Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Cách đặt tên nhân vật trong truyện ngắn nam cao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (269.82 KB, 29 trang )

Nhóm 5 – Tiết 8.9.10
CÁCH ĐẶT TÊN NHÂN VẬT TRONG
TRUYỆN NGẮN CỦA NAM CAO
I. Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
1.1 Cơ sở lý luận
Ðối tượng chung của văn học là cuộc đời nhưng trong đó con
người luôn giữ vị trí trung tâm. Những sự kiện kinh tế, chính trị,
xã hội, những bức tranh thiên nhiên, những lời bình luận đều góp
phần tạo nên sự phong phú, đa dạng cho tác phẩm nhưng cái
quyết định chất lượng tác phẩm văn học chính là việc xây dựng
nhân vật. Ðọc một tác phẩm, cái đọng lại sâu sắc nhất trong tâm
hồn người đọc thường là số phận, tình cảm, cảm xúc, suy tư của
những con người được nhà văn thể hiện. Vì vậy, Tô Hoài đã có lí
khi cho rằng "Nhân vật là nơi duy nhất tập trung hết thảy, giải
quyết hết thảy trong một sáng tác".
Nhân vật là “đứa con tinh thần” của nhà văn, được nhà văn hoài
công, hoài sức “ thai nghén” . Việc đặt tên cho “đứa con tinh thần”
ấy ít nhiều đều thể hiện suy tưởng của nhà văn, thể hiện chủ đề tác
phẩm gợi ra phong cách, trào lưu văn học của thời đại. Vậy nên
yếu tố tên nhân vật là một vấn đề cần thiết nghiên cứu để tiếp cận
gần hơn với tác phẩm.
1.2 Cơ sở thực tế
1.2.1 Vị Trí của Nam cao trên văn đàn
Nam Cao (1915 – 1951) tên thật là Trần Hữu Tri, quê ở làng
Đại Hoàng, nay là xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Nam Hà.
Nam Cao bắt đầu viết từ năm 1936 ở nhiều thể loại. Ông thể
hiện rõ tài năng độc đáo và xác định chắc chắn vị trí của
mình trong nền văn học dân tộc với nhiều Tác phẩm mang
màu sắc riêng . Đó là kho tàng thuận lợi đối với quá trình
tiếp cận tác phẩm của ông.


1.2.2 Chủ đề sáng tác xuyên xuốt
Nam Cao hầu như chỉ viết về cái hằng ngày, cái đời thường,
với một cách viết khá dung dị và tự nhiên, ngòi bút của ông
1
Cách đặt tên nhân vật trong truyện ngắn của Nam Cao
Nhóm 5 – Tiết 8.9.10
đã tái hiện những cảnh đời, lột tả sự cùng khổ của con
người “dưới đáy” của xã hội , dù cho họ hiền lành chất phác,
nhưng số phận hết sức hẩm hiu, đời sống quá vất vả, cơ cực.
Điều này giúp cho việc tiếp cận tác phẩm của ông có hương
đi rõ rệt theo chủ đề.
1.2.3 Xây dựng nhân vật tài tình
Đặc biệt, trong tác phẩm của ông ta thấy được những nhân
vật hết sức gần gũi , như đang sống dậy mà người đọc
tưởng như có thể nhìn thấy họ đang đi lại, ăn uống, nói
năng, cười khóc trước mặt mình. Ông đã thể hiện cái biệt tài
của mình trong cách khắc họa nhân vật, cũng như biệt tài
gọi ra những cái tên nhân vật hết sức độc đáo như những
câu hỏi cứ xoáy sâu vào tâm trí người đọc, nhờ những cái
tên đó người đọc phần nào tiếp cận tác phẩm sâu hơn.


Từ những lý do trên, chúng tôi đã lựa chọn đề tài “ Cách đặt tên
nhân vật trong truyện ngắn của Nam Cao”.
2. Đối tượng nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên
cứu
2.2 Đối tượng nghiên cứu
Để trả lời các vấn đề lí luận, và phục vụ quá trình nghiên cứu
đề tài, chúng tôi đã tìm hiểu trong các tài liệu:
2

Cách đặt tên nhân vật trong truyện ngắn của Nam Cao
Nhóm 5 – Tiết 8.9.10

Ngoài ra:
- Các bài nhận xét, phê bình.
- Tìm hiểu các đnáh giá của các giáo sư, nhà văn có tên tuổi Hà
Minh Đức, Tô Hoài.
- Sử dụng nguồn Internet để khai thác các vấn đề liên quan.
2.3 Nhiệm vụ nghiên cứu
2.2.1. Tập hợp các vấn đề lý thuyết có liên quan đến đề tài
2.2.2. Khảo sát, thống kê, phân loại các cách đặt tên nhân vật
trong một số tác phẩm của Nam Cao
2.2.3. Phân tích, đánh giá các cách đặt tên nhân vật để thấy được
vai trò định hướng, hiệu quả nghệ thuật của tên nhân vật trong
một số tác phẩm của Nam Cao
II. Nội dung
1. Ngắn gọn cơ sở lý luận
1.1 Đinh nghĩa về nhân vật trong tác phẩm văn học
Nhân vật trong tác phẩm văn học là một hiện tượng nghệ thuật
mang tính ước lệ. Đó không phải là sự sao chụp đầy đủ mọi chi
tiết biểu hiện của con người mà chỉ là sự thể hiện của con người
qua những đặc điểm điển hình về tiểu sử, nghề nghiệp, tính cách,
”.
(Hà Minh Đức)
3
Cách đặt tên nhân vật trong truyện ngắn của Nam Cao
Nhóm 5 – Tiết 8.9.10
1.2 Vai trò của nhân vật văn học
1.2.1 Với nhà văn
Nhân vật là đứa con tinh thần. Là sản phẩm của trí tuệ. Thông

qua nhân vật, tác giả thể hiện những suy tưởng, ước muốn gửi
gắm
1.2.2 Với người đọc
Như đã nói ở trên khi đọc một tác phẩm, cái đọng lại sâu sắc
nhất trong tâm hồn người đọc thường là số phận, tình cảm,
cảm xúc, suy tư của những con người được nhà văn thể hiện.
Vậy nên nhân vật chính là điểm nút nối liền nhà văn với người
đọc
1.3 Tiêu chí phân loại tên nhân vật
Để lý giải cho các tiêu chí trên, chúng tôi chủ yếu tham
khảo trong cuấn “ Từ điển Thuật ngữ văn học”
1.3.1 Nhân vật chính – phụ
1.3.1.1 Nhân vật chính: Nhân vật then chốt của truyện, giữ vị
trí trung tâm trong việc thể hiện đề tài, chủ đề và tư
tưởng tác phẩm. Thường cuất hiện nhiều lần trong tác
phẩm và được nhà văn khắc họa đầy đặn bằng nhiều
chi tiết (tr 226)
1.3.1.2 Nhân vật phụ: Nhân vật giưc vị trí thứ yếu so với nhân
vật chính trong diễn biến của cốt truyện, trong quá
trình triển khai đề tài, thể hiện tư tưởng và chủ đề tác
phẩm. Nhìn chung, nhân vật phụ thường gắn liền với
những tình tiết, sự kiện, tư tưởng có tính chất phụ trợ,
bổ sung (tr231- 232)
1.3.2 Nhân vật chính diện – nhân vật phản diện
4
Cách đặt tên nhân vật trong truyện ngắn của Nam Cao
Nhóm 5 – Tiết 8.9.10
1.3.2.1 Nhân vật chính diện ( nhân vật tích cực) : là nhân vật
thể hiện những giá trị tinh thần, những phẩm chất đẹp
đẽ, những hành vi cao cả của con người được nhà văn

