TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
THPT KIM ANH - -
Chuyên ngành: CNKHSP GDTC
- 2015
Tên tôi là
Sinh viên lớp K37 GDTC, trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2. Tôi xin
cam đoan đề tài này là của riêng tôi, chưa được bảo về trước hội đồng khoa
học nào. Toàn bộ những vấn đề đưa ra bàn luận, nghiên cứu đều mang tính
thời sự, cấp thiết và đúng với thực tế khách quan của trường THPT Kim
Anh - Sóc Sơn - Hà Nội.
Hà Nội, ngày tháng năm 2015
Sinh viên
(s) : Giây
Đ : Điểm
ĐC : Đối chứng
ĐHSP : Đại học sư phạm
GDTC : Giáo dục thể chất
HLV : Huấn luyện viên
N : Số người
STN : Sau thực nghiệm
STT : Số thứ tự
TD : Thể dục
TDTT : Thể dục thể thao
TĐC : Tốc độ cao
TN : Thực nghiệm
TT : Thể thao
TTN : Trước thực nghiệm
THPT : Trung học phổ thông
VĐV : Vận động viên
XPC : Xuất phát cao
XPT : Xuất phát thấp
Trang
1
3
1.1. Những quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác GDTC trong
trường học 3
1.2. Mục tiêu, nhiệm vụ và vai trò của GDTC trong trường học 4
1.2.1. Mục tiêu của giáo dục thể chất trong trường học 4
1.2.2. Nhiệm vụ của giáo dục thể chất trong trường học 5
1.2.3. Vai trò của giáo dục thể chất trong trường học 5
1.3. Nội dung và các giai đoạn huấn luyện điền kinh 6
1.3.1. Nội dung huấn luyện điền kinh 6
1.3.2. Các giai đoạn huấn luyện điền kinh 6
1.4. Sức nhanh và các biểu hiện của sức nhanh. 10
1.4.1 Đặc điểm sức nhanh 10
1.4.2. Cơ sở sinh lí, sinh hóa của sức nhanh 12
1.5. Phương pháp rèn luyện sức nhanh 13
1.5.1. Phương pháp rèn luyện sức nhanh phản ứng vận động đơn giản 13
1.5.2. Phương pháp rèn luyện sức nhanh phản ứng phức tạp 14
1.5.3. Phương pháp rèn luyện sức nhanh tần số động tác 15
1.5.4. Mối quan hệ giữa các tố chất thể lực trong việc nâng cao thành tích
chạy 100m 15
1.6. Đặc điểm tâm sinh lí của học sinh THPT 19
1.6.1. Đặc điểm tâm lí của học sinh THPT 19
1.6.2. Đặc điểm sinh lí của học sinh THPT 20
.
22
2.1. Nhiệm vụ nghiên cứu 22
2.2. Phương pháp nghiên cứu. 22
2.2.1. Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu 22
2.2.2. Phương pháp phỏng vấn 23
2.2.3. Phương pháp quan sát sư phạm 23
2.2.4. Phương pháp kiểm tra sư phạm 24
2.2.5. Phương pháp thực nghiệm sư phạm 24
2.2.6. Phương pháp toán học thống kê 25
2.3. Tổ chức nghiên cứu 26
2.3.1. Thời gian nghiên cứu 26
2.3.2. Địa điểm nghiên cứu 26
2.3.3. Đối tượng nghiên cứu 26
27
3.1. Đánh giá thực trạng công tác GDTC và sự phát triển sức nhanh trong
chạy 100m của nữ đội tuyển điền kinh trường THPT Kim Anh -
Sóc Sơn - Hà Nội. 27
3.1.1. Thực trạng công tác GDTC trường THPT Kim Anh - Sóc Sơn - Hà Nội 27
3.1.2. Thực trạng đội ngũ giáo viên TDTT trường THPT Kim Anh - Sóc Sơn -
Hà Nội 28
3.1.3. Thực trạng cơ sở vật chất phục vụ công tác GDTC 28
3.1.4. Đánh giá thực trạng sử dụng bài tập phát triển sức nhanh của nữ đội
tuyển điền kinh trường THPT Kim Anh - Sóc Sơn - Hà Nội 29
3.1.5. Thành tích thi đấu của nữ đội tuyển Ðiền kinh trường THPT Kim Anh -
Sóc Sơn - Hà Nội trong những năm gần đây 30
3.2. Lựa chọn, ứng dụng và đánh giá hiệu quả bài tập phát triển sức nhanh
nâng cao thành tích chạy 100m cho nữ đội tuyển điền kinh trường
THPT Kim Anh - Sóc Sơn - Hà Nội 31
3.2.1. Lựa chọn bài tập phát triển sức nhanh nâng cao thành tích chạy 100m cho nữ
đội tuyển điền kinh trường THPT Kim Anh - Sóc Sơn - Hà Nội 31
3.2.2. Ứng dụng và đánh giá hiệu quả bài tập phát triển sức nhanh trong chạy
100m cho nữ đội tuyển trường THPT Kim Anh - Sóc Sơn - Hà Nội 35
43
Trang
Bảng 3.1
Thực trạng đội ngũ giáo viên TDTT trường THPT Kim
Anh - Sóc Sơn - Hà Nội
28
Bảng 3.2
Thực trạng cơ sở vật chất phục vụ cho công tác GDTC
29
Bảng 3.3
Bài tập phát triển sức nhanh chạy 100m đang được
trường THPT Kim Anh - Sóc Sơn - Hà Nội áp dụng
29
Bảng 3.4
Kết quả phỏng vấn lựa chọn bài tập phát triển sức nhanh
(n=20)
32
Bảng 3.5
Kết quả phỏng vấn lựa chọn các test đánh giá sức nhanh
chạy 100m cho nữ đội tuyển điền kinh (n=20)
34
Bảng 3.6
Kết quả các test kiểm tra trước thực nghiệm của 2 nhóm
( = =8)
35
Bảng 3.7
Tiến trình thực nghiệm
37
Bảng 3.8
Kết quả các test kiểm tra sau thực nghiệm của 2 nhóm
( = =8)
38
Bảng 3.9
Kết quả test kiểm tra trước và sau thực nghiệm của nhóm
đối chứng
39
Bảng 3.10
Kết quả test kiểm tra trước và sau thực nghiệm của nhóm
thực nghiệm
39
Biểu đồ 3.1
Biểu diễn kết quả chạy 60m XPT TTN và STN(S)
40
Biểu đố 3.2
Biểu diễn kết quả chạy 30m TĐC TTN và STN(S)
41
Biểu đồ 3.4
Biểu diễn kết quả chạy 100m XPT TTN và STN(S)
41
1
Trong những năm qua dưới ánh sáng của nghị quyết trung ương Đảng
khóa VII nền kinh tế nước ta đã có bước phát triển mạnh mẽ theo cơ chế thị
trường định hướng XHCN có sự quản lí của nhà nước. Mở rộng giao lưu và
hợp tác với nước ngoài trong mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội.
