Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.13 KB, 2 trang )
Vương Duy với bài thơ Điểu minh giản
November 14, 2014 - Chuyên mục: Văn mẫu THPT - Tác giả: Thu Huyền
Đề bài: Vương Duy với bài thơ Điểu minh giản (Khe chim kêu)
Vương Duy (701 – 761), tự là Ma cật, quê ở đất Kì, Thái Nguyên (nay là huyện Kì, tỉnh Sơn Tây). Năm Khai Nguyên thứ 9(721),
ông đỗ đầu kì thi tiến sĩ, được làm Đại nhạc thừa (có tài liệu ghi là Thái nhạc thừa). Tuy có lần bị biếm trích nhưng nhìn chung,
quan trường của Vương Duy tương đối thông thuận. Trong những năm Thiên bảo, ông sống cuộc đời bán quan bán ẩn. Loạn An
– Sử, Huyền Tông chạy vào đất Thục, Vương Duy không đi theo kịp, bị An Lộc Sơn bắt và bị ép làm quan với nguỵ triều. Sau
khi Trường An được thu phục, Vương Duy bị định tội, nhờ có người em là Vương Tấn xin giải chức để chuộc tội cho anh nên
Vương Duy được xá tội, bị giáng làm Thái tử Trung Doãn. Năm 761, ông bị bệnh mất khi đang giữ chức Thượng thư hữu thừa.
Vương Duy là nhà thơ sùng tín Phật giáo, học đốn ngộ thiền với Đạo Quang thiền sứ, chịu ảnh hưởng sâu sắc của Thiền học Phật
giáo. Thơ ông mang đậm ý vị thiền nên người đời gọi ông là Thi Phật. Thơ Vương Duy có nội dung phong phú, ông thành công
trên nhiều đề tài nhưng thành tựu dặc biệt nổi bật là thơ sơn thuỷ. (Vương Duy và Mạnh Hạo Nhiên là đại biểu của phái thơ sơn
thuỷ thời Thịnh Đường). Thơ Vương Duy hiện còn 417 bài, với phong cách trang nhã, điêu luyện tiêu biểu cho thi phong Thịnh
Đường, thơ ông đúng là Văn tông của thời đại như lời vua Đường Đại Tông khen ngợi.
Vương Duy sành nhiều bộ môn nghệ thuật, ông chẳng những là nhà thơ kiệt xuất mà còn là nhạc sĩ, nhà thư pháp nổi tiếng và là
một danh họa của Trung Quốc. Nhà thơ nổi tiếng thời Tống là Tô Đông Pha nói rằng: Đọc thơ Ma Cật thấy trong thơ có hoạ, xem
họa Ma Cật thấy trong họa có thơ.
Điểu minh giản thể hiện được đặc trưng cơ bản của thơ Đường
ĐIỂU MINH GIẢN (Khe chim kêu)
Phiên âm:
Nhân nhàn quế hoa lạc,
Dạ tĩnh xuân sơn không.
Nguyệt xuất kỉnh sơn điều
Thời minh tại giản trung.
Dịch nghĩa:
Người thảnh thơi, họa quế rụng,
Đèn im lặng, non xuân vắng không.
Trăng lên làm chim núi giật mình,
Thỉnh thoảng cất tiếng kêu trong khe suối.
Dịch vụ:
Người nhàn hoa quế nhẹ rơi,