miêu tả, khẳng định, đề cao trong tác phẩm theo một
quan điểm tư tưởng, một lý tưởng xã hội – thẩm mĩ
nhất định (tr 227)
1.3.2.2 Nhân vật phản diện ( nhân vật tiêu cực): Nhân vật văn
học mang những phẩm chất xấu xa, trái với đạo lý và
lý tưởng con người, được nhà văn miêu tả trong tác
phẩm với thái độ chế giễu, lên án, phủ định.
1.3.3 Nhân vật khác
Các nhân vật như: nhân vật chức năng, nhân vật loại hình,
nhân vật tính cách, tư tưởng Chúng tôi không đi sâu tìm hiểu
bởi không hoàn toàn cần thiết đối với quá trình nghiên cứu đề
tài.
1.4 Các cách đặt tên nhân vật
Chúng tôi sử dụng các cách thức đã được các nhà nghê thuật các
thời đại sử dụng. Ngoài ra, theo nhận định cá nhân, chúng tôi có đưa
ra một số cách đặt tên khác để tiến hành đánh giá với những nhân
vật có tên cụ thể và nhân vật có tên đặc biệt.
1.4.1 Tên nhân vật thể hiện đặc điểm tính cách nhân vật.
1.4.2 Tên nhân vật thể hiện số phận và cuộc đời nhân vật.
1.1.3 Tên nhân vật thể hiện chủ đề, tư tưởng tác phẩm
1.4.4 Tên nhân vật đặt bằng đặc điểm nghề nghiệp
1.4.5 Tên nhân vật đặt bằng chữ cái
1.4.6 Tên nhân vật thể hiện thứ bậc địa vị xã hội.
1.4.6 Tên nhân vật đặt bằng tên con vật
5
Cách đặt tên nhân vật trong truyện ngắn của Nam Cao
Nhóm 5 – Tiết 8.9.10
1.4.7 Tên nhân vật đặt bằng đặc điểm hình dán
2. Kết quả thống kê, phân loại
2.1 Phương pháp.

Ở đây, chúng tôi đã sử dụng các phương pháp như : khảo sát, thống
kê, phân loại, phân tích, chứng mính, nhận xét và lập bảng đánh
giá kết quả, và tính toán % theo xác xuất .( Tuy nhiên theo như
thực tế. Văn học là một phạm vi khá trừu tượng để có thể tiến hành
tính toán một cách tuyệt đối chính xác. Nên con số tính toán có khả
năng chênh lệch.)
2.2 Cách thức
Chúng tôi tiến hành khảo sát ở cả 2 mảng đề tài người nông dân
nghèo và người trí thức nghèo trước và sau Cách mạng tháng
Tám 1945. Chúng tôi tiến hành khảo sát, thống kê các tác phẩm
đáng chú ý, chia luồng chủ đề , và theo các cách đặt tên nhân vật như
trên phần 1.4. Bởi theo kiến giải cá nhân chúng tôi. Ở mỗi đề tài,
hướng về hình mẫu riêng như nông dân, trí thức thì cách đặt tên có
thể có khả năng bị ảnh hưởng bởi thiên hướng cảm xúc của tác giả .
Với mỗi hình mẫu nhân vật theo giai cấp xã hội, và ở mỗi giai đoạn
sáng tác trước hay sau cách mạng tên nhân vật có thể bộc lộ được
quan điểm nghệ thuật riêng của tác giả, và điều này có ảnh hưởng
qua cách đặt tên nhân vật.
2.2.1 Thống kê các tác phẩm đáng chú ý, chia luồng
theo các cách đặt tên nhân vật và thông kê theo sơ đồ
Ví dụ:

Truyện ngắn Nam Cao
Trước CM tháng Tám 1945
6
Cách đặt tên nhân vật trong truyện ngắn của Nam Cao
Nhóm 5 – Tiết 8.9.10
Nông dân nghèo
Sau CM tháng Tám 1945
Trí thức nghèo

Chí Phèo, Lão hạc, Tư cách mõ, Mò sâm panh
Đời thừa, Đui mù, truyện tình
Trí thức nghèo
Đôi mắt
2.2.2 Lập bảng số liệu và nhận xét
Thông qua các tiêu chí phân loại cách đặt tên nhân vật như ở
phần 1.4 và qua phân luồng các tác phẩm tiêu biểu của Nam
Cao, chúng tôi đã tiến hành phân tích, chứng minh và thu được
kết quả và thể hiện qua bảng số liệu sau:
2.2.2.1 Bảng số liệu
7
Cách đặt tên nhân vật trong truyện ngắn của Nam Cao
Nhóm 5 – Tiết 8.9.10
Tên phiếu Số lượng Tỉ lệ %
Tên nhân vật thể hiện đặc
điểm tính cách nhân vật
6 40%
Tên nhân vật thể hiện đặc
điểm số phận, cuộc đời
nhân vật
4 26,6%
Tên nhân vật thể hiện tư
tưởng, chủ đề tác phẩm
1 6,7%
Tên nhân vật gợi đặc điểm
nghề nghiệp
0 0%
Tên nhân vật đặt bằng chữ
cái
0 0%

Tên nhân vật dùng chức vụ
nghề nghiệp, thứ bậc
1 6,7%
Tên nhân vật đặt bằng tên
đồ vật, con vật
1 6,7%
Tên nhân vật đặt bằng đặc
điểm hình dáng
2 13,3%
Tổng
15 100%
2.2.2.2 Nhận xét
2.2.2.2.1. Tiêu chí nhiều nhất
- Tên nhân vật thể hiện đặc điểm tính cách chiếm số lượng nhiều
nhất : 6 phiếu (40%). Với cách đặt tên nhân vật như vậy Nam
Cao đã giúp cho người đọc tự khám phá những nét tính cách
của nhân vật thông qua cái tên.
- Qua cách đặt tên thể hiện tính cách nhân vật này, người đọc sẽ
có điểm tiếp cận gần hơn với nhân vật, có hiểu biết sơ khai nhất
về nhân vật để từ đó là quá trình thấu hiểu nhân vật cũng như
hiểu được phần nào thông điệp nhà văn gửi gắm qua đó.
2.2.2.2.2 Tiêu chí ít nhât
- Ở trên, chúng tôi có đưa ra thêm các tiêu chí đặt tên nhân vật
theo kiến giải cá nhân và theo cách đặt tên vốn tồn tại trong
văn giới, tuy nhiên 2 tiêu chí là tên nhân vật gợi đặc điểm nghề
8
Cách đặt tên nhân vật trong truyện ngắn của Nam Cao
Nhóm 5 – Tiết 8.9.10
nghiệp, tên nhân vật đặt bằng chữ cái chiếm 0% trong tổng các
tác phẩm chúng tôi đã nghiên cứu, nên ở đây chúng tôi không

đưa đánh giá.
- Chiếm 1% là tiêu chí tên nhân vật thể hiện nghề nghiệp, chức
vụ. Trong số lượng chúng tôi nghiên cứu, tiêu chí trên chỉ xuất
hiện 1 lần với nhân vật Ông Giáo trong tác phẩm Lão Hạc. Điều
này không chứng tỏ trong đại thể sáng tác của Nam cao, tên
nhân vật thể hiện chức vu nghề nghiệp là thiếu, là ít hay nhiều.
bởi với phạm vi nghiên cứu nhỏ hẹp trong 1 đề tài nhỏ hẹp
trong truyện ngắn là không thể chứng minh.
Tuy vậy, chúng tôi có rút ra nhận định như sau: tên nhân vật
thể hiện chức vụ, nghề nghiệp - Ông Giáo là tên dùng để chỉ cho
người trí thức nghèo. Khi chúng tôi tiến hành phân luồng
theo sơ đồ ở phần 2.2.1 chúng tôi có đề cập là: Ở mỗi đề tài,
hướng về hình mẫu riêng như nông dân, trí thức thì cách đặt
tên có thể có khả năng bị ảnh hưởng bởi thiên hướng cảm xúc
của tác giả . Với mỗi hình mẫu nhân vật theo giai cấp xã hội,
và ở mỗi giai đoạn sáng tác trước hay sau cách mạng tên nhân
vật có thể bộc lộ được quan điểm nghệ thuật riêng của tác giả,
và điều này có ảnh hưởng qua cách đặt tên nhân vật. Vậy nên
tên nhân vật thể hiện chức vụ nghề nghiệp có thể có khả năng
giúp người đọc nhận biết chủ đề, và từ cách tiếp cận chủ đề
thông qua tên nhân vật được nhắc tới ban đầu sẽ đưa người
đọc tới những kiến giải đúng đắn nhất trong quá trình tiếp cận
theo chủ đề trí thức hay nông dân trong sáng tác của Nam cao,
và từ đó cũng có khả năng đi sâu khám phá những quan niệm
nhân sịnh, triết học trong tư tưởng nhà văn
- Các tiêu chí chiếm mức độ trung bình như: Tên nhân vật đặt
bằng tên đồ vật, con vật, Tên nhân vật đặt bằng đặc điểm hình
dáng , qua phân tích số liệu trên, chúng tôi nhận thấy: Nam Cao
là nhà văn luôn chau chuốt cho từng tác phẩm của mình , điều
này được thể hiện rất rõ qua cách đặt tên nhân vật- linh hồn

