Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Tiểu luận: NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU CHO MỘT CHIẾN LƯỢC KINH TẾ DỰA VÀO TRI THỨC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.66 KB, 14 trang )

MỤC LỤC
PHẦN I : LỜI NÓI ĐẦU
PHẦN II : NỘI DUNG CHÍNH
CHƯƠNG I – CƠ SỞ NGHIÊN CỨU
I) CƠ SỞ LÝ LUẬN
1) Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật
2) Thế nào là nền kinh tế tri thức ?
ii) CƠ SỞ THỰC TIỄN
CHƯƠNG II – THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ
I) CƠ HỘI ĐỐI VỚI VIỆT NAM
II) THÁCH THỨC ĐỐI VỚI VIÊT NAM
CHƯƠNG III—NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU CHO MỘT
CHIẾN LƯỢC KINH TẾ DỰA VÀO TRI THỨC
PHẦN III : KẾT LUẬN
1


PHẦN I : LỜI NÓI ĐẦU

Thế giới đã bước sang năm 2002 , loài người đang đi những
bước đi vững chắc của mình trong công cuộc làm chủ thế giới
.Những cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật , những phát minh ,
những thành tựu trong mọi lĩnh vực không ngừng gia tăng và ngày
càng được áp dụng nhiều trong thục tiễn. Đất cước chúng ta cùng
tồn tại trong một thế giới không ngừng biến đổi vận động
ấy.Chúng ta đang sống trong thời đại mà sự biến đổi diễn ra sâu
sắc mạnh mẽ chưa từng có trong lịch sử .Tính đến nay đất nước đã
trải qua hai thập liên của nền kinh tế tri thức ,các công nghệ cao
phát triển như vũ bão và đã đạt được những thành tựu kì diệu mà
trước đâu vài thập liên con người chưa dự báo được và cũng ít
dãm mơ ước tới . Đặc biệt là trong thập liên 90 các thành tựu về


công nghệ thông tin như công nghệ web, internet , thực tế ảo ,
thương mại điện tử Cùng với những thành tựu về công nghệ sinh
học : công nghệ gen , nhân bản vô tính đang tác động mạnh
mẽ ,sâu sắc làm đảo lộn toàn bộ nền kinh tế thế giới và toàn bộ xã
hội loài người đưa con gnười vào thời đại tri thức . Mặc dù đã đạt
được những thành tựu nhưng vấn đề của nền kih tế tri thức luôn
luôn đặt ra những thách thức cho các nhà nghiên cứu khoa học
.Nước ta so với thế giới vẫn là một nước nghèo vì thế mà nền kinh
tế tri thức vẫn còn gặp phải những mặt yêú kém và hạn chế . Chính
vì vậy mà chúng ta phải nghiên cứu nền kinh tế tri thức tìm hướng
đi đúng đắn cho nền kinh tế tri thức , phù hợp với điều kiện ,hoàn
cảnh đất nước ,phù hợp với khu vực ,với thế giới và thời đại.Điều
đó cũng có nghĩa là chúng ta phải phân tích nền kinh tế tri thức
giữa thời cơ và thách thức đối với đất nước ta hiện nay .Trong tổng
thể các mối liên hệ ,trong sự phát triển vận động không ngừng của
nền kinh tế tri thức cần phải sử dụng quan điểm lịch sử cụ thể ,
quan điểm rút ra từ hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng triết
2
học Mac-lênin vào quá trình xây dựng nền kinh tế tri thức giữa
thời cơ và thách thức của nước ta hiện nay.
Với sự hiểu biết hạn hẹp ,trong bài viết này Em chỉ xin chỉ ra
những điều kiện ảnh hưởng đến nền kinh tế tri thức và nền kinh tế
tri thức nước ta phát triển như thế nào dưới tác động trong nhưng
điều kiên lịch sử cụ thể.
3
PHẦN II- NỘI DUNG CHÍNH.
CHƯƠNG I – CƠ SỞ NGHIÊN CỨU.
I. Cơ sở lí luận.
1) Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy
vật.