Đời sống nhân dân ta đã được ổn định và ngày càng được nâng cao cả về vật
chất lẫn tinh thần.
Hòa chung với sự phát triển về mọi mặt của đất nước, nền TDTT nước ta
cũng không ngừng phát triển và khẳng định được vị thế trong khu vực. Ngày
nay với sự phát triển như vũ bão của các ngành khoa học, như khoa học tự
nhiên, khoa học xã hội, thì khoa học thể dục thể thao cũng phát triển rực rỡ
thành tích của các môn thể thao cũng ngày càng phát triển các kỉ lục được
thiết lập và phá vỡ thay thế bằng kỉ lục mới với thành tích nhanh hơn, cao hơn
và xa hơn.
TDTT có vai trò quan trọng trong giáo dục, bởi nó là hoạt động có tác
dụng nhiều mặt tới thể chất và tinh thần của con người. Nhận thức rõ được tầm
quan trọng của TDTT, trong những năm gần đây Đảng và Nhà nước ta luôn
quan tâm đến phong trào TDTT như: Đầu tư trang thiết bị, dụng cụ tập luyện
và thi đấu thể thao. Thành lập và huấn luyện các đội tuyển nhằm phát triển thể
thao thành tích cao. Dưới sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, hầu hết các môn
thể thao đã được đưa vào các trường từ cấp phổ thông đến bậc đại học với nội
dung và hình thức phong phú, đa dạng như: Bóng chuyền, Bóng rổ, Cầu lông,
Điền kinh, Thể dục. Trong đó, Điền kinh là môn thể thao có tác dụng phát triển
các tố chất thể lực cho con người như: Sức nhanh, sức mạnh, sức bền, khả năng
phối hợp vận động; giáo dục năng lực thực hành, ý thức kỷ luật, tính tự giác
tích cực và ý chí vươn lên cho người học. Ngoài ra, môn điền kinh còn là một
2
nội dung cơ bản không thể thiếu của hầu hết các chương trình giảng dạy của
các trường phổ thông, trung cấp, cao đẳng và đại học.
Trong môn điền kinh, chạy 100m là môn được nhà trường đặc biệt
quan tâm. Tập luyện và thi đấu chạy 100m đòi hỏi vận động viên phải hội tụ
đầy đủ các tố chất thể lực và khả năng phối hợp vận động. Trong đó, việc phát
triển sức nhanh là rất quan trọng và là khâu then chốt vì nó ảnh hưởng trực
tiếp đến thành tích môn chạy 100m. Qua quá trình theo dõi, tìm hiểu về quá
trình học tập và tập luyện của các em nữ đội tuyển điền kinh trường THPT
Kim Anh - Sóc Sơn - Hà Nội, tôi thấy hiệu quả chưa được cao, đặc biệt là sức
nhanh trong chạy 100m.
Trong quá trình nghiên cứu tài liệu chúng tôi được biết môn chạy 100m
đã có một số tác giả nghiên cứu như: Nguyễn Thị Mến(K33) khóa luận tốt
nghiệp năm 2011, Lê Thị Kim Thuý(K36) khóa luận tốt nghiệp năm 2014,
Lâm Đức Thuận(K33) Khoa GDTC Trường ĐHSP Hà Nội 2… Tuy nhiên,
chưa có tác giả nào nghiên cứu sức nhanh nhằm nâng cao thành tích chạy
100m cho nữ đội tuyển điền kinh Trường THPT Kim Anh - Sóc Sơn - Hà
Nội. Xuất phát từ những lý do trên chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
- -
Lựa chọn được bài tập phát triển sức nhanh nâng cao thành tích chạy
100m cho nữ đội tuyển điền kinh trường THPT Kim Anh - Sóc Sơn - Hà Nội
để ứng dụng vào giảng dạy và góp phần nâng cao thành tích chạy 100m.
Nếu đề tài nghiên cứu về lựa chọn bài tập phát triển sức nhanh nâng
cao thành tích chạy 100m cho nữ đội tuyển trường THPT Kim Anh - Sóc Sơn
- Hà Nội thành công thì sẽ giúp cho nữ đội tuyển điền kinh trường THPT Kim
Anh - Sóc Sơn - Hà Nội đạt thành tích cao trong tập luyện và thi đấu các giải
trong và ngoài trường.
3
1.1.