của tác phẩm. Đứng ở bình diện con người, thế giới nhân vật
của Nam Cao trở nên phong phú lạ thường. Không chỉ là người
nông dân , người trí thức mà còn là những kiểu người , những
thân phận con người trong muôn vàn cảnh ngộ. Nam Cao đặc
biệt chú trọng việc đặt tên nhân vật trong các tác phẩm của
9
Cách đặt tên nhân vật trong truyện ngắn của Nam Cao
Nhóm 5 – Tiết 8.9.10
mình, đôi khi tên nhân vật đã phần nào cho thấy, “ dự đoán “
trước cuộc đời và số phận của nhân vật chỉ bằng những hình
ảnh như con chuột, hạc, hay đến như con chấy con rận
Như đã nói, trong mỗi đề tài hướng về hình mẫu riêng. Và ở
đây, tiêu chí trên cho thấy sự tập chung dùng những cái tên
con vật như vậy hướng nhiều hơn về chủ đề người nông dân
nghèo. Vậy nên đây là cách tiếp cận rất gần theo hệ thống chủ
đề thông qua đặt tên nhân vật đối với sáng tác của Nam Cao.
Và điều này giúp người đọc tiếp cận gần hơn với những quan
niệm, nhân sinh triết học của Nam cao.
2.2.3 Phân tích cụ thể các cách đặt tên
2.2.3.1 Tên nhân vật thể hiện đặc điểm tính cách nhân
vật.
2.2.3.1.1 Nhân vật : chú bếp Tư” trong Mò Sâm panh-
Tư: Gợi sự riêng tư, cô độc, sống khép mình và điều này
được thể hiện rõ nét nhất thông qua cái chết của đứa con
trai – Tề.
Chú bếp Tư tuy vợ đã mất nhiều năm nhưng vẫn một mình ở vậy
tần tảo nuôi con. Chú sống với tình yêu con chân thành, giản dị
của một người cha hiền lành chịu khó ,dầu cho chú chưa một lần
tỏ bày cảm xúc yêu thương đó bằng lời, mà chỉ dấu những yêu
thương đó sâu kín trong tâm tưởng.

Giá như cuộc sống cứ mãi êm đềm như thế! Đang yên ổn thì một
sự cố ập đến. Chú bếp chẳng may đánh rơi chai sâm panh xuống
cái bể nước vừa sâu vừa rộng của nhà chủ mà không tài nào lấy
được. con trai chú là Tề nảy ra ý nghĩ tắm rửa xà phòng sạch sẽ để
nhào xuống bể mò sâm panh giúp cha. Đúng lúc ấy ông chủ về,
Chú bếp hốt hoảng, vì không muốn để ông chủ biết chuyện đang
diễn ra, chú ấp úng khiến ông chủ sinh nghi. Nhưng mối nghi ấy
vôn không có căn cứ vì chú Tư vốn sống thật thà, khép kín. Chú
được ông chủ giao việc đi lấy cái kính để quên, chú lập cập đi và
không quên vơ tay kéo cái nắp bể lại. không tìm được kính trở về,
10
Cách đặt tên nhân vật trong truyện ngắn của Nam Cao
Nhóm 5 – Tiết 8.9.10
chú tìm đứa con trai trong cái bể sâu hoắm, tối om, nhưng hỡi ôi,
mặt bể không một gợn sóng. Chỉ vì chai sâm panh con trai duy
nhất của chú đã phải chết. nhưng cái chết của thằng bé ở dây
không phải là sự bế tắc mà nó là chi tiết tưởng như không có gì,
là cái thở phào nhẹ nhõm cỉa ông bố, cái thở hắt ra ấy cho thấy
con người bị tha hóa, hèn mọn đến nỗi sợ hãi còn mạnh hơn tình
phụ tử. Ta nhận ra cái bi kịch của nhân vật được Nam Cao miêu
tả hết sức tinh vi. Nguyên nhân cái chết của đứa con là bí mật mà
chú bếp Tư sống để bụng, chết mang theo. Vì một chai sâm panh
mà đổi lấy mạng người, liệu có đáng?Có bao giờ sự sống của đứa
con lại chẳng quan trọng bằng nỗi sợ vô hình trong một người
cha? Xã hội rẻ rúng tới mức mà tình người bị coi nhẹ đến mức
thảm hại. Cái chết của người con, một cái chết lãng xẹt mà đầy
ám ảnh.
2.2.3.1.2Nhân vật “ Từ” trong tác Đời thừa
Từ: hiền từ, nhân từ.
Từ - người đàn bà bạc mệnh hiện ra trong những áng văn viết về

những kiếp người lầm than trong tác phẩm của Nam cao – Đời
thừa .chị hiện lên qua những khắc họa như : Da mặt xanh nhợt, môi
nhợt nhạt, mi mắt hơi tim tím, mắt có quần, má hơi hóp lại Cái bàn
tay lủng củng rặt những xương, cổ tay mỏng mảnh. Làn da mỏng,
xanh trong, xanh lọc người đàn bà ấy khắc khổ chẳng những qua
dáng hình.
Người đàn bà với cái tên “Từ” làm cho con người ta liên tưởng đến
lòng nhân từ hay sự từ tốn, nhẫn nhịn…Nam Cao để nhân vật này
xuất hiện trong truyện ngắn của mình với tư cách một người đàn bà
lỡ làng vì bị tình phụ. Từ ôm con sau ngày đẻ, nhịn đói, mẹ già bị mù,
cả mẹ lẫn con chỉ có một cách là khóc cho đến khi nào bao nhiêu thịt
để chảy ra thành nước mắt hết, để rồi cùng chết cả… Nhưng rồi Hộ
xuất hiện giữa lúc đau khổ nhất cuộc đời Từ, nhận nuôi đứa con của
Từ, cưới Từ làm vợ, lo tang ma chu đáo cho mẹ Từ. kể từ đó, “gã trẻ
tuổi say mê lý tưởng” có tên Hộ phải nai lưng kiếm tiền nuôi cả gia
đình, Từ hiểu rằng Hộ khổ là vì Từ, bởi vậy chén nước đến cử chỉ lời
nói, chị đã dành cho hộ bao tình thương yêu. Bị Hộ say rượu hắt hủi,
11
Cách đặt tên nhân vật trong truyện ngắn của Nam Cao
Nhóm 5 – Tiết 8.9.10
đánh đuổi, nhưng Từ vẫn yêu chồng, không thể ôm con bỏ đi được, vì
ngoài tình yêu, Hộ còn là ân nhân của chị. Từ yêu chồng bằng một
thứ tình yêu rất gần với tình của một con chó đối với người nuôi. Ở
chị hội tụ bao đức tính tốt đẹp của người vợ yêu chồng, người mẹ
thương con, người phụ nữ dịu dàng, chịu thương chịu khó và giàu
đức hi sinh.
2.2.3.1.3 Nhân vật Hộ trong “Đời thừa” cả Nam
Cao
Hộ: bảo hộ, giúp đỡ, gợi lên một cái gì đó ấm áp, an toàn với
người xung quanh.