Nội dung nguyên lý: Mọi sự vật hiện tượng của giới tự nhiên,
xã hội, tư duy đều nằm trong mối liên hệ biện chứng với nhau, tác
động qua lại lẫn nhau ràng buộc nương tựa, qui định lẫn nhau làm
tiền đề điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của nhau. Mối liên hệ
này chẳng những diễn ra ở mọi sự vật hiện tượng trong tự nhiên,
trong xã hội, trong tư duy mà còn diễn ra giữa các yếu tố, các mặt
khác của qú trình của mỗi sự vật hiện tượng. Mối liên hệ trước đây
là khách quan, nó bắt nguồn từ tính thống nhất vật chất của thế giới
biểu hiện trong quá trình tự nhiên, xã hội và tư duy.
Mối quan hệ của sự vật hiện tượng trong thế giới là đa dạng và
nhiều vẻ: có mối liên hệ bên trong và bên ngoài, trực tiếp và gián
tiếp, cơ bản và không cơ bản, chủ yếu và thứ yếu.
a) Nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng.
Nội dung nguyên lý: Mọi sự vật hiện tượng của thế giới đều
không ngừng biến đổi và chuyển hoá lẫn nhau, cái mới kế tiếp cái
cũ, giai đoạn sau kế thừa giai đoạn trước tạo thành quá trình tiến
lên mãi mãi. Phát triển là khuynh hướng thống trị thế giới. Nguồn
gốc nguyên nhân của sự phát triển là sự thống nhất và đấu tranh
của các mặt đối lập. Cách thức hình thái của sự phát triển là sự
thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại.
Khuynh hướng của sự phát triển là đi từ thấp đến cao, từ đơn giản
đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện. Sự phát triển chỉ
hoàn thiện khi ta so sánh các hình thức tồn tại của sự vật ở các thời
điểm khacs nhau trên trục thời gian quá khứ-hiện tại-tương lai.
4
b) Cơ sở khách quan của quan điển lịch sử cụ thể.
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát
triển là cơ sở hình thành quan điểm lịch sử cụ thể như mọi sự vật
hiện tượng của thế giới vật chất đều tồn tại vận động và phát triển
trong những điều kiện không gian và thời gian cụ thể xác định.

Điều kiện không gian và thời gian có ảnh hưởng trực tiếp đến tính
chất, đặc điểm của sự vật. Cùng một sự vật nhưng nếu tồn tại
trong những điều kiện không gian thời gian cụ thể khác nhau, thậm
chí có thể làm thay đổi hẳn bản chất của sự vật.
c) Không gian và thời gian.
Không gian phản ánh thuộc tính của các đối tượng vật chất, có
vị trí, có hình thức kết cấu, có dộ dài ngắn cao thấp. Không gian
biểu hiện sự cùng tồn tại và tách biệt của các sự vật với nhau, biểu
hiện bản tính của chúng, trật tự phân bổ của chúng.
Thời gian phản ánh thuộc tính của các quá trình vật chất diễn
ra nhanh hay chậm, kế tiếp nhau theo một trật tự nhất định. Thời
gian biểu hiện tốc độ và trình tự diễn biến của quá trình vật chất,
tính tách biệt giữa các giai đoạn khác nhau của quá trình đó, trình
tự xuất hiện và mất đi của các sự vật hiện tượng.
Không gian và thời gian như vậy là những hình thức tồn tại
của vật chất, là những thuộc tính chung vốn có của các dạng vật
chất cụ thể. Không gian và thời gian tồn tại khchs quan và có sự
biến đổi phụ thuộc vào vật chất vận động.
d) Yêu cầu cảu quan điểm lịch sử cụ thể(có 3 yêu cầu).
Thứ nhất, khi xem xét cải biến sự vật phải đặt nó trong điều
kiện không gian thời gian cụ thể của nó, phải phân tích xem những
điều kiện không gian thời gian ấy có ảnh hưởng như thế nào đến
tính chất đặc điểm của sự vật, phải phân tích cụ thể mọi tình hình
cụ thể ảnh hưởng đến sự vật.
5
Thứ hai, khi nghiên cứu một lý luận, một luận điểm khoa học
nào đó cần phải phân tích nguồn gốc xuất xứ, hoàn cảnh làm nảy
sinh lí luận đó. Có như vậy đánh giá đúng giá trị và hạn chế của lý
luận đó.
Thứ ba, khi vận dụng một lý luận nào đó vào thực tiễn giải