Ngay từ những ngày đầu thành lập nước Bác Hồ đã phát động lời kêu
gọi toàn dân tập thể dục. Bác luôn cho rằng việc rèn luyện TDTT là rất cần
thiết đối với mọi người dân và đặc biệt là lực lượng vũ trang. Bác đã nói:
“ Mỗi một người dân yếu ớt là làm cho cả nước yếu ớt một phần, mỗi người
dân khỏe mạnh là góp phần làm cả nước khỏe mạnh. Vậy nên tập thể dục bồi
dưỡng sức khỏe là bổn phận của mỗi người dân yêu nước”. Lời kêu gọi của
Bác đã được toàn Đảng, toàn dân hưởng ứng và thực hiện. Các hoạt động thể
thao được phát triển mạnh mẽ cả về chiều sâu và chiều rộng.
Thấy rõ được những lợi ích to lớn mà việc rèn luyện TDTT mang lại
nên trong hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992
tại điều 41 đã quy định: “Nhà nước thống nhất quản lí sự nghiệp phát triển
thể dục thể thao, quy định chế độ giáo dục thể chất bắt buộc trong trường
học, khuyến khích và giúp đỡ phát triển các hình thức thể dục thể thao tự
nguyện của nhân dân, tạo điều kiện để không ngừng mở rộng các hoạt động
thể dục thể thao chuyên nghiệp, bồi dưỡng các tài năng thể thao”.
Chỉ thị 36/CT/TW ngày 24/3/1994 của Ban Bí thư Trung ương Đảng
(khóa VII) giao trách nhiệm cho Bộ Giáo dục - Đào tạo và Tổng cục TDTT
thường xuyên phối hợp chỉ đạo tổng kết công tác GDTC, cải tiến chương
trình giảng dạy, tiêu chuẩn rèn luyện thân thể đào tạo giáo viên TDTT cho
trường học các cấp, tạo những điều kiện cần thiết về cơ sở vật chất để thực
hiện chế độ GDTC bắt buộc ở tất cả các trường học, làm cho việc tập luyện
4
TDTT trở thành nếp sống hang ngày của hầu hết học sinh, sinh viên, qua đó
phát hiện và tuyển chọn được nhiều tài năng thể thao cho quốc gia.
Luật Giáo dục được Quốc hội khóa IX Nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam thông qua ngày 2/12/1998 và pháp lệnh TDTT được Ủy ban
Thường vụ Quốc hội thông qua tháng 9/2000 quy định:“Nhà nước coi trọng
TDTT trong trường học nhằm phát triển và hoàn thiện thể chất cho tầng lớp
thanh niên nhi đồng. GDTC là nội dung giáo dục bắt buộc đối với học sinh,
sinh viên được thực hiện trong hệ thống giáo dục quốc dân từ mầm non đến
đại học. TDTT trường học bao gồm việc tiến hành chương trình GDTC bắt
buộc và tổ chức TDTT ngoại khóa cho người học. Nhà nước khuyến khích và
tạo điều kiện cho học sinh được tập TDTT phù hợp với đặc điểm lứa tuổi và
điều kiện từng nơi. GDTC là một bộ phận quan trọng để thực hiện mục tiêu
giáo dục toàn diện, góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa”.
Nhằm thực hiện được mục tiêu của nền giáo dục quốc dân thì GDTC
trong trường học có mục tiêu chính là giúp người học nắm vững kiến thức, kỹ
năng vận động cơ bản, nâng cao ý thức và năng lực TDTT của học sinh. Hình
thành phẩm chất đạo đức tốt góp phần phát triển hài hòa về thể chất và nhân
cách cho người học. Tránh xa các tệ nạn xã hội và bồi dưỡng tài năng thể thao
cho đất nước. Hình thành và phát triển con người mới, con người XHCN, sẵn
sàng tham gia chiến đấu, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
5
Để đạt được mục tiêu của nền giáo dục nước nhà thì giáo dục thể chất
trong trường học phải thực hiện những nhiệm vụ sau:
Phát triển cân đối hình thái và chức năng cơ thể người học theo lứa
tuổi, trình độ vận động, phát triển toàn diện năng lực thể chất, tăng cường sức
khỏe và khả năng chống đỡ lại các tác nhân có hại của môi trường bên ngoài
với cơ thể.
Hình thành và hoàn thiện cho người học những kỹ năng, kỹ xảo vận
động trong cuộc sống và ứng dụng vào các môn thể thao cơ bản, đồng thời
trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản về sử dụng phương tiện và
phương pháp tập luyện thể thao.
Hình thành cho người học những thói quen giữ gìn vệ sinh, rèn luyện
thân thể thường xuyên, giáo dục phẩm chất đạo đức, ý chí, tính tập thể, tinh
thần đoàn kết, ý thức tổ chức kỉ luật….
Mục tiêu của nền giáo dục nước ta đặt ra phải đào tạo ra những con
người phát triển toàn diện về các mặt: đức, trí, thể, mỹ. Nên bên cạnh công tác
giáo dục văn hóa thì GDTC cũng chiếm một vị trí quan trọng. Nó là một tiền
đề giúp người học có đủ sức khỏe, tinh thần thoải mái, sảng khoái để tiếp thu
kiến thức của các môn khác.
GDTC trường học là cơ sở, nền tảng của TDTT quốc dân. Đây là một
chiến lược quan trọng và có tác dụng lâu dài vì lực lượng học sinh, sinh viên
là lực lượng rất đông đảo và nhiệt tình trong việc tham gia tập luyện TDTT.
Phong trào TDTT trong học sinh, sinh viên phát triển sẽ kéo theo phong trào
thể thao quần chúng phát triển và đây cũng là cơ sở để tuyển chọn, bồi dưỡng
các tài năng thể thao tiến đến thể thao thành tích cao.
6
GDTC trong trường học làm phong phú đời sống văn hóa, tinh thần của
người học. Nó là cầu nối để người học giao lưu, học hỏi, đoàn kết lại với
nhau. Nó khích lệ lòng tự tin, dũng cảm của bản thân người học có khát khao
khẳng định bản thân mình.
