Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

Đôi nét về thơ trữ tình nguyễn bỉnh khiêm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.95 KB, 3 trang )

Đôi nét về thơ trữ tình Nguyễn Bỉnh Khiêm
October 27, 2014 - Chuyên mục: Văn mẫu THCS - Tác giả: Thu Huyền
Đề bài: Đôi nét về thơ trữ tình Nguyễn Bỉnh Khiêm.
(…) Lâu nay, khi nói về thơ ông, người ta hay nghĩ nhiều đến chất triết lý, chất trí tuệ, ít người chú ý
đến chất trữ tình của ông. Trong rừng thơ trí tuệ ấy, yếu tố trữ tình trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm đem
lại cho chúng ta cảm giác tươi mát như lọc giữa đại ngàn bỗng gặp một mảnh trời xanh biếc. Trong dịp
này, tôi xin sẽ không để cập đến mảng thơ trí tuệ, mảng thơ giáo huấn và mảng thơ phê phán của ông,
cũng như chưa nói đến hình thức nghệ thuật mang tính dân tộc của ông, mà chỉ xin nói đôi nét về thơ
trữ tình.
Trong nhiều bài thơ, nhất là thơ Nôm, của Nguyễn Bỉnh Khiêm, chúng ta bắt gặp những rung động thơ
tinh tế, biểu lộ một tâm hồn nghệ sĩ rất nhạy cảm. Không chỉ là những tiếng thơ mĩ lệ, những lời thơ
đẹp, mà là phững xúc cảm thực sự mang tính trữ tình. Đó là chiều sâu tâm hồn của một thi sĩ có bề dày
của cả cuộc sống thời đại, của cả một sức học uyên bác, một sức nghĩ sâu sắc, một cây bút tài hoa. Tôi
đã gặp đâu đấy một câu nói hay của một nhà tư tưởng: Triết học, cũng như toán học, khi đến đỉnh cao
sẽ gặp thơ ca. Ở trường hợp Nguyễn Bỉnh Khiêm, trí tuệ đã phát triển đến nghệ thuật trữ tình, ông đi từ
tư duy lôgíc đến tư duy hình tượng không chút nào khiên cưỡng. Sự chuyển tiếp ấy dung dị, lãơ thực
đến mức người đời sau đọc thơ ông không khỏi ngạc nhiên về trình độ bậc thầy trong cấu tạo hình ảnh,
sử dụng màu sắc, với những câu thơ vô cùng trong sáng. Có ai nghĩ được rằng người viết những câu:
“Chẵn lẻ đầy vơi số sóng nhau
Âm dương tiêu trưởng rất cơ mầu.”
hoặc:
“Thái cực chưa chia còn hỗn độn,
Lưỡng nghi hợp lai mới khai trương…”
Cũng là những người viết những câu:
“Vườn rau sáng dạo sương đầy dép,
Bến cá đêm trăng bóng lọt thuyền…”
“Núi nhuộm sắc thu, xanh chuyển nhạt,
Sóng lồng bóng nguyệt, trắng ghen nhau…”
Trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, thiên nhiên cũng có tình như người
Trong thơ ông, thiên nhiên cũng có tình như người. Giữa sự vật, giữa gió, trăng, hoa, cỏ… cũng có mối
liên quan tình cảm với nhau. Thấy hoa nở mới hay có gió đưa tin, nhìn mặt nước vẫn rõ bóng nguyêt