thích đến điều kiện cụ thể của nơi được vận dụng.
2) Thế nào là nền kinh tế tri thức?
Loài người đang chứng kiến sự ra đời của một xu hướng phát
triển mới, phát triển nền kinh tế dựa trên tri thức.
Nền kinh tế tri thức đã và đang hoàn thành ở nhiều nước phát
triển hiện nay sẽ trở thành một xu thế quốc tế trong một hoặc hai
thập kỷ tới. Xu thế này là thời cơ và thách thức đối với chúng ta
chớp lấy thời cơ và chấp nhận thách thức để phát triển là quyết tâm
của Đảng nhà nước và nhân dân ta. Đó là những vấn đề có lẽ
chúng ta đều chấp nhận. Trên thực tế kinh tế dựa trên tri thức để tự
lãnh đạo mình ở trên những khía cạnh rất cơ bản. Về mặt biểu
hiện, đã xuất hiện các yếu tố kinh tế mới như ngành kinh tế dựa
trên tri thức, doanh nghiệp tri thức, công nhân tri thức Về mặt lợi
ích, hoạt động dựa trên kinh tế tri thức mang lại khoản lợi nhuận to
lớn
Trước tiên, chúng ta cần tìm hiểu về nền kinh tế tri thức. Kinh
tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử
dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh
tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống. Trong nền kinh
tế tri thức vẫn còn nông nghiệp và công nghiệp nhưng hai nghành
này chiếm tỷ lệ thấp. Cũng như trong nền kinh tế công nghiệp vẫn
còn nông nghiệp nhưng nông nghiệp chỉ chiếm một phần nhỏ.
Trong nền kinh tế tri thức chiếm đa số là các ngành kinh tế dựa vào
tri thức, dựa vào các thành tựu mới nhất của khoa học và công
nghệ. Đó là những ngành mới như công nghệ thông tin ( công
nghiệp phần cứng, công nghiệp phần mềm), các ngành công
6
nghiệp, các dịch vụ mới dựa vào công nghệ cao. Ví dụ: sản xuất
ôtô là một ngành công nghiệp truyền thống, nhưng nếu sản xuất ra
những loại ôtô có độ an toàn cao, những ôtô thông minh không cần

người lái thì ngành sản xuất ôtô có thể coi là ngành kinh tế tri thức.
Như vậy các nhà máy may tự động hoá toàn bộ,những trang trại
sản xuất nông nghiệp dựa vào công nghệ sinh học, tự động điều
khiển là những ngành kinh tế tri thức.
Kinh tế tri thức xuất hiện trong mọi lĩnh vực, trong toàn bộ cơ
cấu nền kinh tế quốc dân, trong các nước thuộc Tổ chức hợp tác và
phát triển kinh tế (OECD) kinh tế tri thức đã chiếm hơn 50% GDP,
công nhân tri thức chiếm trên 60% lực lượng lao động.
III) Cơ sở thực tiễn.
Tại sao phải vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể về quá trình
xây dựng nền kinh tế tri thức?
Trước hết chúng ta cần phải khăng định rằng nền kinh tế tri
thức cũng là một dạng vật chất. Theo sự phân loại của triết học
Mác-Lênin thì nền kinh tế Việt Nam là một dạng vật chất xã hội,
chính vì thế nền kinh tế tri thức Việt Nam cũng tồn tại, vận động
và phát triển theo những nguyên lý quy luật của triết học Mác mà
cụ thể là trong những điều kiện không gian, thời gian theo quan
điểm lịch sử cụ thể.
Trước đây chúng ta nói khoa học là lực lượng sản xuất, điều
đó có nghĩa là khoa học tham gia vào quá trình sản xuất bằng việc
tạo ra công nghệ, tạo ra phương pháp để phát triển lực lượng sản
xuất, nâng cao năng suất, chất lượng hiệu quả của sản xuất, còn
bây giờ theo tiên đoán của Mác thì khoa học đã có thể trực tiếp làm
ra sản phẩm, đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và quan
trọng hàng đầu.
Thực tế cho thấy nhờ có công nghệ mới mà nhiều ngành mới,
nhất là trong các lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ được tạo ra. Các
ngành truyền thống được hiện đại hoá và tiếp tục phát triển nhưng
7
tỷ lệ trong GDP ngày càng giảm đi. Tỷ lệ các ngành dịch vụ tăng

