Tải bản đầy đủ (.pdf) (66 trang)

Rèn luyện kỹ năng viết cho học sinh lớp 10 trong dạy học làm văn ở trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (824.42 KB, 66 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
=====***=====

NGUYỄN THỊ THÚY HẰNG

RÈN LUYỆN KỸ NĂNG VIẾT
CHO HỌC SINH LỚP 10
TRONG DẠY HỌC LÀM VĂN
Ở TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Phƣơng pháp dạy học Ngữ văn

HÀ NỘI, 2015


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
=====***=====

NGUYỄN THỊ THÚY HẰNG

RÈN LUYỆN KỸ NĂNG VIẾT
CHO HỌC SINH LỚP 10
TRONG DẠY HỌC LÀM VĂN
Ở TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Phƣơng pháp dạy học Ngữ văn
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
ThS. Dƣơng Thị Mỹ Hằng


HÀ NỘI - 2015


LỜI CẢM ƠN
Hoàn thành khóa luận tốt nghiệp với đề tài “Rèn luyện kỹ năng viết cho học
sinh lớp 10 trong dạy học Làm văn ở Trung học phổ thông” em đã nhận được sự
giúp đỡ của các thầy cô trong tổ phương pháp dạy học Ngữ văn, đặc biệt là sự
hướng dẫn tận tình của ThS. Dƣơng Thị Mỹ Hằng.
Emxin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất của mình tới ThS.
Dƣơng Thị Mỹ Hằng, người đã hướng dẫn tận tình và luôn động viên em trong
suốt quá trình hoàn thành đề tài.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong tổ Phƣơng pháp dạy học
Ngữ văn, khoa Ngữ văn đã tạo điều kiện và đóng góp ý kiến để em hoàn thành
khoá luận tốt nghiệp.
Do thời gian và khuôn khổ cho phép của đề tài còn nhiều hạn chế nên chắc
chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến
và tiếp tục xây dựng đề tài của quý thầy cô và các bạn để đề tài của em được hoàn
thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 05 năm 2015
Sinh viên

Nguyễn Thị Thúy Hằng


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khoá luận là kết quả nghiên cứu của riêng tôi và có sự
hướng dẫn tận tình của ThS. Dƣơng Thị Mỹ Hằng.
Khoá luận với đề tài: “Rèn luyện kỹ năng viết cho học sinh lớp 10
trong dạy học Làm văn ở Trung học phổ thông”. Khoá luận là kết quả của quá

trình nghiên cứu trung thực và chưa từng công bố trong bất kì công trình
nghiên cứu nào khác.
Hà Nội, tháng 05 năm 2015
Sinh viên

Nguyễn Thị Thúy Hằng


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

HTBT

:

Hệ thống bài tập

Nxb

:

Nhà xuất bản

THPT

:

Trung học phổ thông


MỤC LỤC


PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài......................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................ 3
3. Mục đích nghiên cứu.................................................................................. 7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 7
5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 7
Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI ..................................................... 9
1.1. Kỹ năng ................................................................................................... 9
1.1.1. Khái niệm .......................................................................................... 9
1.1.2. Quy trình hình thành kỹ năng ......................................................... 10
1.2. Kỹ năng giao tiếp .................................................................................. 11
1.2.1. Khái niệm ........................................................................................ 11
1.2.2. Các kỹ năng giao tiếp ..................................................................... 12
1.3. Kỹ năng viết trong môn Ngữ văn ......................................................... 15
1.4. Hệ thống bài tập .................................................................................... 17
1.4.1. Khái niệm ........................................................................................ 17
1.4.2. Một số dạng bài tập thường gặp ..................................................... 19
Chương 2. THỰC TRẠNG DẠY HỌC KỸ NĂNG VIẾT TRONG
LÀM VĂN Ở TRUNG HỌC PHỔ THÔNG .................................................. 20
2.1. Về phía giáo viên .................................................................................. 20
2.1.1. Cách thức điều tra, khảo sát ........................................................... 20
2.1.2. Kết quả ............................................................................................ 20
2.1.3. Nhận xét chung ............................................................................... 21
2.2. Về phía học sinh.................................................................................... 21
2.2.1. Cách thức điều tra, khảo sát ........................................................... 21
2.2.2. Kết quả ............................................................................................ 21