Trong tác phẩm của mình Nam Cao đã xây dựng thành công
nhân vật Hộ với những nét tiêu biểu cả về ngoại hình lẫn tính
cách. Ngay từ đầu truyện Hộ hiện lên với vẻ mặt đăm chiêu sáng
tạo, đôi lông mày nhíu lại, vầng trán cao và rộng, Hộ hăng say
sáng tác văn chương giống như bao nhà văn yêu nghề thực thụ
khác. Hơn thế, Hộ còn là một người đàn ông trượng nghĩa khi
dang tay cứu vớt Từ giữa lúc Từ bị phụ tình và đang mang trong
mình đứa con của người đàn ông khác. Ta nhận ra ở Hộ một sự
bao dung, vị tha hơn người, bởi ở vào cái thời ấy, việc Từ không
chồng mà chửa đã là cái sự to tát lắm, và hành động của Hộ
không chỉ cứu vớt danh dự của Từ, nó còn cứu sống mẹ con Từ
nữa. Hộ sống bằng nghề viết văn, Hộ yêu nghề, nghiêm túc và
sáng tạo không ngừng nghỉ ấy thế mà vẫn chỉ đủ ăn, nhưng từ
khi có thêm người mẹ già của Từ, cả Từ và những đứa con nối
tiếp ra đời thì cuộc sống càng khó khăn hơn. Hộ trọn nghĩa vẹn
tình với mẹ Từ, ma chay chu đáo khi bà qua đời, rồi chăm chút
con mọn bằng tình yêu thương chân thành nhất của người cha
đích thực. Hộ yêu văn chương, văn chương như là lẽ sống của
anh, anh từng mơ ước nhưng vì cơm áo, vì đàn con nheo nhóc,
Hộ không thể chọn lấy một trong hai con đường: hi sinh nghệ
thuật để làm một người chồng, người cha tốt, hoặc vì cái đẹp tối
thượng của nghệ thuật mà hi sinh phần con người, làm một con
người nhẫn tâm, vô trách nhiệm. Cả hai thứ trách nhiệm ở Hộ
12
Cách đặt tên nhân vật trong truyện ngắn của Nam Cao
Nhóm 5 – Tiết 8.9.10
đều được ý thức rất cao. Hộ không có quyền, và không thể chọn
lấy và hi sinh bất kỳ phần nào.
2.2.3.1.4 Trần Cừ- Trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao
Cừ: có nghĩa là giỏi

Tên nhân vật được chọn là Cừ, một tên gọi mà ngay tự thân nó đã hàm
chứa sự xuất sắc, sự ngợi ca của nhà văn với nhân vật. Trần Cừ là đại
diện cho lớp thanh niên Việt Nam yêu nước thời kháng chiến chống
Pháp, chống Mỹ. Anh là người đội trưởng tiêm đao nhưng chân thành,
bình dị, ở anh lại toát lên vẻ yêu đời, khát sống mãnh liệt. Không chỉ
thế, anh còn là người chiến sĩ không ngại mưa bom, lửa đạn, sẵn sàng
nhận nhiệm vụ dù biết cái chết cận kề. Anh được cấp trên hết sức tin
tưởng, bởi anh tin ở đồng đội của mình và hơn hết, anh tin ở chính
mình. Trong cuộc sống thường ngày, anh còn là người bạn, người anh
thân tình chan chứa yêu thương với mọi người, cũng vì lẽ đó mà anh
được nể phục hết sức.Và trong chiến đấu, ta lại thấy một Trần Cừ hoàn
toàn khác, anh mạnh mẽ, quyết đoán và chiến đấu hết mình. Anh luôn
là người tiên phong trong mỗi trận chiến, vào sinh ra tử, xông xáo trước
tiên. Sống và chiến đấu nơi đầu tuyến lửa nhưng ở Trần Cừ cũng có
những phút yếu lòng, ấy là khi anh chứng kiến đồng đội của mình
thương vong, anh tự trách mình và cảm thấy có lỗi với họ vì đã không
làm tốt hơn. Trong đêm chiến đấu quan trọng để phá lô cốt địch, Trần
Cừ đã trúng đạn, anh lảo đảo vì bị thương nhưng vẫn quả quyết mình
có thể đứng được và hối thúc người đồng đội tiếp tục làm nhiệm vụ.
Anh quên mình hi sinh cho trận chiến, anh chiến đấu như một dũng sĩ
cho đến giây phút cuối cùng của cuộc đời. Và sự ra đi của Trần Cừ
năm ấy đã không uổng phí, chiến dịch đã thành công, lô cốt địch cũng
tan tành.
. Như vậy, với việc lấy tên nhân vật chính làm tên cho tác phẩm, Nam
Cao đã giới thiệu với bạn đọc chân dung một chiến sĩ cộng sản với tấm
lòng trân trọng, ngợi ca sâu sắc. Nam Cao đã đứng trên lập trường của
một nhà văn cách mạng khi nhìn nhận về nhân vật. Đó là lí do tuy đề
tài không mới nhưng truyện ngắn Trần Cừ để lại trong lòng ta nhiều
suy ngẫm về một thời chiến đấu oanh liệt của ông cha.
13

Cách đặt tên nhân vật trong truyện ngắn của Nam Cao
Nhóm 5 – Tiết 8.9.10
2.2.3.1.5 Nhân vật “Hài” trong Quên điều độ
Hài: hài hòa, điều độ
Trong “Quên điều độ” như phần giới thiệu ngay ở đầu tác
phẩm, nhân vật Hài “không phải là một người điều độ vì điều
độ” mà “vì bắt buộc”. Hắn phải sống hài hòa, điều độ một
cách dè sẻn nhất có thể. Từ lúc sinh ra, dường như số phận đã
an bài cho hắn phải sống trong hoàn cảnh ấy. Trong mọi mặt
của cuộc sống hắn lúc nào cũng phải biết cách tự điều độ. Hắn
phải dè sẻn cả sức khỏe bởi sinh ra, hắn đã có bệnh tim, lại bị
đau phổi nữa , hắn không thể làm gì nặng nhọc, bác sĩ cũng
khuyên Hài không được dạy học. Hài dè sẻn sức khỏe cũng là
để dè tiền, cái lối sống như vậy cứ thế thành một thói quen ở
y. Hài dè sẻn, điều độ ngay cả trong việc tiêu tiền cho bệnh tật
của mình “hắn chỉ chữa bệnh bằng nghệ sống, nước rau má
tía, bằng nước tiểu trẻ con”; hắn điều độ ngay cả trong ăn
uống để nuôi sống bản thân “ăn có chừng thôi, và chỉ ăn
rau không bao giờ uống rượu, chỉ toàn uống nước lã đun
sôi”; hắn điều độ ngay cả trong khoản giải trí cá nhân “không
đi xem hát, xem chớp bóng để thì giờ mà ngủ…không đi xe mà
chỉ đi bộ”…Nói cho cùng, hài không phải điều độ, hài lòng với
cuộc sống vốn có mà cuộc sống nghèo nàn bắt hắn phải sống
cuộc sống lúc nào cũng dè sẻn như vậy. Và vì không thể thay
đổi được thực tế khốn khó của mình, Hài đã dùng một phép
thắng lợi tinh thần là luôn tự an ủi mình “Người điều độ thật
là một người khôn ngoan”. Qua nhân vật Hài, Nam Cao thể
hiện sự thông cảm, sẻ chia đối với cuộc sống nghèo khổ, bế tắc
của người trí thức. Ở họ luôn canh cánh một nỗi lo cơm áo
gạo tiền mà nó đã ăn sâu vào máu, nó trở thành một lối sống “

