khách hành hoạt động, tình hình kinh tế xã hội...
- Thông tin phi tài chính: năng lực quản lý, năng lực sản xuất kinh doanh,
uy tín, quan hệ xã hội...
Hệ thống thông tin của ngân hàng cần phải đa dạng chính xác và đầy đủ.
Chính vì vậy nguồn thông tin của ngân hàng cũng phải đa dạng và phong phú. Ngân
hàng không chỉ lấy thông tin từ chính tổ chức đi vay mà còn phải lấy thông tin từ bên
ngoài như từ các tổ chức tín dụng khác, từ các đối tác của khách hàng... Nhờ hệ thống
thông tin đa dạng đó ngân hàng mới có thể đánh giá một cách toàn diện chính xác về
một khách hàng từ đó đưa ra những quyết định tín dụng hợp lý hạn chế được rủi ro
tín dụng. Tuy nhiên hiện nay hệ thông thông tin của các ngân hàng cẫn chưa đáp ứng
được nhu cầu đó, đây cũng là một nguyên nhân khiến các cán bộ tín dụng đưa ra
những quyết định tín dụng sai lầm gây ra rủi ro tín dụng.
• Tình hình huy động vốn :
Ngân hàng là một trung gian tài chính hoạt động theo kiểu huy động vốn trong
nền kinh tế với lãi suất thấp rồi lại sử dụng chính nguồn vốn huy động được đó cho
hoạt động kinh doanh của chính mình để thu được mức phí hoặc lãi cao hơn. Bởi vậy
việc huy động vốn cũng đóng vai trò quan trọng đối với hoạt đông tín dụng của ngân
hàng và qua đó tác động tới rủi ro tín dụng. Nguồn vốn mà ngân hàng huy động được
càng đa dạng, càng lớn thì càng tạo điều kiện cho hoạt động tín dụng phát triển cũng
như càng giảm được rủi ro trong hoạt động tín dụng. Loại rủi ro tín dụng lớn nhất
xuất phát từ huy động vốn mà các ngân hàng hay gặp phải là rủi ro về mặt thanh
khoản vì ngân hàng thường huy động những nguồn vốn ngắn và trung hạn trong nền
kinh tế trong khi đó lại đi cho vay trung và dài hạn.
• Hệ thống quản lý rủi ro, phân loại rủi ro:
Hệ thống quản lý rủi ro, phân loại rủi ro có tác động lớn tới tình hình rủi ro tín
dụng của các NHTM. Với một hệ thống quản lý rủi ro tín dụng hợp lý các NHTM sẽ