lên. Năm 1998, tính chung cho toàn thế giới tỷ lệ dịch vụ trong
GDP chiếm 61%(1980 là 56%), nhóm các nước thu nhập thấp và
trung bình là 51%(1980 là 42%), nhóm các nước thu nhập cao là
65% (1980 là 59%), Mĩ, Pháp: 71%(1980 Mĩ là 64%, Pháp là
62%). Trong khi đó tỷ lệ nông nghiệp tương ứng là 5%(7%),
12%(18%), 2%(3%), 2%(3-4%). Phát triển mạnh nhất là các ngành
sản xuất và dịch vụ dựa chủ yếu vào tri thức và công nghệ cao -
những ngành kinh tế tri thức, những ngành này có giá trị gia tăng
cao nhất, đong vai trò quan trọng nhất trong tăng trưởng kinh tế.
Như vậy khoa học và công nghệ đang đưa nền sản xuất xã hội từng
bước chuyển từ nền sản xuất công nghiệp, dựa chủ yếu vào máy
móc, tài nguyên thiên nhiên sang nền sản xuất tri thức dựa chủ yếu
vào trí lực và thông tin.
Như vậy có thể nói hiện nay thế giới đang bắt đầu quá trình
chuyển đổi sang nền kinh tế tri thức. Các chuyên gia Liên hợp
quốc cho rằng công nghệ cao sẽ tác động mạnh mẽ, sâu rộng đến
toàn bộ nền kinh tế của các nước phát triển. Còn khoảng cách của
các nước đang phát triển đến nền kinh tế tri thức thì còn rất xa, vì
khó mà khắc phục được khoảng cách về tri thức đang rất lớn và
ngày càng giãn ra so với các nước phát triển: nếu không thực hiện
một chiến lược phát triển nguồn nhân lực có thể làm chủ được tri
thức mới cuả thời đại thì đến nửa sau của thế kỷ XXI cũng khó mà
xây dựng được nền kinh tế tri thức.
Công nghệ thông tin và tri thức, một mặt đã làm cho sự chênh
lệch giàu nghèo gia tăng, nhưng mặt khác công nghệ thông tin và
tri thức lại tạo cơ hội thuận lợi nhât giúp cho sự rút ngắn khoảng
cách đó, vị thông tin và tri thức dễ dàng chia sẻ cho mọi quốc gia,
cho mọi người. Trong thời đại ngày nay nếu các nước nắm bắt kịp
thông tin, làm chủ được tri thức thì sẽ theo kịp các nước đi trước.
Đại hội Đảng IX đã khẳng định nhiệm vụ của nước ta hiện nay