hài”.
3
2.2.3.1.6 Nhân vật “ Chí Phèo” trong tác phẩm cùng
tên.
“Chí Phèo”: chí hướng, ý chí của con người. Phèo là đồ bỏ đi
như “phèo” của con lợn.
14
Cách đặt tên nhân vật trong truyện ngắn của Nam Cao
Nhóm 5 – Tiết 8.9.10
Nhắc đến tác phẩm “Chí Phèo” của Nam Cao ắt phải nhắc đến quá
trình lưu manh hóa biến con người thành quỷ dữ. Con người ấy
chính là anh “Chí”, với cái tên gợi cho người ta đến “chí hướng, ý chí”
của con người. “Chí” là cái tên mà người ta gọi trước khi linh hồn
anh bị rẻ rúng trao cho quỷ dữ. “ Chí” đã từng là một người nông dân
lương thiện, hiền lành như cục đất. Con người ấy dù có tuổi thơ bất
hạnh, bị chuyền tay như một món hàng nhưng vẫn giữ trọn những vẻ
đẹp tâm hồn cao quý, thiêng liêng của một đời lương thiện, biết phải
trái, đúng sai, biết tự trọng. Nhưng bàn tay của bọn cường hào
phong kiến (mà đại diện là Bá Kiến) và cái nhà tù thực dân không
cho con người hiền ấy sống đời lương thiện. Chúng hùa với nhau,
tước đi của Chí cả nhân hình, nhân tính của người nông dân lương
thiện, để biến anh Chí thành thằng Chí Phèo, biến anh canh điền hiền
lành, chăm chỉ thành kẻ lưu manh có mỗi một nghề là rạch mặt ăn vạ
“Chí Phèo”.
“Phèo” là cái vế được thêm vào khi anh bước qua một trang mới của
đời người. “Phèo” là đồ bỏ đi của con lợn, Chí Phèo là hạng người
cùng đinh, bị coi là cặn bã trong xã hội cũng giống như cái phèo lợn
là phần bỏ đi trong cơ thể con lợn, mà cái gì đã bỏ đi thì không có tác
dụng, con người ta ai thèm để ý quan tâm tới vật đã bỏ đi. số phận
thống khổ của Chí Phèo cũng vậy, Nỗi thống khổ ghê gớm đến tột

cùng. Nỗi thống khổ đó không phải là không nhà, không cửa, không
cha không mẹ, không họ hàng thân thích; mà chính là Chí Phèo bị xã
hội vằm nát cả một mặt người, cướp đi linh hồn người, phải sống
kiếp sống tối tăm của con vật lạ. Đó chính là nỗi thống khổ của cá thể
sinh ra là người nhưng lại không được làm người và bị xã hội từ
chối, xua đuổi như loài ác ma, như loài quỷ dữ. Sau khi trở về từ nhà
tù, Chí Phèo không còn bản chất của một anh nông dân chăm chỉ làm
ăn, có ước mơ hoài bão nữa, hắn trở thành một kẻ lưu manh nát
rượu, một kẻ chuyên rạch mặt ăn vạ, khiến cả làng Vũ Đại ai ai cũng
căm ghét, sợ hắn, ghê tởm hắn Chẳng những thế mà Chí xuất hiện
ngay đầu tác phẩm trong cơn say với những tiếng chửi : “Hắn vừa đi
vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu chửi
trời, có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng
chẳng sao: Đời là tất cả nhưng cũng chẳng là ai. Tức mình hắn chửi
ngay tất cả làng Vũ Đại…” Dù say rượu đến điên khùng, Chí Phèo vẫn
15
Cách đặt tên nhân vật trong truyện ngắn của Nam Cao
Nhóm 5 – Tiết 8.9.10
như cảm nhận thấm thía "nông nỗi" khốn khổ của thân phận mình
.Đúng Tiếng chửi ấy không chỉ là lời của một tên bợm rượu khi đã
say mà đó còn là “lời bắt chuyện”, “van xin” kẻ khác nói chuyện với
mình, bởi nếu người ta chửi lại hắn cũng đồng nghĩa vẫn còn có
người coi hắn là con người. Nhưng trớ trêu thay, không ai thèm để ý
đến lời chửi của Chí, ai cũng cho rằng “chắc nó chừa mình ra”, khi ấy
Chí Phèo vô hình trở thành kẻ cặn bã của xã hội, xấu xa, đáng khi bỉ,
đáng bỏ đi như chính cái đoạn “phèo” của con lợn vậy.
2.2.3.2 Tên nhân vật thể hiện số phận, cuộc đời.
2.2.3.2.1 Nhân vật Lão hạc trong truyện ngắn “Lão Hạc”
Hạc: là loài chim chuyên kiếm ăn trên đồng
ruộng, bữa đói, bữa no.

Đến với nhân vật lão Hạc trong tác phẩm cùng tên , chỉ nhắc đến tên
nhân vật , người đọc chưa cần đi sâu tìm hiểu tác phẩm cũng có thể
nhìn ra cuộc đời , số phận nhân vật chính qua cái tên “ lão Hạc”.
Trong ca dao , dân ca không còn xa lạ với câu ca dao:
“ Thân em như con hạc đầu đình
Muốn bay không cất nổi mình mà bay”.
Con hạc đầu đình là một vật dụng để thờ , thường được làm bằng gỗ
hay bằng đồng, được đặt ở nơi đình miếu, đền , chùa Nhìn hình ảnh
con hạc ấy , rồi nghĩ đến nhân vật Lão Hạc trong tác phẩm cùng tên
của Nam Cao ta thấy những nét tương đồng
“Lão Hạc”, cái tên “Hạc” ngoài gợi cho con người ta liên tưởng đến
loài chim hạc, nó rất gần với loài cò – loài động vật rất thường xuyên
xuất hiện trong văn học dân gian Việt Nam, biểu tượng cho những
đức tính tốt đẹp của người nông dân như siêng năng, cần mẫn, lam
lũ, chịu khó, hiền lành, chất phác Có được hạt gạo dẻo thơm thì phải
một nắng hai sương, đắng cay muôn phần thấm bao mồ hôi. Cuộc
sống của họ chẳng khác nào:
“Con cò đi đón cơn mưa
16
Cách đặt tên nhân vật trong truyện ngắn của Nam Cao
Nhóm 5 – Tiết 8.9.10
Tối tăm mù mịt ai đưa cò về
Cò về đến luỹ cò ơi
Con mày bỏ đói ai nuôi hỡi cò!”
Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao cũng vậy, cũng là
một người nông dân hiền lành chịu thương chịu khó, lam lũ, chất
phác…
Rõ ràng khi quyết định đặt tên cho nhân vật của mình Nam Cao đã
suy nghĩ và lựa chọn rất kĩ , để gợi mở tạo sức hút cũng như sự tò mò
của người đọc về nhân vật - “lão hạc” , tên nhân vật đã phần nào gợi

lên cuộc đời , số phận của chính họ. Như con hạc kia , muốn bay
không cất nổi mình mà bay. Trong suốt cuộc đời , lão Hạc phải cắn
răng chịu đụng bao đau thương tủi nhục. Nếu có than thở thì tiếng
than thở của lão Hạc cũng không thể thấu tới trời xanh. Cái vòng
luẩn quẩn, nghiệt ngã của số phận trói buộc lão, lão khó bề thoát
khỏi. Dù có muốn vùng đậy để cắt đứt , phá vỡ , cố vượt qua những
xiềng xích , khó khăn thì cũng không đễ dàng gì. Lão Hạc cũng giống
như bao người nông dân nghèo khó , với cuộc sống cơ cực tối tăm
trước CMT8 , cũng như số phận con hạc , cuộc đời lão là muôn vàn
bất hạnh , vợ lão mất sớm ,con trai lão phẫn chí vì nghèo không lấy
được vợ bỏ đi đồn điền cao su, lão chỉ còn con chó Vàng kỉ vật của
con trai lão để lại . Vậy mà cùng lúc lão phải đối mặt với cái đói , tuổi
già , ốm đau , bệnh tật . cũng như những con hạc kia “ muốn bay
không cất nổi mình” , Lão Hạc cố gắng gượng , vùng vẫy trong sự
nghèo đói , bế tắc , ban đầu là “ luôn mấy hôm lão chỉ ăn khoai” “
khoai cũng hết , lão chế tạo được món gì ăn món đấy. Hôm thì lão ăn
củ chuối , hôm thì lão ăn sung luộc hôm thì ăn rau má với thỉnh
thoảng một vài củ ráy hay bữa trai bữa ốc ‘ rồi lão phải bán cậu
Vàng – con chó mà lão yêu quý nhất , trong sự đau khổ tột độ. Cũng “
không cất nổi mình mà bay” lão chọn cái chết, cái chết như của một
con vật , lão ăn bả chó, chết trong sự đau đớn dữ dội.
Đi vào khám phá và tìm hiểu tác phẩm , người đọc có thể hiểu vì sao
Nam Cao lại đặt tên cho nhân vật của mình là “ lão Hạc “ mà không
phải một cái tên khác, rõ ràng tên nhân vật đã thể hiện cuộc đời , số
phận nhân vật như một con vật mang trên mình bao gánh nặng khổ
17
Cách đặt tên nhân vật trong truyện ngắn của Nam Cao
Nhóm 5 – Tiết 8.9.10
đau . cả đời không thoát khỏi vòng xoáy của số phận trong xã hội vẫn
còn đầy rẫy tối tăm , cuộc đời , số phận con người không hơn con vật

