Tải bản đầy đủ (.doc) (2 trang)

Thanh minh trong tiết tháng ba

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.8 KB, 2 trang )

Thanh minh trong tiết tháng ba
October 29, 2014 - Chuyên mục: Văn mẫu THCS - Tác giả: Thu Huyền
Đề bài: Thanh minh trong tiết tháng ba.
Một cuộc du xuân – đây là sự kiện mở màn cho cuộc đời thiếu nữ phong lưu và xuân sắc của Thúy
Kiều. Cuộc du xuân mở đầu cho phần thứ nhất trong hệ thống ba biến cố thông thường của cốt truyện
cổ điển: “Gặp gỡ – Tai biến – Đoàn tụ”. Chúng ta sẽ bắt gặp ở đoạn thơ này một bức tranh thiên nhiên
sáng tươi xinh đẹp và hội đạp thanh tưng bừng náo nhiệt. Nhưng cũng chính ở phần “Gặp gỡ” mà
thông thường sẽ chưa có bóng dáng của tai họa – lại đã xuất hiện một nấm mồ, một cuộc đời và một
cảm xưa có màu sắc bi kịch về số phận của hồng nhan.
1. Một bức tranh thiên nhiên và một khung cảnh lễ hội
Mặc dầu câu thơ thứ hai trong đoạn có thể đưa đến một liên tưởng, một ấn tượng nào đó về thời gian
tuổi thọ, nhưng chủ yếu toàn bộ sáu câu thơ đầu tiên là một bức tranh thiên nhiên rực rỡ ánh sáng và
màu sắc trong trẻo của bầu trời “thanh minh “, của hình ảnh đàn chim én bay qua bay lại linh hoạt, nhịp
nhàng, của nội cỏ mênh mỏng một màu tươi sáng pha hòa giữa màu xanh lá cây và màu xanh cỏ non và
của một cành lê thanh tú “trắng điểm một vài bông hoa”…
Con người trong tiết thanh minh đi sửa sang phần mộ và tìm đến những bóng hình của quá khứ – đó là
lễ nghi truyền thống. Nguyễn Du đã chứng tỏ tài năng bậc thầy vẻ ngôn ngữ ngay ở câu thơ tự sự ngắn
gọn về một sinh hoạt thông thường: “Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh”. Nghi lễ vào hội hè có thể có mối
quan hệ gắn bó chặt chẽ, nhưng đó vẫn là hai hình thức sinh hoạt văn hóa có khác biệt: Hội đạp thanh
là cuộc vui chơi trên dặm cỏ xanh của lứa tuổi xuân xanh… Hôi đạp thanh là một cuộc sống hiện tại và
có dặm cỏ xanh của lứa tuổi xuân xanh… Hội đạp thanh là một cuộc sống hiện tại và có thể tìm đến
những sợi tơ hồng của mai sau… Trong tiết thanh minh, có hồi ức và tưởng niệm quá khứ (“lễ là tảo
mộ”) nhưng cũng có khát khao và hoài vọng nhìn về phía trước của cuộc đời (“hội là đạp thanh”).
Sau câu thơ mở đầu là một bức tranh “đượm vẻ thiên thiên” diễm lệ và tươi sáng. Vẫn chỉ là ngòi bút
phác họa, chấm phá nhưng chủ yếu nhà thơ đã sử dụng từ ngữ dân tộc (trong đó có những câu thơ có
thể gọi là “thuần Nôm”), đã lựa chọn những đường nét. những hình ảnh, những màu sắc đưa vào một
tổng thể cấu trúc hội họa hài hòa giữa bức phông màu thiên thanh và những cánh chim én đậm màu
sắc, sắc nét, giữa cành lê trong trắng trên nền cỏ mùa xuân tươi xanh…
Một cuộc du xuân – đây là sự kiện mở màn cho cuộc đời thiếu nữ phong lưu và xuân sắc của Thúy
Kiều
Tiếp theo hình tượng thiên nhiên là ngôn ngữ tự sự về cảnh lễ hội. Một hệ thống danh từ và động từ