là đưa nước ta cơ bản thành nước công nghiệp và bước sang nền
kinh tế tri thức. Đây là một nhiệm vụ hết sức nặng nề, khó khăn
8
bởi nước ta vẫn đang ở trong tình trạng nghèo nàn, lạc hậu và kém
phát triển, trình độ phát triển chung vẫn còn rất thấp kém. Hiện nay
GDP bình quân đầu người của nước ta bằng khoảng 1/12 mức bình
quân của thế giới, thuộc nhóm các nước nghèo nhất thế giới. Trong
khi tốc độ tăng GDP và GDP tính theo đầu người năm 1997 so vơi
năm 1991 của Singapore là 2,58 lần và 2,48 lần, Trung Quốc là
2,48 lần và 2,32 lần. Malaysia là 2,14 lần và 1,81 lần thì Việt
Nam chỉ là 1,60 lần và 1,44 lần.
So với nền kinh tế tri thức trên thế giới thì nền kinh tế tri thức
ở Việt Nam rất thấp. Trong điều kiện đó việc tìm ra những phương
pháp, những con đường hợp lý, thích ứng để đạt mục tiêu đã xác
định có ý nghĩa rất quan trọng. Chính vì những lý do đó chúng ta
phải vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể vào việc nghiên cứu những
cơ hội và thách thức để đưa nước ta tiến vào nền kinh tế dựa trên
tri thức.

CHƯƠNG II - THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ.
ĐỐI DIỆN VỚI NỀN KINH TẾ TRI THỨC CỦA NƯỚC TA.
NHỮNG CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC.
Đại hội VIII của Đảng đã quyết định phải đẩy mạnh công
nghiệp hoá hiện đại hoá để đến năm 2020 nước ta về cơ bản trơ
thành nước công nghiệp. Nhưng để đạt được mục tiêu này chúng ta
cần phải xem xét, nghiên cứu từng vấn đề, từng khía cạnh để từ đó
có những bước đi đúng đắn. Cơ hội đến với nền kinh tế dựa trên tri
thức của nước ta đang mở ra, tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn những
thách thức mà chúng ta sẽ gặp phải.
I) Cơ hội đối với Việt Nam.

Việt Nam đang đứng trước cơ hội tiếp cận với nền kinh tế tri
thức, nếu bỏ lỡ, không biết tận dụng cơ hội, nâng cao năng lực nội
sinh, đổi mới cách nghĩ cách làm, bắt kịp tri thức mới của thời đại,
9
đi tắt vào những ngành kinh tế dựa vào công nghệ cao, dựa vào tri
thức thì sẽ tụt hậu ngày càng xa. Đại hội VIII đã khẳng định phải
“đi tắt đóng đầu”, nếu không làm được thế thì sự tụt hậu là rất dễ
xảy ra.
Có ý kiến cho rằng nền kinh tế nước ta phải phát triển theo mô
hình 2 tốc độ: vừa phải lo phát triển nông nghiệp, nâng cao năng
lực sản xuất những ngành công nghiệp cơ bản, lo giải quyết những
nhu cầu cơ bản và bức xúc của người dân, vừa phải phát triển
nhanh những ngành kinh tế dựa vào tri thức và công nghệ cao, nhất
là công nghệ thông tin để hiện đại hó và nâng cao năng lực cạnh
tranh của nền kinh tế, tào nhành nghề mới, việc làm mới, đạt tốc
độ tăng trưởng cao, hội nhập có hiệu quả với nền kinh tế thế giới.
Chúng ta không thể và không nên bắt chước, dập khuôn theo
mô hình công nghiệp hoá của các nước khác. Cũng không nên hiểu
công nghiệp hoá là xây dựng công nghiệp mà phải hiểu đó là sự
chuyển nền kinh tế từ tình trạng lạc hậu, năng suất chất lượng thấp
kém, dựa vào phương pháp sản xuất nông nghiệp, lao động thủ
công là chính sang nền kinh tế có năng suất chất lượng hiệu quả
cao, theo phương pháp sản xuất công nghiệp dựa vào tiến bộ khoa
học và công nghệ mới nhất, vì vậy công nghiệp hoá phải đi đôi với
hiện đại hoá.
Trong những thập niên tới con người đi nhanh vào nền kinh tế
tri thức, nước ta không thể bỏ lỡ cơ hội lớn đo mà phải đi thẳng
vào nền kinh tế tri thức, rút ngắn khoảng cách với các nước, như
vậy nền công nghiệp nước ta phải đồng thời thực hiện hai nhiệm
vụ: Chuyển nền kinh tế từ kinh tế nông nghiệp sang công nghiệp