2.2.3. Nhận xét chung ............................................................................... 23

2.3. Nội dung dạy học về rèn luyện kĩ năng viết trong chương trình Làm văn
10 ở THPT.................................................................................................... 23
2.3.1. Về chương trình Ngữ văn 10 ........................................................... 23
2.3.2. Về sách giáo khoa Ngữ văn 10 (Bộ chuẩn) .................................... 25
2.3.3. Nhận xét chung về chương trình và sách giáo khoa Làm văn 10 ... 26
Chương 3. HỆ THỐNG BÀI TẬP RÈN LUYỆN KỸ NĂNG VIẾT CHO
HỌC SINH LỚP 10 TRONG DẠY HỌC LÀM VĂN ................................... 28
3.1. Hệ thống bài tập rèn luyện kỹ năng viết ............................................... 28
3.1.1. Rèn luyện kỹ năng tìm hiểu đề ........................................................ 28
3.1.2. Rèn luyện kỹ năng tìm ý và lập dàn ý ............................................. 32
3.1.3. Rèn luyện kỹ năng viết bài văn ....................................................... 42
3.1.4. Rèn luyện kỹ năng sửa chữa ........................................................... 53
3.2. Quy trình chung rèn luyện kỹ năng viết ............................................... 56
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 58
TÀI LIỆU THAM KHẢO


Khóa luận tốt nghiệp
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Trong thời đại ngày nay, khoa học công nghệ và thông tin trên toàn thế
giới phát triển mạnh mẽ. Trước tình hình đó, ngành giáo dục đã có những biến đổi
to lớn cả về nội dung và phương pháp dạy học để phù hợp với sự phát triển của xã
hội, đưa đất nước hội nhập cùng thế giới. Mục tiêu giáo dục trong thời đại mới được
xác định: không chỉ dừng lại ở chỗ giúp học sinh tiếp thu kho tàng kiến thức, năng
lực mà còn phải giúp học sinh có khả năng vận dụng một cách linh hoạt những kiến
thức, kỹ năng đó vào thực tiễn cuộc sống.
Dạy và học trong nhà trường đang đứng trước yêu cầu đổi mới toàn diện từ
phương hướng, mục tiêu đến nội dung và phương pháp dạy học ở tất cả các cấp học,
bậc học. Nghị quyết 29 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo nêu rõ

“Đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc
phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học
cách ngh khu ến kh ch tự học tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri
thức, kỹ năng phát triển năng lực”. Do đó, trong quá trình giảng dạy, yêu cầu
khách quan, chính xác trong nội dung dạy học là vô cùng cần thiết. Để thực hiện
điều đó, việc xây dựng các kỹ năng đối với học sinh đóng một vai trò vô cùng quan
trọng. Chính điều này sẽ giúp học sinh nắm bắt nội dung một cách đúng đắn và
khoa học nhất.
Như vậy, việc rèn luyện kỹ năng thực hành nói chung đang là một yêu cầu
cấp bách của giáo dục. Việc rèn luyện kỹ năng cũng có những ý nghĩa khoa học
nhất định đóng góp trong nghiên cứu khoa học.
1.2. Cùng với yêu cầu đổi mới căn bản và toàn diện của ngành giáo dục, bộ
môn Ngữ văn đã có những chuyển biến cơ bản. Trong nhà trường Trung học phổ
thông, Ngữ văn là bộ môn có nhiệm vụ đặc biệt. Phân môn Làm văn trong bộ môn
Ngữ văn có nhiệm vụ quan trọng trong việc hình thành các kỹ năng và năng lực cho

SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng
1


Khóa luận tốt nghiệp
học sinh. Có thể nói, kỹ năng làm văn là thước đo năng lực ngôn ngữ, vốn hiểu biết,
vốn văn hóa…của học sinh. Với sứ mệnh đó, Làm văn cần phải được quan tâm và
đầu tư về nội dung và phương pháp dạy học ở mức cao nhất để nâng cao chất lượng
của môn Ngữ văn nói chung.
Xuất phát từ yêu cầu đổi mới cũng như từ bản chất đặc thù của môn Ngữ văn
là gắn với thực hành nên có thể thấy hoạt động dạy học Làm văn phải lấy hoạt động
thực hành làm chủ đạo để học sinh lĩnh hội kiến thức và rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo.
Trong quá trình thực hành, các bài tập trở thành phương tiện hữu ích. Các bài tập