kép: “gần xa, yến anh, chị em, tài tử, giai nhân… nô nức, sắm sửa, dập dìu, ngổn ngang” biểu hiện
những hoạt động nhộn nhịp, náo nhiệt, tươi vui cửa mọingười và đây lại là một dòng những con người
trẻ tuổi “nam thanh nữ tú” với ngựa xe, trang phục đông đúc, chen chúc… Lễ viếng thăm phần mộ tưng
bừng, náo nhiệt, xen kẽ ngày hội giai ngộ của tuổi thanh xuân đã hoàn chỉnh bức tranh mùa xuân khi cỏ
cây hoa lá vẫn đang độ tươi xanh rực rỡ, khi không trung và ánh sáng đã trở nên trong trẻo và ấm áp
hơn.
Dường như ánh sáng mùa xuân, niềm vui lễ hội đang bao trùm tất cả nhân giao (trong đó có ba chị emt
họ Vương). Thông qua sinh hoạt du xuân của chị em Thúy Kiều, Nguyễn Du đã khắc hoạ hình ảnh một
truyền thống văn hóa lễ hội xa xưa và một cung cách sống của gia đình viên ngoại họ Vương.
2. Một nấm mồ vô chủ và một số kiếp hồng nhan
Thời gian đã chuyển qaa, bóng dương chênh chếch xế chiều “Tà tà bóng ngả về tây”. Nhưng đây không
chỉ là hoàng hôn của cảnh vật, dường như con người cũng chìm trong một cảm xúc bâng khuâng khó
tả. Trong văn học trung đại, chiều tà thường gợi lên ý niệm nhớ nhung, hoài niệm hoặc tàn tạ thê lương
“Quán thu phong đứng vũ tà huy – Ai đem nhân ảnh nhuộm màu tà dương…” (Cung oán ngâm khúc).
Cuộc du xuân ngoạn cảnh đã xong, đã chấm dứt lễ hội tưng bừng náo nhiệt… Tâm hồn con người
dường như cũng “chuyển điệu “ theo sự thay đổi của thời gian và tàn cuộc thanh minh để mang chút
bâng khuâng thơ thẩn trên dặm đường về… Thời gian và tâm trạng đó báo hiệu sự biến đổi trong
không gian, ở đây chỉ có ba hình ảnh để tả phong cảnh: một dòng suối nhỏ, chiếc cầu nhỏ và một nấm
mồ nhỏ… Cũng vẫn chỉ là ngòi bút phác hoạ qua sáu câu thơ. Đối lập với cảnh đông đúc ồn ào của lễ
hội ở trên là một không gian cô tịch với dòng suối nhỏ uốn khúc “nao nao” nhẹ nhàng, dòng suối bé
nhỏ tội nghiệp đến mức chỉ cần một “nhịp cầu nho nhỏ’’ bắc ngang là đủ để con người đi qua… Miêu
tả dòng suối hay là miêu tả nỗ niềm nao nao xao động của lòng người ? Giữa cành vật và lòng người
dường như không có đường viền… Cũng như vậy, Nguyễn Du dùng những trạng từ kép: “sè sè, dàu
dàu, ” nấm đất thấp bé gợi hình ảnh mội số phận nhỏ nhoi. Và riêng ngọn cỏ ở đây không hề mang một
màu “xanh tận chân trời “ như trên, mà lại chen màu vàng úa và “dàu dàu” héo hon, ủ rũ… Những từ
ngữ “thanh thanh, nao nao, dàu dàu…” biểu đạt sắc thái cảnh vật nhưng đồng thời cũng bộc lộ tâm
trạng của con người.
Một khung cảnh hoàng hồn báo hiệu ngày tàn đối lập với thiên nhiên trong tiết thanh minh tươi sáng,
một nấm mồ cô quạnh thê lương đối lập với lễ tảo mộ đông đúc náo nhiệt… Một bức tranh đối lập
khiến con người đa cảm phải thốt lên một câu hỏi ngạc nhiên (Rằng: “Sao trong tiết thanh minh, Mà

đây hương khói vắng tanh thế mà?”). Khung cảnh hoang vắng thê lương ấy minh chứng một câu
chuyện thương tâm về một con người, một cuộc đời và một kết thúc đã bị cuộc đời lãng quên…
Read more: />

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×