là mấy cũng nhỏ bé , bất hạnh
2.2.3.2.2 Nhân vật Lộ trong “Tư cách mõ”
Lộ: là lộ liễu, phơi bày, phô hết ra, nó còn được hiểu là con
đường, mà cụ thể ở đây là con đường tha hóa của nhân vật Lộ.
Trong “Tư cách mõ” Lộ là một người “lành” như đất. Lộ sinh ra là
con một ông quan viên tử tế hẳn hoi. Cờ bạc không, rượu chè không,
anh chỉ chăm chăm chúi chúi làm để nuôi vợ, nuôi con, ăn ở phân
minh…kẻ trên người dưới, hàng xóm láng giềng ai cũng mến. Bỗng
chốc, Lộ bị biến thành một thằng mõ. Trong những bữa cỗ, hắn tự đi
bưng cỗ, và “chọn lấy một cỗ thật to để các anh trông thấy mà thèm”,
sau đấy “ hắn không những đòi cỗ to mà còn xin thêm xôi, thêm thịt,
thêm cơm nữa. Không đem lên cho hắn thì hắn tự xông vào chỗ làm
cỗ mà xúc lấy. Ăn hết bao nhiêu thì hết, còn hắn gói đem về cho vợ
con ăn, mà nếu vợ con ăn không hết, thì kho nấu để lại ăn hai, ba
ngày”. Như vậy từ một người hiền như đất, vì miếng ăn cùng với sự
xúc phạm, ghen tị, xa lánh của những người xung quanh đã biến anh
cu Lộ thành “một thằng mõ cũng đê tiện, cũng lầy là, cũng tham ăn”
như bất kỳ “một thằng mõ thực thụ” nào.
Lộ hiểu theo nghĩa Hán - Việt có nghĩa là con đường. Vậy có một
câu hỏi đặt ra là: Nhân vật này chọn cho mình con đường nào để đi?
Đến với “Tư cách mõ”, ta dễ dàng nhận ra được anh cu Lộ chỉ là một
thằng mõ trong làng. Trước khi trở thành mõ, Lộ vẫn là một anh
nông dân hiền lành chất phác, “không hề có cái tính tắt ma, tắt mắt”,
“ăn ở phân minh” nên được mọi người rất yêu quý. Nhưng chính sự
18
Cách đặt tên nhân vật trong truyện ngắn của Nam Cao
Nhóm 5 – Tiết 8.9.10
ghen tị, hùa với nhau mỉa mai, xa lánh của mọi người đã góp phần
đẩy hắn trượt dài trên con đường tha hóa. Lộ không còn là anh nông
dân hiền lành, hắn tỏ ra bất cần, côn đồ. Rõ ràng, chỉ vì miếng ăn mà

Lộ không còn ý thức được phẩm giá của bản thân. Hắn lấy làm tự
hào, vênh váo, xấc láo đối với tất cả mọi người, khiến mọi người
khinh ghét, bỏ rơi hắn.
Như vậy, Lộ không chỉ là cái tên Nam Cao chọn dùng để gọi tên
cho nhân vật của mình mà Lộ còn cho ta thấy được cả một quá trình
tha hóa của 1 con người đi từ cái đẹp đến cái xấu xa nhất.
Khác với nhiều nhà văn cùng thời, Nam Cao nói về miếng ăn hơn
là về cái đói, nói về cái nhục hơn là về cái khổ. Một bữa no cũng là
chuyện miếng ăn.Tư cách mõ cũng là chuyện miếng ăn. Trẻ con
không biết ăn thịt chó, Sống mòn cũng là chuyện miếng ăn. Về điều
này GS Nguyễn Đăng Mạnh đã nhận xét: “Nếu như ở các tác phẩm
của Ngô Tất Tố đằng sau miếng ăn là tiếng kêu cứu đói thì ở các tác
phẩm của Nam Cao lại là tiếng kêu cứu lấy nhân cách, nhân phẩm,
nhân tính của con người đang bị cái đói và miếng ăn làm cho tiêu
mòn đi, hủy diệt đi”.
2.2.3.2.3 Nhân vật “ Lang Rận” trong tác phẩm
Lang Rận
Rận: là con vật nhỏ bé, sống chui lủi kí sinh trên động vật
hoặc con người, bị con người ghê sợ.
Nhân vật “lang Rận “ trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao đã phần
nào thể hiện được số phận, cuộc đời của nhân vật này.“ rận” là loài côn
trùng nhỏ bé bám vào da của con người hay động vật , dùng cách hút
19
Cách đặt tên nhân vật trong truyện ngắn của Nam Cao
Nhóm 5 – Tiết 8.9.10
máu để sống . Môi trường sống của loài rận thường bẩn , ít được vệ
sinh… nhân vật lại được đặt tên theo loại côn trùng này đã gợi mở ra số
phận nhân vật , nhỏ bé, mang trên mình thân phận thấp kém, rẻ rúng,
bẩn thỉu .
“Lang Rận”, đường đường kẻ mang danh là thầy lang, một “ doctor” đi

bốc thuốc chữa bệnh , công việc cao quý nhưng ngược lại “ lang Rận “
đi đâu cũng không được chào đón mà là xua đuổi , khinh ghét. Được ở
trọ nhà ông Cựu đẩu , lang Rận như con vật nhỏ bé kia , bám trụ bằng
sự bố thí , nuôi ăn của nhà ông Cựu . Số phận nhân vật được thể hiện
ngay qua cách đặt tên , rận là con côn trùng bị khinh ghét , cũng như
vậy lang Rận “ bị họ khinh bỉ, lườm nguýt , phỉ nhổ, nhạo cười , chế
giễu đủ trăm hình , trăm cấp. Ông hơi mở miệng là bị bọn họ chặn
họng ngay. Ông hơi nhích môi cười là họ khoặm ngay mặt lại , nhổ bọt
đến phì một cái “. Cách đặt tên nhân vật của Nam Cao quả thật rất đắt
giá , chỉ bằng 1 cái tên người đọc có thể nhìn ra số phận của nhân vật ,
xót xa thay con người được coi như loại côn trùng đáng khinh bỉ , nhỏ
bé , không có tiếng nói và bất công . sự sống và cái chết của họ trở
thành thú vui cho những người có tiền , cái chết của lang rận đến bất
ngờ , dễ dàng như cái chết người ta dành cho những con côn trùng kia.
2.2.3.2.4 Nhân vật “ Chị đĩ Chuột: trong tác phẩm Nghèo
Chuột: Tên một loài động vật thuộc họ gặm nhấm, hay sống ở
bờ bụi, nhem nhuốc.
Nó là con vật nhỏ bé , thường bị con người ghét bỏ, sống chui lủi ,
đói khổ , luôn trong trạng thái thiếu thốn thức ăn . trong ca dao, tục
ngữi Việt Nam , có một số câu thành ngữ , tục ngữ quen thuộc như :”
len lén như chuột ngày “, “ lù rù như chuột chù phải khói”,”mặt như
chuột kẹp “ hay “ướt như chuột lột” dù ở trong trường hợp nào thì
đa số con chuột đều chịu cảnh khổ cục , nhỏ bé , bất hạnh.
Cái tên “chị đĩ Chuột” gợi lên trong lòng ta bao suy ngẫm về cuộc đời
và số phận nhân vât. Trong tác phẩm của mình, Nam Cao đã để cho
nhân vật khoác lên mình tấm áo đầu tiên đầy băn khoăn ấy là cái tên
hết sức đặc biệt. “Chị đĩ Chuột” một cái tên bình dị đến mức quê mùa,
phảng phất chút khắc khổ như đúng bản chất của nó, ngay cả trong
20
Cách đặt tên nhân vật trong truyện ngắn của Nam Cao