GDTC trong trường học là yếu tố cơ bản để chuẩn bị cho lao động sản
xuất và sẵn sàng bảo về tổ quốc. Vì kết quả hoạt động GDTC nên trình độ
hoạt động thể lực của người học sẽ được nâng cao. Đó là cơ sở để tiếp thu các
thao tác lao động và giải quyết các nhiệm vụ mà thực tiễn đòi hỏi người lao
động và giải quyết các kỹ xảo vận động hoàn thiện. GDTC còn giúp các em
rèn luyện ý chí, tinh thần vượt khó, lòng tự tôn dân tộc, từ đó sẵn sàng tham
gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nội dung huấn luyện thể thao nói chung và điền kinh nói riêng là quá
trình huấn luyện về các mặt: Thể lực, kỹ - chiến thuật, đạo đức, ý chí, tâm lý
và lý luận. Tất cả các mặt này đều có mối liên quan chặt chẽ với nhau và tạo
thành một quá trình thống nhất của việc hoàn thiện thể thao cho vận động
viên điền kinh. Quá trình này được thực hiện thông qua việc sử dụng các
phương tiện, phương pháp huấn luyện chung, huấn luyện chuyên môn và các
hình thức khác nhau của lượng vận động trong tập luyện và thi đấu.
Trong quá trình huấn luyện điền kinh nói chung và huấn luyện chạy cự
ly ngắn nói riêng đều có 4 giai đoạn:
+ Giai đoạn huấn luyện ban đầu.
+ Giai đoạn chuyên môn hóa ban đầu.
+ Giai đoạn chuyên môn hóa sâu.
+ Giai đoạn hoàn thiện thể thao.
7
Mỗi giai đoạn đảm bảo các chức năng và nhiệm vụ riêng đáp ứng với
nhu cầu và mục đích huấn luyện cho vận động viên.
Nhiệm vụ chủ yếu của giai đoạn này là phát triển thể lực toàn diện của
các em, dạy cho các em những bài tập khác nhau, gây cho chúng sự ham thích
thể thao đặc biệt là điền kinh.
Trong giai đoạn huấn luyện này phương pháp trò chơi chiếm ưu thế vì
nó không chỉ dùng để phát triển tốc độ mà còn để tăng cường sức mạnh, khả
năng phối hợp vận động và sức bền. Trong giai đoạn huấn luyện ban đầu còn
có các bài tập nhằm phát triển tổng hợp các tố chất thể lực của vận động viên.
Kết thúc giai đoạn huấn luyện ban đầu, những em có chỉ số kiểm tra tốt sẽ
được chuyển tiếp vào giai đoạn tiếp theo.
Nhiệm vụ chủ yếu của giai đoạn này là: huấn luyện thể thao toàn diện,
nâng cao mức độ chịu đựng chung của cơ thể, tạo được vốn kỹ năng của vận
động, tăng tri thức để hình thành những nền tảng ban đầu của tài năng thể thao.
Đặc điểm của giai đoạn này là sử dụng rộng rãi các phương pháp,
phương tiện huấn luyện, song có tính tới đặc thù của chạy ngắn.
Để huấn luyện tốc độ ở giai đoạn này không nên cho các em chạy với
tốc độ cực đại quá nhiều. Tập chạy trong các điều kiện khó khăn (chạy trên
bậc cầu thang, chạy trên dốc, chạy trên cát) luân phiên với chạy trong điều
kiện bình thường. Cần nhớ rằng điều quan trọng khi huấn luyện sức nhanh là
tình trạng hưng phấn tối ưu của hệ thần kinh trung ương, khi mà vận động
viên chưa bị mệt mỏi bởi những hoạt động trước đó. Vì vậy, các hoạt động
tốc độ cần được áp dụng ngay sau phần khởi động.
Để huấn luyện tốc độ có thể sử dụng các môn bóng (bóng đá, bóng rổ,
bóng ném) đòi hỏi phải sử dụng sức nhanh trong các tình huống thay đổi.
8
Trong những năm chuyên môn hóa ban đầu cần đặc biệt thận trọng tuân thủ
giới hạn cường độ của lượng vận động vì lúc này là lúc cơ thể các em đang
phát triển.
Đặc điểm của giai đoạn này là tính chuyên môn hóa được thể hiện rõ
hơn. Tỷ trọng huấn luyện chuyên môn về thể lực, kỹ thuật, tâm lý được tăng
lên đáng kể. Khối lượng và cường độ của các phương tiện huấn luyện chủ yếu
tăng nhiều so với giai đoạn trước. Với mục đích hoàn thiện trình độ huấn
luyện về thể lực, kĩ thuật của vận động viên chạy ngắn, vẫn nên đa dạng hóa
các phương tiện huấn luyện và tỉ trọng tích hợp, đa dạng hóa điều kiện thực
hiện chúng và vị trí tiến hành tập luyện. Đây là giai đoạn vận động viên tập
luyện thể thao tích cực nhất đồng thời bộc lộ khả năng thể thao và đạt trình độ
điêu luyện về thể thao. Trong quá trình tập luyện thể hiện rõ đặc điểm của
chuyên môn hóa sâu như : thể lực, kỹ - chiến thuật, tâm lý cũng như được
nâng lên đáng kể nhờ tăng khối lượng đào tạo chung và cả khối lượng các bài
tập đào tạo chuyên môn cũng như các bài tập thi đấu. Tổng khối lượng và
cường độ tăng nhiều hơn so với giai đoạn trước, khối lượng các cuộc kiểm tra
thi đấu cũng tăng lên rõ rệt và trở thành nội dung không thể thiếu được trong
kế hoạch huấn luyện. Hệ thống tập luyện và thi đấu ngày càng trở nên cá biệt
hóa, đào tạo thể thao phần lớn gắn liền với thành tích thể thao. Do đó, đòi hỏi
vận động viên phải dành nhiêu thời gian và công sức, dồn nhiều tâm trí để tập
luyện và thực hiện chế độ sinh hoạt phù hợp, có kế hoạch để đạt được thành
tích cao nhất.
