Tải bản đầy đủ (.doc) (2 trang)

Cảm nhận của em về bài thơ lại bài viếng vũ thị của lê thánh tông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.93 KB, 2 trang )

Cảm nhận của em về bài thơ Lại bài viếng Vũ Thị
của Lê Thánh Tông
October 27, 2014 - Chuyên mục: Văn mẫu THCS - Tác giả: Thu Huyền
Đề bài: Cảm nhận của em về bài thơ Lại bài viếng Vũ
Thị của Lê Thánh Tông.
“Lại bài viếng Vũ Thị” là bài thơ Nôm độc đáo trong “Hồng Đức quốc âm thi tập”. Độc đáo vì nó là
bài thơ của một ông vua giỏi chữ hay thơ đã sáng lập ra hội Tao Đàn đã hướng tình thương xót đối với
một người phụ nữ bình dân bạc mệnh.
Ở đây, tiếng thơ đúng là tiếng lòng, dung dị, giàu cảm xúc.
Nhìn thấy khói hương và miếu thờ nơi đầu ghềnh mà chợt nhớ vợ chàng Trương, một người phụ nữ
oan khổ:
“Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khối hương,
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương”.
Đầu ghềnh mà nhà thơ nói đến là bờ dòng sông Hoàng Giang thuộc tỉnh Hà Nam ngày nay. Vợ chàng
Trương là Vũ Thị mà Nguyễn Dữ; đã kể trong “Chuyện người con gái Nam Xương”. Hình ảnh khói
hương toả nghi ngút trong miếu thờ đầu ghềnh gợi tả vẻ linh thiêng và sự cảm thương trong lòng người
đời tưởng nhớ đến người bạc mệnh.
Nhà vua như cất tiếng than nói về cái chết oan của Vũ Thị. Chỉ vì cái bóng đèn vu vơ qua miệng đứa
trẻ thơ mà người vợ thuỷ chung, người mẹ hiền phải nhảy xuống sông Hoàng Giang tự tử, gửi mình
cho “cung nước”. Giá mà Trương Sinh “đừng nghe trẻ” thì “cung nước chỉ cho lụy đến nàng”. Các chữ:
“đừng nghe”, “lụy đến” chứa đựng biết bao nhiêu cảm thương. Nhà thơ có một cách nói nhẹ nhàng chê
trách sự hồ đồ, nông cạn của chàng Trương là nguyên nhân dẫn đến mọi bi kịch đau xót trong cuộc đời:
“Bóng đèn dầu nhẫn đừng nghe trẻ,
Cung nước chi cho iuỵ đến nàng “
Bài thơ là lời xót thương của Lê Thánh Tông dành cho Vũ thị
Bốn từ Hán Việt được sử dụng rất chọn lọc ở phần luận đã làm cho giọng thơ thêm phần trang nghiêm,
trang trọng: chứng quả, nhật nguyệt, giải oan, đàn tràng. Tâm hồn trong sáng thủy chung của Vũ
Nương được nhật nguyệt, được trời đất soi sáng, chứng quả cho. Lòng nàng vẫn sáng trong như ngọc
Mị Châu, tàm hồn nàng vẫn thơm ngát như cỏ Ngu Mĩ. Cần chi lập đàn tràng để giải oan. Hai chữ
“chẳng lọ” nghĩa là chảng cần. Việc lập đàn tràng của Trương Sinh là một việc làm vô nghĩa vì đã có
nhật nguyệt soi tỏ, chứng quả cho nỗi oan của nàng rồi. Lê Thánh Tông vừa ca ngợi phẩm chất tốt đẹp


của Vũ Thị vừa chê trách chuyện lập đàn tràng của Trương Sinh. Cách nhìn của nhà vua rất nhân hậu,
nhân bản:
“Chứng quả đã đôi vầng nhật nguyệt,
Giải oan chẳng lọ mấy đàn tràng”.
Không nặng lời, nhiều lời! Cũng chẳng cao đạo mà chỉ “bàn bạc mà chơi vậy. Một cách nói rất dung dị,
bình dị. Lời của vị hoàng đế mà như tiếng nói của một thường dân nơi thôn dã sau luỹ tre, bờ dâu
ruộng lúa:
“Qua đây bàn bạc mà chơi vậy,
Khá trách chàng Trương khéo phũ phàng”.
Các chữ “khá trách” và “khéo phũ phàng” rất nhẹ nhàng mà nhân hậu, sâu sắc. Chàng Trương thật phũ
phàng đáng trách đã gây ra cái chết thảm, chết oan cho người vợ hiền thảo của mình.
Bài thơ “Lại bài viếng Vũ Thị” là một nén hương của Lê Thánh Tông trên đường kinh lí đã ghé qua
miếu thờ và viếng Vũ Nương. Giọng thơ nhẹ nhàng, thương cảm. Nhà vua đã ca ngợi tiết hạnh của
người phụ nữ bạc mệnh. Bài thơ đã kín đáo nêu lên cho đời bài học về đối nhân xử thế, cẩn trọng nhất
là trong đạo vợ chồng. Thấm đẫm vần thơ của Lê Thánh Tông là một tình thương mênh mông. Nó là
một trong tác phấm mở đầu chủ nghĩa nhân đạo trong nền thi ca cổ điển Việt Nam.
Read more: />thanh-tong/#ixzz3mXjdakoV

×