Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

Phân tích đoạn thơ chị em thúy kiều trích trong truyện kiều của thi hào dân tộc nguyễn du

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.1 KB, 3 trang )

Phân tích đoạn thơ Chị em Thúy Kiều trích trong
Truyện Kiều của thi hào dân tộc Nguyễn Du
October 29, 2014 - Chuyên mục: Văn mẫu THCS - Tác giả: Thu Huyền
Đề bài: Phân tích đoạn thơ “Chị em Thúy Kiều” trích
trong Truyện Kiều của thi hào dân tộc Nguyễn Du.
Thơ cổ viết về giai nhân thì đoạn thơ “Chị em Thúy Kiều trích trong “Truyện Kiều” của thi hào
Nguyễn Du là một trong những vần thơ tuyệt bút. 24 câu lục bát đã miêu tả sắc, tài và đức hạnh chị em
Thúy Kiều, Thúy Vân – hai tuyệt thế giai nhân – với tất cả tấm lòng quý mến và trân trọng của nhà thơ
thiên tài dân tộc.
 1. Bốn câu đầu, Nguyễn Du giới thiệu vị thứ trong gia đình: Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân”, là
con đầu lòng của ông bà Vương Viên ngoại. “Hai ả tố nga” là hai cô gái xinh xắn, xinh tươi. Cốt cách
thanh cao như mai (một loài hoa đẹp và quý) tình thần trinh trắng như tuyết. Hai chị em có nhan sắc
tâm hồn hoàn mĩ “mười phân vẹn muời”, tuy thế, mổi người lại có một nét đẹp riêng mỗi người mỗi
vẻ”. Một cái nhìn phát hiện đầy trân trọng; lấy mai và tuyết làm chuẩn mực cái đẹp, Nguyễn Du miêu
tả tâm hồn trong sáng, trinh trắng, làm rõ cái thần bức chân dung thiếu nữ.
2. Bốn câu tiếp theo tả nhan sắc Thúy Vân. Mỗi câu thơ là một nét vẽ tài hoa về bức chân dung giai
nhân. Cử chỉ, cách đi đứng… rất trang trọng quý phái. Cách ứng xử thì đoan trang. Mày nở nang, thanh
tứ như mày con bướm tằm. Gương mặt xinh tươi như trăng rằm. Nụ cười tươi thắm như hoa. Tiếng nói
trong như ngọc. Tóc mềm, bóng mượt đến nỗi “mây thua”. Da trắng mịn làm cho tuyết phải “nhường”.
Cách miêu tả đặc sắc, biến hóa; Sử dụng ẩn dụ, nhân hóa tài tình:
“Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười, ngọc thốt đoan trang”
Dùng thủ pháp so sánh, nhân hóa:
“Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”
Từ ngữ: “trang trọng”, “đoan trang” là 2 nét vẽ tinh tế, gợi tả cái thần của bức chân dung “ả tố nga” vẻ
đẹp quý phái, phúc hậu. Một cái nhìn nhân văn đầy quý mến trân trọng của nhà thơ khi miêu tả Thúy
Vân.
Hai chị em Thúy Kiều, Thúy Vân đều rất xinh đẹp, đoan trang
3. Mười hai câu tiếp theo tả sắc, tài Thúy Kiều. Nguyễn Du tả Thúy Vân trước, tả Thúy Kiều sau, chỉ
dùng 4 câu tả Thúy Vân, dùng đến 12 câu tả Thúy Kiều. Đó là một dụng ý nghệ thuật của Nguyễn Du,
Kiều không chỉ đẹp mà còn giàu tài năng, vẻ đẹp của Kiều là “sắc sảo, mặn mà”, đẹp “nghiêng nước