gắn với nội dung bài học, không chỉ cung cấp cho học sinh cách hiểu về nội dung
mà còn giúp học sinh tư duy, sáng tạo, hình thành năng lực, qua các bài tập học sinh
biết cách ứng dụng vào thực tiễn. Rèn kỹ năng chính là đóng góp vào sự phát triển
năng lực cho học sinh.
1.3. Là một bộ phận trong chương trình Ngữ văn 10, phần Làm văn cùng với
Văn học và Tiếng Việt, thực hiện mục tiêu nghe, nói, đọc, viết; góp phần hình thành
nhân cách tốt đẹp và các năng lực trong sự phát triển toàn diện của mỗi cá nhân học
sinh. Nó có vị trí đặc biệt trong quá trình dạy học tiếng mẹ đẻ bởi vì: phân môn Làm
văn sử dụng và hoàn thiện một cách tổng hợp các kiến thức và kỹ năng tiếng Việt
đã hình thành; rèn cho học sinh kỹ năng sản sinh ngôn bản, nhờ đó tiếng Việt không
chỉ được xem xét từng phần, từng mặt qua từng phân môn và trở thành một công cụ
tổng hợp để giao tiếp. Do vậy, phân môn Làm văn đã thực hiện mục tiêu cuối cùng,
quan trọng nhất của dạy học tiếng mẹ đẻ là dạy học sinh sử dụng được tiếng Việt để
giao tiếp, tư duy, học tập. Như vậy, thực hành trong Làm văn là việc làm vô cùng
quan trọng đối với học sinh. Tuy nhiên, trên thực tế, kết quả dạy học Làm văn vẫn
chưa đáp ứng được sự mong đợi, hoạt động thực hành trong phân môn này còn bộc
lộ những hạn chế. Giờ học Làm văn vẫn bị giáo viên và học sinh thờ ơ, và cũng là
giờ dạy và học sơ sài qua loa nhất trong bộ môn Ngữ văn. Hiện nay, dư luận hết sức
lo lắng khi hiện tượng làm văn của học sinh còn nhiều yếu kém. Nhiều bài văn kỹ
năng viết non yếu, câu chữ lộn xộn, sao chép máy móc, sai nhiều lỗi chính tả… Khi
yêu cầu dạy học làm văn được đặt ra là không chỉ nhằm vào truyền thụ kiến thức

SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng
2


Khóa luận tốt nghiệp
cho học sinh mà còn rèn luyện cho học sinh những kỹ năng cần thiết, hệ thống bài
tập vẫn quá đơn điệu, ít ỏi, chưa có sự phong phú về kiểu loại nhằm đáp ứng đúng
mục đích rèn luyện. Các bài làm văn trong hệ thống sách giáo khoa Ngữ văn 10 đã

đưa ra bài tập luyện tập sau mỗi phần lý thuyết, nhưng nhìn chung, nó còn chiếm số
lượng nhỏ trước yêu cầu đẩy mạnh thực hành của môn học. Trong các bài làm văn,
nội dung nghiêng nhiều về lý thuyết, phần bài tập còn khiêm tốn, trong khi bài tập
là vô cùng cần thiết đối với Làm văn nói riêng và bộ môn Ngữ văn nói chung. Việc
quá nặng về lý thuyết cũng gây ra nhiều khó khăn, lúng túng cho học sinh. Nội dung
các bài học cứng nhắc, “lý thuyết nhiều khi không ăn khớp với thực tế làm văn sinh
động”. Những kỹ năng và bài tập thực hành làm văn trong sách giáo khoa chưa đủ
đáp ứng nhu cầu thực sự của giờ học làm văn, chưa tính đến thực tế, chưa tạo được
hứng thú để phát huy tính chủ động, tích cực của học sinh. Có thể thấy, việc dạy và
thực hành kỹ năng viết cho học sinh chưa thật có hiệu quả.
1.4. Là một sinh viên sư phạm Ngữ văn, tôi nhận thấy việc nghiên cứu sự
phát triển kỹ năng viết cho học sinh thông qua hệ thống bài tập để giúp phát huy
năng lực học sinh là điều vô cùng cần thiết. Chính điều này là nguyên nhân thôi
thúc chúng tôi nghiên cứu vấn đề này. Đây là công việc hữu ích phục vụ việc phát
triển nghề nghiệp của bản thân sau này.
Đồng thời, trước yêu cầu của thời đại, nhu cầu học tập và nghiên cứu trở
thành điều tất yếu với mỗi sinh viên. Do vậy, chúng tôi lựa chọn tìm hiểu vấn đề
này để bổ sung thêm cho vốn kiến thức, hiểu biết và cả năng lực cho chính mình.
Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn nói trên, xuất phát từ nhu cầu
cần tìm tòi đổi mới phương pháp dạy học Làm văn, chúng tôi quyết định nghiên cứu
đề tài “Rèn luyện kỹ năng viết cho học sinh lớp 10 trong dạy học Làm văn ở
Trung học phổ thông”.
2. Lịch sử vấn đề
Vấn đề kỹ năng viết đã được các tác giả chú ý nghiên cứu. Ở Việt Nam, bên
cạnh việc biên soạn các bộ sách dạy lý thuyết làm văn, các tư liệu về lý thuyết làm
văn ở nhà trường phổ thông còn có rất nhiều các công trình nghiên cứ đồ sộ, các bài

SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng
3



Khóa luận tốt nghiệp
viết của các giáo sư, các nhà nghiên cứu đầu ngành giàu tâm huyết với môn Làm
văn nói chung trong nhà trường phổ thông.
Các tác giả Phan Trọng Luận, Trương Dĩnh, Nguyễn Thanh Hùng, Trần Thế
Phiệt trong cuốn “Phương pháp dạy học Văn” bên cạnh việc đánh giá toàn diện,
chính xác và sâu sắc về vị trí riêng, phương pháp dạy học và tình hình dạy học phân
môn Làm văn trong nhà trường thì các tác giả còn chỉ ra các vấn đề có tính chất
nguyên tắc và phương pháp trong dạy học Làm văn, ở những việc cụ thể như dạy lý
thuyết, việc ra đề kiểm tra, việc chấm, trả bài cho học sinh.
Trong nước cũng có nhiều công trình nghiên cứu tập trung chính vào hướng
nghiên cứu về kỹ năng viết. Sách Ngữ pháp văn bản và việc dạ làm văn của
Nguyễn Trọng Báu - Nguyễn Quang Ninh - Trần Ngọc Thêm (NXBGD, Hà Nội1985)[2] trình bày một cách tinh giản những vấn đề và kết quả nghiên cứu hiện có
trong lĩnh vực ngữ pháp văn bản và dạy Làm văn như một ứng dụng và thiết thực
nhất của ngữ pháp văn bản. Các tác giả đã đưa ra một số vấn đề cơ bản của ngữ
pháp văn bản như lĩnh vực viết câu, sự ra đời của ngữ pháp văn bản, liên kết câu,
chỉnh thể trên câu đoạn văn.
Phương pháp dạy học tiếng Việt của Lê A (chủ biên), Nguyễn Quang Ninh,
Bùi Minh Toán - NXBGD, 2003, trong chương 7 đã trình bày phương pháp dạy học
Làm văn [1,tr.185-238]. Các tác giả đã cung cấp một số tiền đề lý thuyết của việc
dạy Làm văn. Phương pháp dạy học Làm văn đề cập đến phương pháp dạy lý
thuyết, phương pháp dạy thực hành, phương pháp ra đề làm văn, phương pháp chấm
và trả bài làm văn. Phần cuối chương là một số kỹ năng làm văn cần rèn luyện cho
học sinh gồm sáu kỹ năng. Đó là kỹ năng xác định nội dung, yêu cầu của đề bài và
phương hướng triển khai bài viết, kỹ năng lập ý, kỹ năng viết đúng theo dàn ý, kỹ
năng lập luận, kỹ năng hành văn, kỹ năng hoàn thiện bài viết. Ở kỹ năng hành văn,
các tác giả đặt vấn đề “Có thể gộp vào kỹ năng hành văn cả những năng lực sử
dụng các đơn vị ngôn ngữ ở học sinh. Đó là kỹ năng dùng từ đặt câu, dựng đoạn”
[1,tr.236]. Vì khi học sinh làm văn, về cơ bản, chỉ chú ý chạy theo nội dung, bám
sát các ý, chưa quan tâm tới việc lựa chọn phương tiện thể hiện nội dung đó như thế


SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng
4


Khóa luận tốt nghiệp
nào một cách đầy đủ. Hoặc trong bài viết có ý nhưng do vốn từ ít, nắm không vững
các kiểu kết cấu ngữ pháp của câu, hoặc do ít được vận dụng, ít được luyện tập...
nên ý không thoát và lời không đạt. Tuy không trình bày các phương pháp dạy cụ
thể cho từng kiểu văn bản, các tác giả cũng đã đề cập đến một số kỹ năng cần rèn
luyện cho học sinh.
Cuốn giáo trình Làm văn của tác giả Đình Cao - Lê A cũng đã dành một
phần của sách trình bày lý thuyết chung về câu, việc rèn luyện kỹ năng viết câu,
cách nhận diện câu đúng. Các kỹ năng viết cũng đã được các tác giả chú trọng trình
bày.
Theo tinh thần đổi mới chương trình và sách giáo khoa, chương trình Làm
văn thay đổi nên sách giáo khoa cũng được biên soạn lại. Với quan điểm biên soạn
sách để “học sinh tự học đề cao óc sáng tạo của học sinh”. Sách giáo khoa Ngữ
văn 10 “thể hiện tính chất thực hành” của phần Làm văn khá rõ. Sách giáo viên
Ngữ văn 10 trong phần định hướng về mặt phương pháp, đã viết “theo tinh thần đổi
mới, các bài học trong sách giáo khoa không thiên về giảng giải, minh họa các kiến
thức và kỹ năng có sẵn mà cố gắng thiết kế các hoạt động tìm kiếm, phát hiện và
tiến hành luyện tập cho học sinh...”
Trong tất cả các sách giáo khoa Làm văn đều xuất hiện hệ thống bài tập làm
văn. Tuy nhiên việc nghiên cứu và xây dựng các hệ thống bài tập bổ sung chưa
được quan tâm nhiều.
Hệ thống bài tập có một ý nghĩa lớn đối với phân môn Làm văn. Tầm quan
trọng của bài tập làm văn và yêu cầu về tính thực hành của làm văn cũng đã được
một số nhà nghiên cứu lưu ý. GS.TS Trần Đình Sử trong một bài báo đã viết: “Làm
văn cần thực hành tổng hợp…cần đặt yêu cầu thực hành cao hơn êu cầu tri

thức….Đã xác định làm văn là bộ môn thực hành thì bài làm phải nhiều. Hiện nay
bài làm văn chỉ qu định một năm có tám bài mà hiện có xu thế bớt xuống còn sáu
bài với lý do giáo viên đứng lớp phải chấm bài nhiều quá. Điều nà liên quan đến
định mức lao động cho giáo viên văn hiện nay rất bất hợp lý. Phải qu định định
mức theo yêu cầu đào tạo chứ không phải làm ngược lại. Theo chúng tôi nếu hạ

SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng
5


Khóa luận tốt nghiệp
mức bài làm xuống thì đã giảm sút tính thực hành của môn làm văn”[15, tr.61].
GS Trần Thanh Đạm cũng cho rằng: “…Dạ văn dạy tiếng mà không dạy
làm văn (tức là không có thực hành) thì xem như chưa dạy”[4, tr.100].
Nhà giáo Hà Thúc Hoan khẳng định: “…Dạ làm văn học làm văn dù
không thể bỏ qua phần lý thuyết nhưng thầy cô giáo và sinh viên, học sinh phải đặc
biệt chú trọng phần thực hành để rèn luyện k năng. Học làm văn cũng giống như
học bơi vấn đề không phải là đứng ở trên bờ để bàn luận về cách thức bơi mà phải
nhảy xuống nước và làm đi làm lại một số động tác. Vì lẽ nà chúng tôi thường cho
nhiều ví dụ trong mỗi bài giảng lý thuyết và cuối mỗi bài lý thuyết đều có nhiều bài
tập thực hành”[5, tr.8]. Những yêu cầu về bài tập làm văn cũng đã được đề cập đến,
nhà giáo Đỗ Kim Hồi cho rằng: “Là một hoạt động thực hành giao tiếp, bài tập làm
văn nhất thiết không thể không có mục đ ch giao tiếp của mình”[6, tr.7].
GS Trần Đình Sử phát biểu: “Hình thức luyện tập bài văn cần phải đa dạng,
ngoài bài tập nói, bài là văn thông tường hiện nay cần phải có thêm hình thức rút
ngắn hay mở rộng đoạn văn”[15, tr.60].
TS Trần Thanh Bình đã đặt ra vấn đề gắn bó ngữ pháp với tập làm văn,
hướng tới loại “bài tập văn bản”, đó là một dạng bài tập ngữ pháp để tạo cơ sở cho
sự tích hợp giữa ngữ pháp và làm văn nhưng chưa phải là bài tập làm văn “Vì trong
hệ thống bài tập dạy học tiếng Việt, việc rèn luyện những kiến thức của phần văn