như dáng giai nhân. Nhà thơ của chúng ta, giữa những ưu tư vẻ thời thế, vẫn dành thời gian để đợi ánh
trăng qua hàng tre trúc, để chờ gió đến báo tin hoa nỏ trước nhà. Nỗi lo đời, thương dân không làm mất
đi cái phong thái ung dung, nỗi rung động của lòng mình:
“Đêm, đợi trăng cài bóng trúc,
Ngày, chờ gió thổi tin hoa…”
Ông muốn níu lại từng làn hương thoảng qua song cửa, ban đêm nâng chén rượu, ông hồi hộp sợ bóng
trăng tan đi, không ở lại với mình:
“Nương song, ngày tiếc mùi hương lạt,
Nối chén, đêm âu bóng quế tan…”
(Thơ Nôm, bài 23)
Tiêu biểu cho thơ trữ tình của Nguyên Bỉnh Khiêm, có lẽ nên nhắc đến hai bài Khuê tình và Cám cựu,
một bài nói vẻ nỗi đau buồn của người thiếu phụ nhớ thương chồng nơi trận mạc, một bài nói đến tình
bạn xưa của bản thân tác già.
“Tiếng ngâm theo ngọn gió tây,
Phòng khuê thiếu phụ ngủ say một mình.
Bổng nghe hơi gió bên mình,
Mới hay có kẻ xót tình biệt ly
Chẳng nề trận mạc ra đi,
Trông xa gợi nỗi tái tê bao niềm!
Giọt mưa rả rích bên thềm,
Như ai thủ thỉ trong đêm nổi lòng.”
(“Nỗi lòng ở chốn phòng khuê” – Bản dịch thơ)
Cũng vẫn những chất liệu từng gặp trong những bài thơ viết về chinh phụ xưa nay, nhưng ở đây không
phải là tiếng trống Tràng Thành lung lay bóng nguyệt lúc ra đi mà là tiếng trống thúc quân nơi trận mạc
cũng dấy lên nỗi đau lòng của người ở nhà – không phải là ngọn gió xuân không hiểu cho lòng người
lại cứ ỡm ở vào động màn the, mà là hơi giá buốt thấm vào phòng khuê làm cho người thiếu phụ cô
đơn càng thấm cảnh xót xa ly biệt. Khép lại bài thơ trên là tiếng thì thầm đêm dài của giọt mưa trước
thềm, tạo nên một cảm giác buồn quạnh thê lương và triền miên không dứt. Đối với nhà thơ, nỗi lòng
chinh phụ ấy tà một thực trạng của đời sống nhân dân. Chất trữ tình của bài thơ là sự cô đọng của tình
thương đời của ông. Nếu không có tấm lòng ấy, nếu không hòa mình vào số phận của nhân dân trong

đời ly loạn ấy, khó có thể viết nén những vần thơ thiết tha như vậy.
Bài “Cảm cựu” cũng là một bài thơ hay. Thơ xưa cũng từng viết về tình bạn, mừng bạn, khóc bạn, tiễn
bạn như chóng ta đã biết. Ở đây Nguyên Bỉnh Khiêm gửi vào thơ tình cảm nhớ thương người bạn cũ.
Chúng ta có thể hiểu được nỗi riêng của ông trong thời buổi ấy, người bạn tâm giao có thể do thời thế
mà bước sang một trận tuyến khác; nhưng đối với ông, Bắc triều hay Nam triều, nhà Mạc hay nhà Lê
trung hưng lúc bấy giờ cũng chỉ là những kẻ hung ác hại dân, cho nên khoảng cách không gian chi làm
cho lòng nhớ bạn càng mặn nồng hơn. Nỗi riêng ấy, Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ biết trao gửi cho vầng
trăng, vầng trăng lẽo đẽo theo từng bước bên mình, như mối tình chung thủy của ông.
“Sơ giao bạn cũ cách xa,
Tấm son có biết đậm đà nữa thôi?
Đau lòng vô cớ lệ rơi,
Nhớ ai luống những bồi hồi xiết đau.
Sao buồn vẳng tiếng canh thâu,
Non cao riêng dứt đàn sầu cho xong.
Biết ta chỉ tấm trăng trong,
Quan sơn muôn dặm trăng cùng theo ta?
(Bản dịch trích trong bài viết của Vân Trình)
Chúng ta có thể còn tìm thấy nhiều nét trữ tình như thế ở một số thơ lớn của dân tộc. Mảng thơ này ít
được người đời sau chú ý, dù nó có giá trị nghệ thuật rất cab. Có lẽ mảng thơ ấy đã bị che lấp bởi cái
bóng núi đồ sộ về triết học, về nhân cách tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm hầu như đã trở thành trọng
tâm nghiên cứu của nhiều thế hệ và cũng là đặc trưng lớn nhất, cơ bản nhất, của sự nghiệp văn chương
của ông. Dù vậy, chúng ta vẫn nên chắt lọc một chút ảnh trăng trong rừng già cổ kính, một chút trời
xanh bên tượng đài trang nghiêm. Làm như vậy, để càng thấy lổng lộng tầm cao của Nguyễn Bỉnh
Khiêm, càng thấy Sự đa dạng, phong phú ở tâm hồn ông.
Read more: />khiem/#ixzz3mXl6woao

×