nghiêng thành”, Kiều là tuyệt thế giai nhân “sắc đành đòi một”. Tài năng thì may ra còn có người thứ
hai nào đó bằng Kiều: “tài đành họa hai”. Nguyễn Du dùng biện pháp tu từ ẩn dụ so sánh kết hợp với
nhân hóa thậm xưng để ca ngợi và miêu tả nhan sắc Thúy Kiều:
“Làn thu thủy, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”.
Mắt đẹp xanh trong như nước hồ thu, lông mày thanh tú nhi dáng vẻ, nét núi mùa xuân. Môi hồng má
thắm làm cho “hoa ghen”; nước da trắng xinh làm cho liễu phải “hờn “. Vẫn lấy vẻ đẹp thiên nhiên (thu
thủy, xuân sơn, hoa, liễu) làm chuẩn mực cho cái đẹp giai nhân, đó là bút pháp ước lệ trong thơ cổ. Tuy
nhiên, nét vẽ của Nguyễn Du tài hoa quá, nét vẽ nào cũng có thần rất đẹp, một vẻ đẹp nhân văn.
Kiều “thông minh vốn sẵn tính trời”, nghĩa là thông minh bẩm sinh, cho nên các môn nghệ thuật như
thi, họa, ca, ngâm, chỉ là các thú tao nhã nhưng nàng rất sành điệu, điêu luyện:”lầu bậc”, “ăn đứt” hơn
hẳn thiên hạ:
“Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm.
Cung thương lầu bậc ngữ âm, .
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương”.
Kiều giòi về âm luật, giỏi đến mức “lầu bậc”. Cây đàn mà nàng chơi là cây đàn Hồ cầm; tiếng đàn của
nàng thật hay “ăn đứt” bất cứ nghệ sĩ nào. Kiều còn biết sáng tác âm nhạc, tên khúc đàn của nàng sáng
tác ra là một “thiên bạc mệnh “ nghe buồn thiết “não nhân”, làm cho lòng người sầu não, đau khổ. Các
từ ngữ: sắc sảo, mặn mà, phấn hơn, ghen, hờn, nghiêng nước nghiêng thành, đòi một, họa hai, vốn sẵn,
pha nghề, đủ mùi, lầu bậc, ăn đứt, bạc mệnh, não nhân – tạo nên một hệ thông ngôn ngữ cực tả tài sắc
và hé lộ dự báo số phận bạc mệnh của Kiều, như ca dao lưu truyền:
“Một vừa hai phải ai ơi!
Tài tình chi lắm cho trời đất ghen”
4, Bốn câu cuối đoạn nói về đức hạnh 2 ả tố nga: Tuy là khách “hồng quần” đẹp thế, tài thế, lại “phong
lưu rất mực”, đã tới tuần “cập kê” nhưng “hai ả tố nga” đã và đang sống, một cuộc đời nền nếp, gia
giáo:
“Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”.
Câu thơ “Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê” là một câu thơ độc đáo về thanh điệu, về sử dụng phụ âm

“x” (xuân xanh xấp xỉ), phụ âm “t” (tới tuần), phụ âm “c-k” (cập kê) tạo nên âm điệu nhẹ nhàng, êm
đềm của cuộc sống yên vui, êm ấm của thiếu nữ phòng khuê.
Đoạn thơ nói về “Chị em Thúy Kiều “ là một trong những đoạn thơ hay nhất, đẹp nhất trong “Truyện
Kiều “ được nhiều người yêu thích và thuộc. Ngôn ngữ thơ tinh luyện, giàu cảm xúc. Nét vẽ hàm súc,
gợi cảm, nét vẽ nào cũng có thần. Các biện pháp tu từ ẩn dụ, so sánh, nhân hóa được thi hào vận dụng
thần tình tạo nên những vần thơ ước lệ mà trữ tình, đầy chất thơ. Hàm ẩn sau bức chân dung mĩ nhân là
cả một tấm lòng quý mến trân trọng. Đó là nghệ thuật tả người điêu luyện của thi hào Nguyễn Du mà ta
cảm nhận được.
Read more: />kieu-cua-thi-hao-dan-toc-nguyen-du/#ixzz3mXm7cNCS

×