Nhóm 5 – Tiết 8.9.10
tác phẩm mà chị hóa thân, cuộc đời của chị cũng được miêu tả bằng
những trang văn đượm buồn, đầy ám ảnh.
Câu chuyện xoay quanh cảnh nghèo túng của gia đình chị
Chuột. Chồng chị ốm nặng thuốc thang mãi vẫn chẳng thuyên giảm.
Chị Chuột thương chồng chạy vạy khắp nơi. Trong nhà chỉ còn một
chút gạo trắng, chị cũng dành nấu cơm nấu cháo cho chồng, mong
chồng chóng khỏi dù chị và con phải ăn rễ khoai, củ sắn thậm chí là
cả bát cháo cám đắng khét. Biết vợ và con đã khổ vì mình nhiều, anh
Chuột không chịu ăn cơm trắng, dành phần ấy cho mấy đứa con đói
nheo nhóc và vợ, còn anh sau nửa năm trời đổ bệnh anh đã muốn
buông xuôi để không là gánh nặng thêm cho vợ con. Anh bảo chị cầm
nót số tiền ít ỏi vừa bán hai buồng chuối non và con chó mực đi mua
gạo, trong lúc ấy anh Chuột ở nhà tìm cách kết liễu đời mình. Cùng
lúc đó tiếng bà Huyện siết nợ mớ gạo vừa mua của mẹ con chị Chuột
ngoài cổng, anh Chuột giận dữ đạp tung cái ghế treo cổ tự vẫn. Anh
Chuột giãy dụa đau đớn còn mẹ con chị Chuột thì gào khóc thảm
thiết.
Hiện lên trong tác phẩm của Nam Cao nhân vật “ đĩ Chuột” là người
vợ tảo tần, người mẹ hết lòng vì con nhưng lại gặp phải hoàn cảnh
sống éo le vô cùng. Ta nhận ra sự khắc khổ ngay từ cách ăn, nếp ở rồi
cái dáng vẻ rụt rè của chị khi lo láng cho sức khỏe của chồng. Rồi đây,
khi anh Chuột chết đi , cuộc sống của chị và những đứa con thơ dại sẽ
ra sao khi mà những món nợ và ngheo đói vẫn còn đó?Cuộc sống sẽ
leo lắt, dập duềnh, giống như cái tên của chị đã thể hiện tất cả. Xã hội
Việt Nam những năm trước cách mạng là những năm đen tối bùn
lầy, nó nhần chìm bao số phận con người đáng thương,cái nghèo, cái
đói giết chết ý chí, khát vọng sống để rồi người sống không nổi,
người chết không được yên mồ. Qua đây, Nam Cao không chỉ nói lên
tiếng nói đồng cảm mà còn gián tiêp tố cáo xã hội thực dân nửa

phong kiến đã đẩy bao người xuống vũng bùn của xã hội.
2.2.3.3 Tên nhân vật thể hiện tư tưởng, chủ đề.
Nhân vật “ anh Kim” trong Mua nhà
Kim: từ cũ có nghĩa là tiền, vàng.
21
Cách đặt tên nhân vật trong truyện ngắn của Nam Cao
Nhóm 5 – Tiết 8.9.10
Câu chuyện là lời tâm sự, dãi bày của nhân vật “tôi” với người bạn
của mình là “ anh Kim” về hoàn cảnh gia đình và những nỗi băn
khoăn, bất lực trước mối lo tiền bạc, nhà cửa và cuộc sống cho vợ
con. “ Anh Kim” là một nhân vật không xuất hiện trực tiếp, không
được miêu tả cụ thể về ngoại hình, tính cách mà nhân vật này chỉ
là cái cớ để nhân vật “tôi” giao tiếp.
“Kim”: từ cũ có nghĩa chỉ tiền bạc.Mua nhà, là câu cuyện xoay
quanh cuộc sống bần cùng, khó khăn của một trí thức trẻ bộn bề
với những cơm, áo, gạo, tiền. “Tôi” cảm thấy hổ thẹn với những
người bạn về hoàn cảnh của gia đình mình, một ngôi nhà tre điêu
tàn, muốn vào phải khom người, vào đến nhà thì người ngồi
người đứng vì không đủ chỗ. Sau đêm mưa gông đùng đùng, ngôi
nhà tre đã qua bốn đời chủ đổ nát, gia đình ấy giờ thành không
nhà. Cũng vì đó mà “tôi” mua được một ngôi nhà gỗ với giá rẻ
bằng những đồng tiền vay lãi nặng. Chuyện chưa dừng ở đó, gia
chủ của căn nhà gỗ bán nhà để gỡ bạc, hoàn cảnh cũng vô cùng
thảm hại. Hôm dỡ nhà gia chủ nằm thườn trên cái giường tre,
chiếu rách và bẩn thỉu, còn đứa con nằm ôm lấy cái chân giường,
cảnh tượng thê lương, thảm hại. “Tôi” cảm thấy có gì đó day dứt
lắm vì đã lấy đi ngôi nhà của những đứa trẻ khổ sở giống như con
mình, anh động lòng thương, nhưng rồi suy nghĩ ấy sớm qua
nhanh. Anh không thể thương cảm, xót xa cho người khác khi mà
các con anh cũng đang không chốn để về.

Lương tri của người trí thức nhạy cảm và giàu trắc ẩn, trong cái
xã hội mà đồng tiền mới là kẻ thống trị ấy thì tình người còn lại
chẳng la bao. Đồng tiền, bát gạo mới là nõi lo thường trực và day
dứt nhất và trong hòan cảnh đó, nhân vật trong truyện chỉ có thể
bất lực mà thốt lên rằng: “giá người ta vẫn có thể ghĩ đến mình
mà chẳng thiệt đến ai”. Trong cái xã hội ấy, người ta làm mọi thứ
vì tiền, gần nhau vì tiền, chà đạp lên nhau cũng vì tiền.
2.2.3.4 Tên nhân vật thể hiện chức vụ, thứ bậc
Nhân vật Ông Giáo trong Lão Hạc
Giáo: chỉ một nghề nghiệp.
22
Cách đặt tên nhân vật trong truyện ngắn của Nam Cao
Nhóm 5 – Tiết 8.9.10
“Ông Giáo” là cái tên được Nam Cao sử dụng để đặt cho nhân vật của
mình dựa vào chính nghề nghiệp mà nhân vật trong truyện đảm
nhiệm. “Nghề giáo” được mệnh danh là cái “nghề” cao quý nhất
trong những nghề cao quý, phải chăng vì như vậy nên Nam Cao đã cố
ý chỉ để cho Lão Hạc gọi người thầy giáo già kia là Ông Giáo chứ
không hề đặt cho nhân vật một cái tên rõ ràng cụ thể. Hai tiếng “ông
giáo” đã khẳng định vị thế của một con người giữa làng quê trước
năm 1945 “nhiều chữ nghĩa,nhiều lí luận,người ta kiêng nể”.Hai
tiếng “ông giáo” từ miệng Lão Hạc nói ra, lúc nào cũng đượm vẻ thân
tình, cung kính, trọng vọng : “Cậu Vàng đi đời rồi ông giáo
ạ!”…”Vâng,ông giáo dạy phải ! Đối với chúng mình thì thế là sung
sướng”…”Tôi cắn rơm, cắn cỏ tôi lạy ông giáo !”.
Để làm một người giáo viên tốt cần có nhiều thứ, nhưng hai thứ nhất
định không thể thiếu đó là kiến thức và đạo đức nghề nghiệp, Ông
Giáo trong truyện ngắn Lão Hạc là một người như thế, là một trí
thức có trái tim nhân hậu rất đáng quý.Ông là chỗ dựa tinh thần,là
niềm an ủi,tin cậy của Lão Hạc. Ông giáo là nơi để lão Hạc san sẻ bao