phát hiện được những dấu hiệu của rủi ro và từ đó tiến hành ngăn ngừa rủi ro tín
dụng từ khi nó chưa xẩy ra. Bên cạnh đó với một hệ thống phân loại rủi ro tín dụng
hợp lý cũng sẽ giúp cho ngân hàng quản lý rủi ro tín dụng tốt hơn. Và ngược lại một
Nguyễn Ngọc Tuấn Ngân hàng 48A
hệ thống quản lý rủi ro, phân loại rủi ro bất hợp lý cũng là nguyên nhân khiến các
ngân hàng chậm hoặc không thể phát hiện ra những dấu hiệu rủi ro có thể diễn ra,
cũng không quản lý tốt được các khoản tín dụng đã gặp rủi ro, từ đó dẫn đến tăng rủi
ro tín dụng cho ngân hàng.
• Công tác tổ chức của ngân hang :
Công tác tổ chức của ngân hàng nếu được cụ thể hóa và được sắp xếp một
cách khoa học, có sự kết hợp chặt chẽ giữa các phòng ban trên cơ sở tuân thủ các
nguyên tắc tín dụng sẽ là cơ sở để phát triển hoạt động tín dụng một cách lành mạnh
có hiệu quả. Và khi đó nó cũng hạn chế được rủi ro tín dụng có thê xẩy ra thông qua
việc phát hiện và xử lý kịp thời các khoản tín dụng có vấn đề. Và khi công tác tổ
chức của ngân hàng không hợp lý có thể dẫn đến sự chồng chéo trong hoạt động và
những sai sót không đáng có dẫn tới những rủi ro tín dụng mà đáng nhẽ có thể hạn
chế được.
• Chất lượng nhân sự:
Cán bộ tín dụng là người trực tiếp tham gia vào mọi khâu trong quá trình tín
dụng nên chất lượng nhân sự cũng là một nhân tố có thể gây ra rủi ro tín dụng. Trình
độ chuyên môn nghiệp vụ của các cán bộ tín dụng ảnh hưởng rất nhiều tới chất lượng
của hoạt động tín dụng cũng như quản lý rủi ro tín dụng. Một cán bộ tín dụng không
đủ khả năng phát hiện ra những rủi ro tiềm ẩn trong một hợp đồng vay nợ mà đưa ra
quyết định cho vay sẽ gây ra rủi ro tín dụng cho ngân hàng.
• Cơ sở vật chất thiết bị:
Trong điều kiện hiện nay, để áp dụng các công nghệ tiên tiến và đáp ứng được
nhu cầu cạnh tranh giữa các NHTM thì cơ sở vật chất thiết bị cũng là một yếu tố cần
được chú ý. Việc ứng dụng, sử dụng các cơ sở vật chất ngày càng hiện đại là một nhu
cầu tất yếu của tất cả mọi ngành trong nền kinh tế và ngân hàng không phải là ngoại
lệ. Việc không thích ứng được với cơ sở vật chất, thiết bị hiện đại cũng là một

nguyên nhân dẫn đến rủi ro trong hoạt động của ngân hàng trong đó có hoạt động tín
dụng
• Hoạt động kiểm soát nội bộ :
Hoạt động kiểm soát nộ bộ cho phép các nhà quản lý nắm bắt được tình hình
hoạt động của ngân hàng, những khó khăn mà ngân hàng đang gặp phải để từ đó đưa
ra được những đối sách hợp lý. Nếu hoạt động kiểm soát nội bộ khộng tốt rất có thể
sẽ xẩy ra tình trạng không tuân thủ những chính sách quy định dẫn đến rủi ro tín
Nguyễn Ngọc Tuấn Ngân hàng 48A
dụng. Bên cạnh đó cũng có thể không kiểm soát được hiện tượng nhân viên ngân
hàng cấu kết với khách hàng gây ra rủi ro tín dụng cho ngân hàng.
1.2.2.4. Dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng:
Việc phát hiện ra các dấu hiệu của rủi ro tín dụng là vô cùng quan trọng. Khi
phát hiện ra được những dấu hiệu cho thấy có khả năng xẩy ra rủi ro, ngân hàng có
thể tiến hành những hoạt động nhằm ngăn ngừa hoặc xử lý. Trên thực tế để phát hiện
ra những dấu hiệu của rủi ro là khá khó, rủi ro có thể đột ngột xẩy ra mà không có bất
kỳ một dấu hiệu nào báo trước. Mặc dù vậy vẫn có một số dấu hiệu cảnh báo rủi ro
có thể xẩy ra với một khoản tín dụng của ngân hàng. Các dấu hiệu đó có thể phân
thành các nhóm dấu hiệu sau :
Các dấu hiệu về quan hệ của ngân hàng với khách hàng: là các dấu hiệu
khi khách hàng có biểu hiện sau:
- Không thanh toán hoặc thanh toán không đầy đủ lãi và gốc khi đến hạn.
- Xin ngân hàng cơ cấu lại nợ.
- Có biểu hiện giảm vốn điều lệ.
- Chậm trễ trong việc thanh toán các khoản phải trả bao gồm cả phải trả
nhân viên.
- Vốn vay bị sử dụng sai với mục đích trong hợp đồng cho vay.
- Chu kỳ vay thường xuyên ra tăng.
Các dấu hiệu về phương pháp quản lý và tổ chức của khách hàng:
- Không có sự thống nhất trong hội đồng quản trị hay ban lãnh đạo về quan
điểm, mục đích và cách thức quản lý.