Ở giai đoạn này lượng vận động trong huấn luyện tương ứng với thi
đấu càng lớn và việc tuân thủ theo nguyên tắc thích hợp càng nghiêm ngặt thì
9
thành tích càng cao. Vì vậy, cần đặc biệt thận trọng đến mối quan hệ giữa
khối lượng và cường độ của lượng vận động trong huấn luyện.
Việc huấn luyện chạy ngắn đẳng cấp cao khác với huấn luyện cấp thấp
hơn cả về nhiệm vụ, nội dung và sự phân chia lượng vận động. Khi bắt đầu
lập kế hoạch huấn luyện cần phân tích và làm rõ những mặt mạnh, mặt yếu
trong thi đấu của vận động viên, những khâu còn yếu trong huấn luyện thể lực
và kĩ thuật, lượng vận động khác nhau của chu kì năm.
Tất cả những tài liệu này cho phép huấn luyện viên lực chọn thận trọng
hơn các phương tiện huấn luyện (để sửa chữa những khuyết điểm) khối lượng
và cường độ trong chu kì huấn luyện nhiều năm. Qua nghiên cứu các nhà lý
luận chuyên nghành điền kinh khẳng định rằng: Giai đoạn huấn luyện ban đầu
là giai đoạn làm cơ sở, nền tảng và giai đoạn chuyên môn hóa ban đầu là giai
đoạn huấn luyện cơ bản trong quá trình huấn luyện. Bởi vì giai đoạn huấn
luyện ban đầu là huấn luyện kỹ năng khéo léo phối hợp động tác phát triển sức
nhanh, năm được kỹ thuật sơ bộ, còn giai đoạn chuyên môn hóa ban đầu là
giảng dạy kỹ thuật phát triển sức mạnh của động tác và tốc độ chạy, tăng sức
mạnh tốc độ. Tăng cường sức khỏe và rèn luyện sự bền bỉ dẻo dai của cơ thể.
Trong chạy 100m yêu cầu có các tố chất sức nhanh, sức mạnh tốc độ,
sức bền tốc độ. Trong đó, sức nhanh đóng vai trò quyết định đối với thành
tích chạy cự li 100m, các tố chất này có mối quan hệ hữu cơ với nhau, tố chất
này củng cố cho tố chất kia phát triển. Nếu như thiếu đi một trong ba yếu tố
trên thì ảnh hưởng không nhỏ đến việc nâng cao thành tích chạy 100m.
+ Tố chất sức nhanh giúp đạt được tốc độ trong khi chạy.
+ Tố chất sức mạnh tốc độ giúp cho mỗi bước chạy có lực đạp ở chân
sau, tăng khả năng thực hiện động tác hiệu quả.
+ Tố chất sức bền tốc độ giúp duy trì được tốc độ trên toàn cự li chạy
100m.
10
Sức nhanh là khả năng thực hiện động tác trong thời gian ngắn nhất ở
một điều kiện nhất định. Người ta phân biệt ba hình thức biểu hiện sức nhanh
như sau:
+ Thời gian tiềm tàng của phản ứng vận động.
+ Tốc độ động tác.
+ Tần số động tác.
Các hình thức đơn giản của sức nhanh tương đối độc lập với nhau. Đặc
biệt những chỉ số về thời gian phản ứng vận động hầu như không tương quan
với tốc độ động tác. Những hình thức kể trên là thể hiện các năng lực tốc độ
khác nhau.Trong thực tiễn thì sức nhanh được biểu hiện tổng hợp.Thí dụ:
thành tích chạy ngắn phụ thuộc vào thời gian phản ứng vận động, tốc độ động
tác đơn và tần số bước chạy. Trong động tác có sự phối hợp phức tạp thì tốc
độ không chỉ phụ thuộc vào sức nhanh mà còn phụ thuộc vào nhiều nhân tố
khác.Thí dụ: trong chạy thì tốc độ phụ thuộc vào độ dài bước chạy và tần số
của bước, còn bước chạy lại phụ thuộc vào độ dài chi dưới và lúc đạp sau. Vì
vậy, tốc độ động tác hoàn chỉnh biểu hiện gián tiếp sức nhanh của con người
cho nên trong khi phân tích đánh giá sức nhanh của con người phải căn cứ
vào mức độ phát triển của từng hình thức đơn giản của nó.
Sức nhanh là một tố chất thể lực để tiến hành các hành vi vận động
trong thời gian ngắn nhất trong các điều kiện quy định.
Sức nhanh động tác là một trong những cơ sở quyết định thành tích
trong nhiều môn thể thao có chu kì.
Trong các môn thể thao có chu kì, sức nhanh động tác cũng đặc biệt
quan trọng đối với toàn bộ hoặc đối với các tình huống từng phần trong các
11
môn chạy cự li ngắn, cũng như trong giai đoạn tăng tốc và xuất phát trong đua
thuyền, đua ca nô và bơi.
Các tiền đề quan trọng cho sức nhanh là tính linh hoạt của các quá trình
thần kinh, sức mạnh - nhanh, khả năng kéo căng kéo giãn, tính đàn hồi và khả
năng thả lỏng của các cơ, ý chí tinh thần và cơ chế sinh hóa.
Chỉ khi nào thay đổi một cách nhanh nhất giữa hưng phấn và ức chế
trong những sự điều hòa tương ứng của hệ thần kinh cơ, kết hợp dùng lực tốt
nhất thì mới có thể đạt được một tốc độ động tác cao và tần số động tác tối đa.