nỗi đau,nỗi buồn.Nhờ đọc hộ một lá thư,nhờ viết hộ một lá thư cho
đứa con trai đi phu đồn điền.Tâm sự về mảnh vườn và chuyện đứa
con trai “phẫn chí” không lấy được vợ.San sẻ về nỗi đau sau khi bán
cậu Vàng cho thằng Mục,thằng Xiên,…Có lúc là một điếu thuốc
lào,một bát nước chè xanh,một củ khoai lang…”Lúc tắt lửa tối đèn có
nhau”.Ông giáo đã đồng cảm,đã thương xót,đã san sẻ với lão Hạc với
tất cả tình người.Ông giáo đã thương lão Hạc “như thể thương
thân”.Không chỉ an ủi,mà còn tìm mọi cách để “ngấm ngầm giúp” khi
biết lão Hạc đã nhiều ngày ăn rau,ăn khoai,ăn củ ráy…Trong lúc đàn
con của ông giáo cũng đang đói;cái nghĩa cử “lá lành đùm lá rách” ấy
mới cao đẹp biết bao !
Ông giáo nghèo mà đức độ lắm.Trước khi ăn bả chó, Lão Hạc đã gửi
ông giáo ba mươi đồng để phòng khi chết “gọi là của lão có tí
chút”…,gửi lại ông giáo ba sào vườn cho đứa con trai…Tình tiết ấy
nói lên lão Hạc rất tin ông giáo.Ông giáo là người để lão Hạc “chon
23
Cách đặt tên nhân vật trong truyện ngắn của Nam Cao
Nhóm 5 – Tiết 8.9.10
mặt gửi vàng”.Giữa các xã hội đen bạc thời ấy,một bà cô dành cho
đứa cháu nội bát nước cháo đã vữa ra như một sự bố thí (“Những
ngày thơ ấu”),vợ tên địa chủ bắt bí,bóp nặn người đàn bà khốn cùng
để mua rẻ đứa con gái lên bảy tuổi và ổ chó (“Tắt đèn”),một tên quan
phụ mẫu ăn bẩn đồng hào của chị nhà quê (“Đồng hào có ma”)…,ta
mới thấy niềm tin,sự kính trọng của kẻ khốn cùng đối với ông giáo
thật là thánh thiện!.
2.2.3.5 Tên nhân vật gọi bằng tên đồ vật, con vật
Nhân vật “ Bá Kiến” trong tác phẩm Chí Phèo
Kiến - Ấy chính là loài côn trùng nhỏ bé, nhưng rất hung bạo và có
sức sống mạnh mẽ… Bá Kiến trong tác phẩm “Chí Phèo” của Nam Cao
là một tên địa chủ độc ác, tính cách nhỏ nhen đúng như tên gọi “kiến”

của hắn, hơn nữa cái đệm “Bá” trong “Bá Kiến” còn làm người ta liên
tưởng tới một con kiến to lớn, một con kiến chúa đầy quyền lực sai
khiến những con kiến nhỏ. Trong “Chí Phèo”, Bá Kiến đại diện cho
tầng lớp địa chủ trong làng Vũ Đại. “Cụ” là một trong những kẻ luôn
gây ra những mâu thuẫn trong các phe cánh, một tay chuyên “lấy
những thằng đầu bò để trị những thằng đầu bò” và là một tên
chuyên bóc lột dân lành bằng mánh khóe. Bá Kiến đứng đầu nắm
trong tay rất nhiều quyền hành trong cái làng Vũ Đại nhiều mâu
thuẫn, bức bối và phức tạp ấy. Bá Kiến được đặt vào một vị trí trang
trọng trong xã hội, khi nhà văn phác họa nên một lai lịch của một kẻ
già đời trong nghề bóc lột : gia đình bốn đời làm tổng lý, bản thân Bá
Kiến từng là lý trưởng, chánh tổng; cha truyền con nối trong thủ
đoạn đè đầu cưỡi cổ người khác. Những kẻ như thế, vẫn được gọi
bằng ông, bằng cụ một cách tôn kính. Uy quyền của Bá Kiến không
phải chỉ bó hẹp trong phạm vi của một làng, mà "cụ Bá" là "bá hộ,
tiên chỉ, chánh hội đồng kỳ hào, huyện hào, Bắc Kỳ nhân dân đại biểu
". Trong tác phẩm có bốn lần Bá Kiến xuất hiện, mỗi lần một vẻ và tất
cả đều góp phần bộc lộ bản chất của con người ranh mãnh, khôn
ngoan, gian hùng và tàn ác. Ngay lần đầu tiên xuất hiện, Bá Kiến hiện
lên là một con người biết kiềm chế, khôn ngoan, nhanh trí, đầy kinh
nghiệm, hiểu đời. Có lẽ chính vì đức tính đó mà dân làng Vũ Đại sợ
“cụ Bá” nhưng cũng nể “cụ Bá”. Chính vì hiểu đời, hiểu người nên Bá
Kiến có thể biến Chí Phèo từ một kẻ đối nghịch thành tay sai của
24
Cách đặt tên nhân vật trong truyện ngắn của Nam Cao
Nhóm 5 – Tiết 8.9.10
mình. Điều nguy hiểm nhất ở Bá Kiến là tội ác được hắn nâng lên
thành nghệ thuật để cai trị kẻ khác “ lấy tên đầu bò để trị những
thằng đầu bò”. Đoạn Chí Phèo đến nhà Bá Kiến xin đi ở tù là một
minh chứng. Bá Kiến rất nham hiểm khi đẩy Chí Phèo đến nhà Đội

Tảo. Vì một trong hai kẻ này chết đều có lợi cho cụ. Chính sách cai trị
“mềm nắm rắn buông”, "nắm lấy đứa có tóc", đặc biệt là những thủ
đoạn rất nham hiểm :"Hãy vất người ta xuống sông rồi hãy vớt nó
lên để cho nó đền ơn, hãy đập bàn đập ghế đòi cho được năm đồng,
nhưng được rồi hãy vất trả lại năm hào vì "thuơng anh túng quá. Với
tất cả các thủ thuật trị người ấy, Bá Kiến quả là một kẻ "khôn róc
đời" và đã phá tan cơ nghiệp của biết bao gia đình, đập nát hạnh
phúc của bao nguời, vừa tiêu biểu cho những loại người có bề dầy
trong xã hội, vừa là những cá tính độc đáo và có sức sống mạnh mẽ
2.2.3.6 Tên nhân vật thể hiện đặc điểm hình dáng
2.2.3.6.1 Nhân vật “ Tơ” trong Một chuyện Xú – vơ – nia
Tơ: Gợi một cái gì đó non nớt, ngây thơ, trẻ trung dồi dào
sức sống.
Cái tên Tơ đã gợi lên phần nào ngoại hình của nhân vật trong tác
phẩm. Tơ có khuôn mặt xinh xinh, đôi mắt bồ câu, cái miệng rất
tươi, má hồng hây hây. Ở cô gái trẻ còn có những phút thẹn
thùng, bẽn lẽn của tuổi 17. Và ngay cả trong hành động của Tơ
cũng thể hiện điều đó. Tơ bối rối chào Hàn với vẻ đáng yêu, trinh
nguyên làm cho Hàn hết sức thích thú. Cái điệu bộ vén áo, khép
nép đi bên Hàn rồi cả những rụt rè trong suy nghĩ của cô gái quê
chân chất. Tơ là người yêu Hàn nhưng vì nghe theo sự sắp đặt của
cha mẹ mà nàng phải lấy người chồng kém mình tới ba tuổi. Cuộc
hôn nhân ấy sớm tàn lụi vì chính Tơ cảm thấy bất lực trước cuộc
sống gia đình và một người chồng không đúng nghĩa. Tơ trốn nhà
nhưng rồi bị cha đẻ bắt về cạo đầu, và Tơ cũng giống như bao
người đàn bà quê nông cạn, hời hợt coi trọng miếng ăn, đỉnh điểm
là khi Hàn chứng kiến chuyện Tơ bán cái khăn thêu đính ước để
lấy tiền ăn bánh đúc thì mọi tình cảm yêu đương cháy bỏng, rồi ý
định bỏ trốn cùng Tơ xây dựng hạnh phúc mới đã tiêu tan. Nam
Cao đã xây dựng nhân vật của mình với sự biến hóa rất tự nhiên,

25
Cách đặt tên nhân vật trong truyện ngắn của Nam Cao

×