- Quản lý nhân sự yếu kém, cơ cấu tổ chức không hợp lý dẫn đến hiện tượng
dùng người không hiệu quả, những nhân viên có năng lực rời bỏ doanh nghiệp.
Các dấu hiệu về hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hang :
- Giá trị sản lượng hoặc doanh thu của khách hàng có xu hướng giảm.
- Thu nhập của khách hàng thiếu tính thường xuyên, ổn định.
- Vòng quay vốn lưu động thấp, khả năng thanh toán giảm.
- Các khoản tín dụng thương mại gia của khách hàng tăng một cách bất
thường.
Các dấu hiệu về xử lý thông tin tài chính, kế toán :
- Khách hàng chậm trễ hay trì hoãn nộp báo cáo tài chính, các số liệu trong
báo cáo tài chính không hợp lý, thiếu chính xác.
Nguyễn Ngọc Tuấn Ngân hàng 48A
- Tiền mặt, vốn lưu động của khách hàng giảm một cách bất thường.
- Sản xuất và bán hàng của khách hàng không đạt chỉ tiêu, kế hoạch.
- Cơ cấu vốn của khách hàng không hợp lý.
Các dấu hiệu về thương mại :
- Khách hàng tham gia kinh doanh những ngành nghề không thuộc chuyên
môn, những lĩnh vực có độ rủi ro cao.
- Yếu tố đầu vào của khách hàng không thuận lợi: ví dụ như giá cả đầu vào
tăng cao, không mua được nguyên vật liệu đầu vào...
- Chi phí của doanh nghiệp khách hàng không hợp lý.
Các dấu hiệu về mặt pháp lý :
- Có những thay đổi về chính sách liên quan đến ngành nghề kinh doanh của
khách hàng theo chiều hướng bất lợi.
- Doanh nghiệp có biểu hiện vi phạm pháp luật.
1.2.2.5. Chỉ tiêu đo lường rủi ro tín dụng và chỉ tiêu về an toàn tín dụng:
• Các chỉ tiêu đo lường rủi ro tín dụng :
Tỷ lệ nợ quá hạn: đây là chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng, nó giúp đánh
giá rủi ro tín dụng của ngân hàng. Tỉ lệ này được tính theo công thức: Tỷ lệ nợ quá
hạn = Nợ quá hạn/Tổng dư nợ.

Tỷ lệ lãi treo: lãi treo là khoản tiền lãi của khoản vay mà ngân hàng chưa thu
hồi được. Chỉ tiêu này phản ánh mức độ thiệt hại trong thu nhập dự tính của ngân
hàng do rủi ro tín dụng gây ra. Được tính theo công thức:
Tỷ lệ lãi treo = Lãi treo phát sinh/Tổng thu nhập từ hợp đồng tín dụng
Tỷ lệ nợ khó đòi: tỷ lệ này phản ánh tổn thất trong hoạt động tín dụng của
ngân hang. Nó được tính theo công thức:
Tỷ lệ nợ khó đòi = Nợ khó đòi/Tổng doanh số cho vay
Tỷ lệ nợ khoanh, xóa nợ: phản ánh tỷ lệ các khoản nợ không thu hồi được
nhưng được nhà nước cho phép khoanh lại (thường là các khoản cho vay chính sách).
Tỷ lệ nợ khoanh, xóa nợ = Nợ khoanh/ Tổng doanh số cho vay
Tỷ trọng nợ khó đòi trên nợ quá hạn: phản ánh số lượng nợ có khả năng mất
vón cao trên tổng số nợ quá hạn. Được tính bằng công thức:
Tỷ trọng nợ khó đòi trên nợ quá hạn = Nợ khó đòi/ Nợ quá hạn
• Các chỉ tiêu về an toàn tín dụng

×