Là tỉ lệ sức mạnh - nhanh, trong sức nhanh phản ứng đặc biệt trong sự
tăng tốc cao, lúc xuất phát và khả năng nhanh chóng đạt tốc độ cao, như trong
chạy cự li ngắn, đua xe đạp cự li ngắn, đua thuyền, đua ca nô và trong phần
lớn các môn bóng. Về phương diện sinh hóa sức nhanh phụ thuộc một cách
đặc biệt vào các nguồn dự trữ năng lượng trong cơ và mức độ của sự huy
động năng lượng hóa học ở dạng yếm khí.
Khả năng kéo dãn, tính đàn hồi và khả năng thả lỏng của cơ hoạt động
thay đổi nhau trong các bài tập sức nhanh. Nếu các tính chất này không được
phát triển đầy đủ thì không thể đạt được biên độ động tác cần thiết và các cơ
đồng vận phải khắc phục một lực cản rất lớn trong quá trình thực hiện động
tác đặc biệt ở những điểm tiếp của động tác. Do đó, các bài tập kéo dãn và thả
lỏng phải luôn luôn là thành phần của huấn luyện nhằm phát triển sức nhanh.
Việc đạt được sức nhanh cao nhất phụ thuộc một cách quyết định vào
sự nỗ lực của ý chí. Bởi vì trong huấn luyện cự li ngắn không có một sự bắt
buộc bên ngoài nào trực tiếp tác dụng lên vận động viên, như khi nâng một
12
quả tạ nặng hoặc khi nhảy cao nên khó sử dụng sức mạnh và ý chí một cách
tối đa. Dó đó, đòi hỏi phải đạt được những thành tích lớn về mặt ý chí thông
qua các yêu cầu cao trong huấn luyện, trong đó một điều kiện không thể thiếu
được là thông báo tốc độ đạt được bằng sự đo chính xác về thời gian. Điền
này được tiến hành tốt nhất trong huấn luyện thi đấu với đối phương.
Như vậy, sức nhanh phụ thuộc chủ yếu vào tính linh hoạt của quá trình
thần kinh cơ và tốc độ co cơ. Cả hai nhóm mặc dù biến đổi dưới tác dụng của
tập luyện nhưng nói chung đều là những yếu tố được quy định với các đặc
điểm di truyền do đó trong quá trình tập luyện, sức nhanh biến đổi chậm và ít
hơn sức mạnh và sức bền.
Thời gian của phản ứng vận động gồm 5 giai đoạn:
1. Xuất hiện hưng phấn trong cơ quan cảm thụ.
2. Dẫn truyền hưng phấn vào hệ thần kinh trung ương.
3. Truyền tín hiệu trong tổ chức lưới và hình thành tín hiệu ly tâm.
4. Truyền tín hiệu từ thần kinh trung ương tới cơ.
5. Hưng phấn cơ và hoạt động đáp trả.
Trong giai đoạn thứ ba chiếm nhiều thời gian nhất. Những hoạt động
tác được thực hiện với tốc độ tối đa khác hẳn với động tác chậm về đặc điểm
sinh lý. Sự khác biệt cơ bản thể hiện ở chỗ: Khi thực hiện với tốc độ tối đa thì
khả năng điều chỉnh bằng cảm giác trong tiến hành thực hiện động tác sẽ gặp
khó khăn. Do đó, với tốc độ cao khó có thể thực hiện động tác thật chính xác.
Các động tác rất nhanh và được thực hiện với tần số cao, thí dụ trong
chạy cự li ngắn, cơ chỉ hoạt động tích cực ở những điểm cuối cùng của biên
độ động tác . Động năng được truyền cho một bộ phận nào đó của cơ thể, sau
đó bị triệt tiêu khi các cơ đối kháng tham gia hoạt động và truyền cho bộ phận
này một gia tốc theo hướng ngược lại. Trong động tác tốc độ lớn, hoạt tính
13
của cơ diễn ra trong thời gian ngắn đến mức cơ không kịp co lại nhiều và thực
tế cơ hoạt động theo chế độ đẳng trường.
Tần số động tác phụ thuộc vào tính linh hoạt của 2 quá trình thần kinh
hưng phấn và ức chế được chi phối bởi 3 yếu tố: cường độ, độ cân bằng và độ
linh hoạt. Một yếu tố cũng cần được chúng ta để ý là tính chất bẩm sinh.
Những ai trong thành phần cơ có nhiều sợi cơ trắng thì phát triển sức nhanh.
Những ai trong thành phần cơ có nhiều sợi cơ đỏ thì phát triển sức mạnh.
Do đó, cơ sở sinh lý phát triển sức nhanh là tăng cường độ linh hoạt và
tốc độ dẫn truyền hưng phấn ở trung tâm thần kinh và bộ máy vận động tăng
cường sự phối hợp giữa các sợi cơ và các cơ, nâng cao khả năng thả lỏng.
Theo quan điểm sinh hóa, sức nhanh phụ thuộc vào hàm lượng ATP trong
cơ và tốc độ phân giải ATP dưới tác động của xung động thần kinh cũng như
vào tốc độ tái tổng hợp nó. Vì các bài tập tốc độ diễn ra trong thời gian rất ngắn
nên quá trình tổng hợp ATP hầu như được thực hiện theo cơ chế yếm khí. Trong
các bài tập như 100m - 200m, bơi 25m - 50m thì 90% năng lượng hoạt động của
cơ được tạo ra sự cung cấp năng lượng yếm khí. Do đó, có sự nợ dưỡng rất lớn
và thời gian trả nợ dưỡng có thể kéo dài hàng chục phút.
Phản ứng vận động đơn giản là sự đáp lại tín hiệu biết trước nhưng xuất
phát đột ngột bằng động tác định trước (thí dụ: phản ứng với tiếng sung lệnh
trong xuất phát). Sức nhanh phản ứng vận động có ý nghĩa thực dụng rất lớn.
Trong cuộc sống, ta thường gặp phải những trường hợp đòi hỏi đáp lại tín
hiệu nào đó trong khoảng thời gian ngắn nhất. Sức nhanh phản ứng vận động
có khả năng “chuyển” rất cao: những người có khả năng phản ứng nhanh
trong tình huống này thì càng dễ có phản ứng nhanh trong tình huống khác.
