Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.66 KB, 2 trang )
Chùa Bà Đanh
November 17, 2014 - Chuyên mục: Văn mẫu THCS - Tác giả: Thu Huyền
Chùa Bà Đanh
Miền Bắc Việt Nam ta có câu tục ngữ “vắng như chùa bà Đanh” để ám chỉ nơi hẻo lánh ít người lui tới,
hay một cuộc vui chơi nào đố, mà rất có ít người tham dự…
Có người cẩn thận tìm xem “Chùa Bà Đanh” thuộc địa phương nào mà lại ít người lui tới? Hóa ra, ngôi
nhà ấy nằm ngay sau trường Chu Văn An bây giờ, nay thuộc quận Tây Hồ. ấy là theo tài liệu ghi chép
trong sách cũ viết về Hà Nội, chứ bây giờ ngôi chùa cũng không còn. Sách chép: “Sở dĩ chùa vắng, vì
ban đầu từ thế kỷ 12, đấy là chỗ trại giam tù binh Chiêm Thành, nên người ta ngại đi qua khu vực đó.
Sau này chỗ đó dựng lên một ngôi chùa, song vì chùa nhỏ, lại khuất nẻo, nên cũng ít người lễ bái”.
Cách giải thích này có vẻ thiếu sức thuyết phục. Sự sùng bái tín ngưỡng của người xưa đâu có kém như
bây giờ; một ngôi chùa dù nhỏ, nằm ngay ven phía Bắc thành Hà Nội, lẽ nào lại rơi vào cảnh vắng vẻ
đến trở thành điển hình trong câu tục ngữ nói trên? Nhất là, khi có người hỏi: ‘"Vậy còn tên Bà Đanh là
xuất xứ từ đâu?” Thì hình như không một nhà nghiên cứu nào đưa ra được câu trả lòi thỏa đáng.
Miền Bắc Việt Nam ta có câu tục ngữ “vắng như chùa bà Đanh”
Nỗi băn khoăn về một ngôi chùa có tên gắn với câu tục ngữ quen thuộc, mà không lý giải được căn do,
hình như cứ tạm nằm yên trong tâm trí nhiều người. Cho đến một ngày cuối xuân 1995, trong chuyên
“điền dã” của Hội Văn nghệ dân gian Hà Nội về huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam qua khảo sát thực địa,
câu hỏi kia mới có lời đáp.
Mục đích chuyến đi ấy, chúng tôi lại chỉ nhằm tìm hiểu về danh thắng “Ngũ động thì sơn” nơi có ngọn
núi nổi tiếng, có đến năm hang động trong lòng núi, mỗi hang chứa sức cả ngàn người. Tương truyền,
đây là chỗ giấu quân lý tưởng của Lý Thường Kiệt, một danh tướng của triều Lý từ thời phạt Tống.
Hiện nay, tại chân núi phía bờ sông, còn đền thờ vị danh tướng này, đền tuy nhỏ nhưng uy nghi, thơ
mộng… Điều thú vị là lần ấy, do tìm hiểu qua nhân dân địa phương, chúng tôi phát hiện tại một làng
nhỏ bên kia sông có một ngôi chùa không lớn lắm song rất đẹp. Muốn đến chùa, khách phải xuống đò
đi xuôi xuống chừng nửa cây số, chếch với đền thờ Lý Thường Kiệt. Ngôi chùa được dựng lên từ thời
Lý (thế kỷ thứ 11) do một người đàn bà giàu có trong làng cung tiến. Làng có tên là Đinh Xá, tên nôm
gọi là làng Đanh; vì vậy ngôi chùa được gọi là “Chùa Bà Đanh”. Khuôn viên của chùa tuy khiêm tốn,
nhưng nội tự rất khang trang. Đặc biệt, khác với tất cả ngôi chùa toàn miền Bắc thường có chỉ cửa
‘Tam quan” (ba cửa”, riêng chùa Bà Đanh lại có cửa “Ngũ quan (năm cửa). Còn sở dĩ “chùa vắng” vì
đây cũng là vùng bán sơn địa, không phải nơi buôn bán sầm uất, chùa lại nằm cách con sông, muốn