và từ công nghiệp sang tri thức. Điều đó có nghĩa là chúng ta phải
nắm bắt kịp thời các tri thức và công nghệ mứoi nhất để hiện đại
hóa công nghiệp, đồng thời với phát triển các ngành công nghiệp
và dịch vụ dựa vào tri thức và công nghệ mới nhất.
Về công nghệ thông tin thì ở Việt Nam, công nghệ thông tin
cũng là một trong các động lực chủ yếu, quan trọng nhất thúc đẩy
10
nền kinh tế tri thức và xã hội thông tin, con người Việt Nam có
nhiều khả năng trong các ngành này. Công nghệ thông tin phát
triển không những góp phần giải phóng năng lực vật chất, trí tuệ
của cả dân tộc mà còn co trình độ trực tiếp đến việc nâng cao tính
cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp.
Đầu tư nước ngoài là một trong những con đường dẫn tới hoàn
cầu hoá. Toàn cầu hoá lại tạo ra các cơ hội giúp cho các nước tận
dụng được vốn đầu tư nước ngoài để giải quyết tình trạng thiếu
vốn từ nội bộ nền kinh tế. Ở Việt Nam trong 13 năm qua kể từ khi
có luật đầu tư nước ngoài đã có gần 3000 dự án được đăng kí voứi
số vốn 40 tỷ USD và lượng vốn đã được giải ngân vào khoảng 20
tỷ USD. Mặc dù còn ít về số lượng, nhỏ bé về qui mô, nhưng
chúng ta cũng có được khoảng vài chục dự án và khoảng nửa tỷ
USD được đầu tư ra nước ngoài. Điều này thúc đẩy quá trình hội
nhập của chúng ta vào khu vực và toàn cầu.
II) Những thách thức lớn.
Chúng ta đang sống trong một thời đại bùng nổ thông tin
và tri thức. Nói về tri thức khoa học kĩ thuật trong thế kỉ 19, cứ
trong 50 năm thì tăng gấp đôi, giữa thế kỉ 20: 10 năm, hiện nay
là 3-5 năm. Một số nước phát triển sớm bước vào xây dựng
kinh tế tri thức đã đặt các nước đang phát triển trước nhiều
bất lợi: tài nguyên và sức lao động bị giảm rõ rệt dẫn đến làm
giảm thu nhập quốc dân( giá nhiều loại nguyên liệu và nông

hải sản gần đây giảm mạnh).
Một vấn đề đáng lo ngại nữa là nạn mất chất xám, làm cho
các nước đã nghèo lại càng nghèo hơn vì nghèo tri thức là nguồn
gốc của mọi thứ nghèo. Trên thế giới khoảng 20% dân số giàu ở
các nước phát triển chiếm tới 86% GDP, trong khi 20% dân số
nghèo nhất chỉ chiếm 1% GDP, tương tự ở Việt Nam là 44,5% và
8%. Qua đó có thể thấy sự giãn rộng khoảng cách giàu nghèo đang
là một thách thức đối với các nhà hoạch định và quản lí kinh tế xã
hội.
11
Trong lĩnh vực thông tin thì ở Việt Nam công nghệ thông tin
được coi là một trong những động lực quan trọng nhất của sự phát
triển kinh tế tri thức, tuy nhiên công nghệ thông tin của nước ta
vẫn còn đang ở tình trạng lạc hậu kém hơn nhiều nước trong khu
vực, chưa đáp ứng được công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Sở dĩ có tình trạng như vậy là do nhận thức cuả các cấp, các
ngành và toàn xã hội về vai trò của công nghệ thông tin còn chưa
đầy đủ. Chính phủ chưa có những chính sách thoả đáng về công
nghệ về đào tạo nguồn nhân lực cho ngành. Các nhà đầu tư cho
rằng môi trường Việt Nam chưa hấp dẫn. Tốc độ truyền dẫn thấp,
phí hoà mạng lại cao làm hạn chế việc truy cập thông tin tri thức
ảnh hưởng đến các hoạt động cuả các ngành kinh tế.
Để hội nhập thành công Việt Nam cần tiếp tục chính sách đối
ngoại đa phương, giảm và tiến tới hàng rào bảo hộ và nâng cao
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, đồng thời cần đổi nới tư
duy về công tác cán bộ có khả năng thích ứng với cơ chế thị trường
và hội nhập ngày nay.
PHẦN III: NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU CHO MỘT
CHIẾN LƯỢC KINH TẾ DỰA VÀO TRI THỨC.
Để đất nước ta có cơ hội hội nhập với nền kinh tế tri thức