14
Phương pháp phổ biến nhất trong rèn luyện sức nhanh phản ứng vận
động đơn giản là tập lặp lại với các tín hiệu xuất hiện đột ngột như: tiếng còi,
tiếng súng, với những người mới tập phương pháp lặp lại nhanh chóng đem
lại kết quả tốt.
Trong trường hợp sức nhanh phản ứng giữ vai trò quan trọng người ta
phải sử dụng tới các phương pháp chuyên môn để hoàn thiện nó. Một trong số
phương pháp chuyên môn rèn luyện sức nhanh phản ứng vận động đơn giản
thường áp dụng trong thực tiễn là phương pháp phân tích. Bản chất của
phương pháp này là tách biệt việc hoàn thiện phản ứng với phần nâng cao tốc
độ của động tác tiếp theo.
Như vậy, bài tập sức nhanh phản ứng vận động đơn giản bao gồm 2
phần: tập phản ứng trong điều kiện thuận lợi và tạp tốc độ động tác theo
phương pháp cảm giác vận động do Gelerstein đề xuất năm 1958 để hoàn
thiện phản ứng vận động đơn giản. Phương pháp này dựa trên mối liên quan
chặt chẽ giữa sức nhanh phản ứng và năng lực phân biệt những khoảng thời
gian ngắn. Thông thường những người có khả năng cảm giác tốt và khoảng
thời gian ngắn thì sẽ có sức nhanh phản ứng cao.
Phản ứng vận động phức tạp thường gặp trong thể thao gồm có 2 loại:
phản ứng đối với vật thể di động và phản ứng lựa chọn. Phản ứng đối với vật
thể di động thường gặp trong các môn bóng và các môn đối kháng cá nhân,
phản ứng với vật thể di động thường kéo dài từ 0,25 - 1 giây. Bài tập phản
ứng đối với vật thể di động yêu cầu tập luyện được gia tăng thông qua tốc độ
vật thể tăng tính bất ngờ và rút ngắn cự li. Trò chơi vận động với bóng có tác
dụng rất tốt trong rèn luyện sức nhanh đối với vật thể di động. Trong khi tiến
hành giáo dục phản ứng vận động phức tạp cần phải đảm bảo nguyên tắc từ
15
đơn giản tới phức tạp và tiến hành theo cách tăng dần số lượng biến đổi tình
huống có thể xảy ra.
Mặc dù phụ thuộc vào nhiều nhân tố nhưng tốc độ tối đa phụ thuộc chủ
yếu vào tính linh hoạt của quá trình thần kinh. Suy rộng ra thì tốc độ chủ yếu
phụ thuộc vào tần số động tác. Như vậy, bản chất của rèn luyện tốc độ là tác
động nâng cao tần số động tác. Phương tiện rèn luyện sức nhanh tần số là các
bài tập, các bài tập này thỏa mãn 3 yêu cầu:
+ Kỹ thuật động tác cho phép thực hiện với tốc độ giới hạn.
+ Kỹ thuật bài tập đã được tiếp thu tới mức kĩ xảo.
+ Thời gian bài tập tương đối ngắn (không quá 20 - 22 giây) để tốc độ
không bị giảm sút ở cuối cự li.
Về nguyên tắc, cần tạo điều kiện phát huy tần số động tác tối đa. Các
thành phần lượng vận động và quãng nghỉ trong các phương pháp rèn luyện
tốc độ đều phải hướng tới tần số tối đa.
Như vậy, để giáo dục phát triển sức nhanh một cách hoàn chỉnh thì cần
đưa vào các nội dung bài tập phong phú đa dạng và đảm bảo tính khoa học
toàn diện trên cơ sở lí luận, tâm sinh lí lứa tuổi.
Giáo dục sức nhanh trong chạy cự li ngắn nói chung và trong chạy
100m nói riêng có ý nghĩa và tầm quan trọng to lớn. Trong quá trình tập luyện
và thi đấu muốn đạt được thành tích cao ở chạy cự li ngắn thì yếu tố hang đầu
là họ phải được huấn luyện sức nhanh. Tuy nhiên, trong quá trình huấn luyện
nhằm nâng cao thành tích chạy 100m, chúng ta không chỉ quan tâm đến việc
huấn luyện các tố chất sức nhanh mà ta còn phải chú ý đến việc huấn luyện
16
các tố chất thể lực khác. Một trong các tố chất có liên quan đến thành tích
chạy 100m là tố chất sức mạnh.
Thông thường khi phát huy tốc độ cao nhất, con người phải khắc phục
lực cản bên ngoài khá lớn và tốc độ đạt được là nhờ vào sức mạnh cơ bắp.
Trong vùng trọng lượng vật thể lớn thì tốc độ sức mạnh của con người tăng
lên sẽ làm tốc độ động tác tăng lên và ngược lại. Nếu tập luyện làm tăng tốc
độ tối đa và sức mạnh chỉ tăng trong vùng lực cản bên ngoài nhỏ, còn nếu lực
cản bên ngoài tương đối lớn thì thực tế sẽ không ảnh hưởng nhiều đến tốc độ
động tác. Chỉ có thể tăng đồng thời trị số tối đa của lực và tốc độ mới làm cho
tốc độ tăng lên trong toàn vùng lực cản bên ngoài.
Như vậy, về nguyên tắc có thể tăng tốc độ trong một động tác nào đó
bằng một trong hai cách sau:
+ Tăng tốc độ tối đa.
+ Tăng sức nhanh tối đa.
