Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

Bình giảng bài thơ chùa non nước của lê thánh tông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.91 KB, 3 trang )

Bình giảng bài thơ Chùa Non Nước của Lê Thánh
Tông
October 27, 2014 - Chuyên mục: Văn mẫu THCS - Tác giả: Thu Huyền
Đề bài: Bình giảng bài thơ “Chùa Non Nước” của Lê
Thánh Tông trích “Hồng Đức quốc âm thi tập”
Trong phần “Phong cảnh môn'’ (Môn loại về phong cảnh) của “Hồng Đức quốc âm thi tập” (Hội Tao
Đàn) hiện có 66 bài thơ vịnh những danh lam thắng cảnh cửa giang sơn gấm vóc Đại Việt. Trong đó có
bài thơ “Chùa Non Nước” tương truyền là sáng tác của Tao Đàn đô nguyên súy Lê Thánh Tông.
Bài thơ được viết theo thể thơ lục ngôn bát cú (sáu chữ, tám câu). Bao trùm bài thơ là một cái nhìn man
mác với bao suy ngẫm về thiên nhiên và cuộc đời:
“Nơi gọi Bồng, nơi gọi Nhược,
Hai bên góp làm Non Nước.
Đá chồng hòn thấp, hòn cao,
Sóng trục lớp sau, lớp trước.
Phật hư vô, cảnh thiếu thừa,
Khách danh lợi, buồm xuôi ngược.
Vẳng nghe trên gác boong boong,
Lẩn thẩn dưới chùa lần bước.”
Bài thơ chia làm 2 phần. Bốn câu đầu miêu tả cảnh sắc chùa Non Nước. Bốn câu cuối nói lên những
suy ngẫm của tác giả về Phật, về con người trong cuộc đời.
Bài thơ “Chùa Non Nước” là một thành công đặc sắc và độc đáo về thơ lục ngôn
Núi Non Nước nằm bên bờ sông Đáy thuộc thị xã Ninh Bình. Xa xưa gọi là Băng Sơn nằm giữa cửa
biển. Trong thế kỉ XM, Trường Hán Siêu đổi tên núi thành Dục Thúy Sơn. Ông có bài thơ -'“Dục Thúy
Sơn khắc thạch” và bài văn “Dục Thúy Sơn linh tế tháp kí” đều nói về núi này. Nguyên Trãi cũng có
bài thơ “Dục Thúy Sơn”. Từ thời Lê, núi được đổi ten thành núi Non Nước. Từ xa xưa đến nay, trên
núi Non Nước vẫn có chùa, người đời gọi là chùa Non Nước; núi, chùa ấy là một trong những cảnh đẹp
nổi tiếng trên miền Bắc nước ta.
Hai câu thơ đầu ca ngợi vẻ đẹp độc đáo, vẻ đẹp thần tiên của núi Non Nước. Núi có sông Đáy uốn
quanh; cảnh sơn thủy hữu tình, nên thơ và độc đáo: “Hai bên góp làm Non Nước”., Hai chữ “góp làm”
rất bình dị, rất nôm nói lên bàn tay sáng tạo kì điệu của Hóa công (Trời). Nguyễn Trãi đã từng ví Dục
Thúy Sơn là “Cảnh tiên rơi cõi tục”, là “Của biển có non tiên”, ở đây Lê Thánh Tông lại viết:


“Nơi gọi Bồng, nơi gọi Nhược”
Bồng Lai, Nhược Thủy tương truyền là nơi tiên ở. Núi Non Nước trong cảm nhận của thi nhân mang vẻ
đẹp cõi tiên. Một cách viết ước lệ hàm súc gợi lên bao tường tượng, biểu lộ một tâm hồn chan hòa tình
sông núi.
Hai câu 3, 4 đối nhau. Núi đá chồng cao lên, nơi thì “hòn thấp” nơi thì “hòn cao” vừa lạ vừa đẹp mắt.
Dưới sông, sóng đuổi nhau “lớp sau, lớp trước: Hai chữ – “chồng” và “rục” đăng đối, làm nổi bật cái
hồn sơn thủy vừa sống động vừa hài hòa. Cảnh sông núi càng ngắm càng mê say, quyến rũ:
“Đá chồng hòn thấp, hòn cao,
Sóng trục lớp sau, lớp trước.”
Qua vần thơ đẹp, ta cảm nhận được cảnh sắc núi Non Nước, chùa Non Nước là cảnh sơn thủy hữu tình,
cảnh tiên kì diệu.
Bốn câu cuối nói lên những suy ngẫm của nhà thơ. Trước hết là suy ngẫm về Phật, về người đời:
“Phật hư vô, cảnh thiếu thừa,
Khách danh lợi, buồm xuôi ngược”
“hư vô” nghĩa là thế nào? Hư vô nghĩa là trống không. Chùa Non Nước thờ Phật, mà Phật chỉ là hư vô,
một thế giới tưởng tượng, trong đó không có cái gì tồn tại. Câu thơ nào cũng ngắt thành 2 vế tiểu đối.
Nếu cảnh chùa chiền, cảnh Phật là cõi hư vô, thì trái lại, cảnh thiên nhiên, cảnh sông núi ở đây lại cao,
thấp, trước, sau, thiếu, thừa hiển hiện. Trong cuộc mưu sinh, giữa dòng đời xưa nay xét đến cùng con
người (số đông) chỉ là khách danh lợi, tất tả ngược xuôi chẳng khác nào những cánh buồm xuôi ngược
trên sông. Sự cảm nhận của nhà thơ về đạo Phật, về đời người giữa cuộc sống thể xác và cõi tâm linh
được thể hiện qua những vần thơ thâm trầm, đầy ý vị. Phải chăng đó là bi kịch của kiếp người trong
dòng chảy thời gian?
Tiếng chuông boong boong trên mái chùa vẳng lên như làm cho du khách chợt tỉnh giấc mộng, “lẩn
thẩn” dạo bước ngắm cảnh chùa Non Nước. Hai chữ “lẩn thẩn” chứa đầy tâm trạng của một du khách
thanh nhàn mang tình sông núi. Bút pháp nghệ thuật lấy động để tả tĩnh rất đặc sắc: tiếng chuông vẳng
lên “boong boong” đã làm nói rõ cảnh chùa Non Nước trên núi cao vô cùng tĩnh lặng, vắng vẻ; du
khách tưởng như tỉnh mộng:
“Vẳng nghe trên gác boong boong,
Lẩn thẩn dưới chùa lần bước.”
Bài thơ “Chùa Non Nước” là một thành công đặc sắc và độc đáo về thơ lục ngôn mà Lê Thánh Tông và

Hội Tao Đàn để lại cho nền thi ca dân tộc. Bài thơ lại được gieo vần trắc, tạo nên âm điệu trầm bổng,
gập ghềnh như leo núi: Nhược – nước – trước – ngược – bước. Tác giả sử dụng nghệ thuật bình đối và
tiểu đối rất thành công. Hình tượng sông núi, sơn thủy, non nước, cảnh Phật và đời người in đậm và
bao trùm bài íhơ. Ngoài sự suy ngẫm giàu tính nhân bản về Phật và đời người, bài thơ còn thể hiện một
tâm hồn thanh cao, giàu tình yêu thiên nhiên đất nước. Đáng quý nhất, đó là tâm hồn của một ông vua
vào hàng minh quân thánh đế của Đại Việt.
Read more: />tong/#ixzz3mXjuZh3i

×