của nhân loại chúng ta có những biện pháp sau:
1) Phải đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lí nhằm tạo môi trường
xã hội thông thoáng, phát huy mọi khả năng sáng tạo của người
dân có thể làm việc một cách độc lập, nhưng có sức sáng tạo và
hiệu quả kinh tế xã hội cao, góp phận vào phát triển sản xuất.
2) Chăm lo phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, đào tạo
nhân tài. Trong những năm tới phải tăng mạnh đầu tư để phát
triển cả giáo dục và phải tiến hành một cuộc cải cách giáo dục
mới.
12
3) Để phát triển mạnh nền công nghệ thông tin động lực chủ yếu
đưa nước ta lên xã hội thông tin và nền kinh tế tri thức chúng ta
phải:
- Đẩy mạnh đào tạo cán bộ công nghệ thông tin bằng nhiều hình
thức đa dạng, tăng cường dạy tin học trong các trường học sử
dụng được công nghệ thông tin.
- Phát triển nhanh ngành viễn thông với tốc độ lớn, thuận lợi,
giá rẻ.
- Có những chính sách đặc biệt ưu đãi về thuế, về vay tín dụng,
giá đấy sử dụng cơ sở hạ tầng cho những người làm công nghệ
thông tin.
Trên đây là một vài giải pháp đề xuất trong tiếp cận, xây
dựng và phát triển nền kinh tế tri thức. Có thể khẳng định
trong tương lai gần kinh tế tri thức là đặc trưng của toàn nhân
loại. Vì vậy để có thể tiến nhanh đến nền kinh tế tri thức không
có cách nào khác hơn là đầu tư cho sự phát triển con người
nhất là cho các trường đại học mà cụ thể là sinh viên.
PHẦN IV: KẾT LUẬN.
Qua bài tiểu luận trên chúng ta thấy nền kinh tế tri thức đã và
đang trở nên rất quan trọng trong xã hội loài người. Và nền kinh tế

tri thức đang là một mục tiêu mà Đảng và Nhà nước ta đặt ra quyết
tâm phải tiếp cận được. Có nhiều cơ hội để nước ta nắm bắt lấy và
từ đó có thể phát triển nền kinh tế tri thức, theo kịp được nền kinh
tế của các nước phát triển. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn những
khó khăn, thách thức mà chúng ta phải vượt qua. Nước ta phải có
những biện pháp để giải quyết khó khăn trước mắt, vận dụng
những điều kiện thuận lợi để đẩy lùi nền kinh tế nông nghiệp lạc
hậu, tiến vào thời kỳ công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
Tăng cường mở rộng các mối quan hệ ngoại giao, tìm hiểu kinh
13
nghiệm của các nước tiên tiến. Và một điều quan trọng nữa là phải
chăm lo đến cải cách giáo dục về con người và vật chất nước nhà.
14

×