Kinh nghiệm cho thấy, nâng cao tốc độ tối đa là việc làm khó khăn,
trong khi đó nâng cao sức mạnh đơn giản hơn nhiều.Vì vậy, trong thực tiễn
người ta sử dụng rộng rãi các bài tập sức mạnh để nâng cao tốc độ. Hiệu quả
của các bài tập sức mạnh càng cao khi lượng đối kháng tập luyện càng lớn.
Trong quá trình rèn luyện sức mạnh để nâng cao tốc độ cần giải quyết
hai nhiệm vụ cơ bản sau:
+ Nâng cao sức mạnh tốc độ.
+ Rèn luyện khả năng phát huy sức mạnh lớn trong điều kiện vận động
nhanh.
Để rèn luyện khả năng nhanh chóng phát huy sức mạnh, trong trường
hợp này càng căng cơ tối đa được tạo lên bằng lượng đối kháng dưới mức
giới hạn và tốc độ lớn nhất. Trong rèn luyện sức mạnh tốc độ cần lưu ý rằng
động tác phải thực hiện với biên độ cực đại. Nếu thực hiện động tác với biên
17
độ hạn chế (có chỗ dừng) thì những mối quan hệ phối hợp bất lợi sẽ được
củng cố.
Cần phải sử dụng kết hợp các bài tập sức nhanh với các bài tập sức
mạnh đơn thuần và lấy các bài tập sức mạnh đơn thuần làm cơ sở. Nếu chỉ sử
dụng các bài tập sức mạnh tốc độ thì tốc độ tối đa sẽ không được nâng lên
một cách đáng kể bởi vì trong các động tác nhanh thời gian tác động lên hệ
thần kinh cơ ngắn, xong khi tập sức mạnh đơn thuần để phát triển tốc độ cần
lưu ý rằng trong thời gian tập sức mạnh đơn thuần, tốc độ thường tạm thời
giảm đi. Chỉ qua 2 - 6 tuần, sau khi ngừng hoặc giảm đột ngột lượng vận động
đó thì tốc độ bắt đầu tăng lên. Trong thời gian dừng bài tập sức mạnh đơn
thuần người ta sử dụng chủ yếu bài tập sức mạnh tốc độ.
Các bài tập sức mạnh chỉ ảnh hưởng tích cực tới sức nhanh khi chúng
tăng cường sức mạnh ở các động tác cần phát huy tốc độ tối đa. Trong rèn
luyện sức mạnh tốc độ cần lựa chọn lượng đối kháng lớn nhất nhưng vẫn
không làm rối loạn cấu trúc bài tập thi đấu. Có như vậy mới tác động đồng
thời tới kỹ thuật và các tố chất thể lực.
Trong các động tác thực hiện với tốc độ cao, việc điều chỉnh sai sót
trong vận động rất khó.Vì vậy, thực hiện kỹ thuật bài tập với tốc độ cao là
nhiệm vụ rất phức tạp và khó khăn. Mặt khác, giữa kỹ thuật và tốc độ tối đa
tương quan chặt chẽ với nhau. Do đó, huấn luyện kỹ thuật là một thành phần
quan trọng của rèn luyện tốc độ.
Trong thực tế người ta thường tiếp thu kỹ thuật bài tập tốc độ bằng hai cách:
+ Dạy động tác với tốc độ chậm, sau đó tăng dần tốc độ tới mức cực đại.
+ Tiếp thu kỹ thuật ngay với tốc độ cực đại.
Mỗi cách đều có lợi thế và nhược điểm riêng của nó. Trong trường hợp
đầu, động tác thực hiện với tốc độ chậm và tốc độ cao tuy giống nhau về đặc
tính không gian, nhưng khác nhau về thông số sức mạnh tốc độ. Trong trường
18
hợp thứ hai, người tập không thể cùng một lúc thực hiện hai ý muốn: đúng và
nhanh. Hơn nữa, mức độ kĩ thuật của bài tập vượt quá tiếp thu với người tập.
Nhưng cuối cùng họ không tiếp thu kỹ thuật một cách chính xác.
Để khắc phục những nhược điểm nêu trên, trong huấn luyện kỹ thuật
bài tập tốc độ cần tuân thủ 2 nhiệm vụ sau:
+ Cần tiến hành dạy học động tác ở tốc độ xấp xỉ tối đa (9/10 sức). Để
cấu trúc sức mạnh tốc độ không khác biệt so với khi thực hiện với tốc độ tối
đa, đồng thời có thể kiểm tra kỹ thuật.
+ Cần biến đổi tốc độ thực hiện động tác từ thấp tới cực đại.
Bên cạnh tố chất sức mạnh tốc độ thì tố chất sức bền, khả năng phối
hợp vận động và khả năng khéo léo cũng ảnh hưởng rất lớn tới thành tích
chạy 100m.
Tố chất sức bền đảm bảo sự duy trì khả năng vận động trong thời gian
dài của người tập, tập luyện sức bền nhằm nâng cao các cấu trúc chức năng,
chức phận, nâng cao khả năng hấp thụ oxy nên cơ thể sẽ duy trì được khả
năng hoạt động thể lực lâu dài với cường độ và công suất lớn trong quá trình
nâng cao thành tích chạy 100m.
Khả năng phối hợp vận động và khéo léo đóng vai trò quan trọng trong
việc nâng cao hiệu quả của quá trình huấn luyện. Khả năng phối hợp vận
động đảm bảo sự phối hợp nhịp nhàng của cơ thể tránh được các động tác
thừa, sự tiêu hao năng lượng không cần thiết. Mềm dẻo làm tăng biên độ tác
động, tăng khả năng thả lỏng tạo thuận lợi cho quá trình chuyển đổi từ động
tác này sang động tác khác.
Tóm lại, tốc độ tối đa mà con người có thể phát huy trong một hoạt
động nào đó phụ thuộc chủ yếu vào sức nhanh, ngoài ra còn phụ thuộc vào
nhiều nhân tố khác.Vì vậy, để có được hiệu quả cao trong quá trình rèn luyện