pháp sẽ được tiến hành trực tiếp dưới một dạng bài tập riêng - bài tập văn
bản…”[3, tr.6].
Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy đã có những công trình nghiên cứu, nhiều
bài viết đề cập đến vấn đề rèn luyện kỹ năng viết trong Làm văn. Trong đó có
những công trình và bài viết đã chỉ ra được mục tiêu, cách thức, biện pháp để dạy
học môn Ngữ văn nói chung và đưa ra những hướng dẫn về cách rèn luyện kỹ năng
viết cho học sinh. Chúng ta không thể phủ nhận những đóng góp đáng kể của những
công trình và bài viết vừa nêu song cũng nhận thấy tất cả chỉ dừng lại ở mức độ
nhất định. Do đó, việc tìm hiểu các kỹ năng viết trong Làm văn chưa thật sự được đi
sâu và chưa được quan tâm như các phân môn Văn và Tiếng Việt.

SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng
6


Khóa luận tốt nghiệp
Vì vậy, chúng tôi lựa chọn đề tài “Rèn luyện kỹ năng viết cho học sinh lớp
10 trong dạy học Làm văn ở Trung học phổ thông” với hi vọng tìm ra một giải
pháp nâng cao chất lượng dạy học Làm văn ở Ngữ văn 10.
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài nhằm mục đích sau:
- Đưa ra hướng đi mới trong dạy học rèn luyện kỹ năng viết nhằm nâng cao
chất lượng việc học tập của học sinh đối với phân môn Làm văn theo định hướng
mới của công cuộc cải cách giáo dục.
- Đề ra biện pháp cụ thể rèn luyện kỹ năng viết cho học sinh trong phân môn
Làm văn.
- Xây dựng hệ thống bài tập thực hành để rèn luyện kỹ năng viết cho Làm
văn 10 nói riêng và các kỹ năng nói chung cho môn Ngữ văn.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hệ thống bài tập rèn luyện kỹ năng viết trong
phân môn Làm văn của bộ môn Ngữ văn 10. Trên cơ sở đó, đề xuất xây dựng hệ thống
bài tập để phát triển kỹ năng viết phù hợp với thực tế và khả năng viết văn của học
sinh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi cho phép của đề tài, chúng tôi tìm hiểu hệ thống bài tập trong
phần Làm văn của sách giáo khoa Ngữ văn 10 (Bộ chuẩn). Đây là vấn đề luận văn
quan tâm và cũng là cơ sở quan trọng để có thể xây dựng được một hệ thống bài tập
rèn luyện kỹ năng viết văn của học sinh khối lớp 10 nói riêng và học sinh THPT nói
chung.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Triển khai đề tài này chúng tôi sử dụng một số phương pháp sau:
5.1. Phương pháp điều tra, khảo sát, thống kê, phân loại
Phương pháp này được sử dụng trong việc tiến hành điều tra thực tiễn dạy
học Làm văn và việc sử dụng hệ thống bài tập làm văn trong sách giáo khoa của

SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng
7


Khóa luận tốt nghiệp
giáo viên và học sinh. Từ đó, khảo sát, thống kê, phân loại và phân tích kết quả
khảo sát thực trạng của học sinh trước khi tiến hành thực nghiệm, phân tích kết quả
thực nghiệm.
5.2. Phương pháp phân tích ngôn ngữ
Phương pháp phân tích ngôn ngữ là quan sát, phân tích các hiện tương ngôn
ngữ theo các chủ đề nhất định và chỉ rõ đặc trưng giữa chúng. Vận dụng phương
pháp này khi tiến hành hoạt động thực hành làm văn, học sinh tập so sánh, phân tích
các lỗi mà các em phạm phải khi diễn đạt: lỗi về dùng từ, viết câu. Trên cơ sở đó,
hướng dẫn học sinh cách vận dụng ngôn ngữ vào tạo lập văn bản.

5.3. Phương pháp phân tích lý thuyết
Là phương pháp thu thập thông tin khoa học trên cơ sở nghiên cứu các văn
bản, tài liệu đã có và bằng các thao tác tư duy lôgic để rút ra các kết luận khoa học
cần thiết.

SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng
8


Khóa luận tốt nghiệp

Chƣơng 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Kỹ năng
1.1.1. Khái niệm
Từ những kiến thức được trang bị, người học cần phải có khả năng vận dụng
chúng vào thực tế. Khả năng vận dụng đó gọi là kỹ năng.
Mặc dù kiến thức là rất quan trọng nhưng tự bản thân nó không trở thành kỹ
năng nếu không chịu luyện tập. Nói đến kỹ năng là nói đến việc ứng dụng lý thuyết
vào thực tế, là phải thực hành, phải làm. Mà không phải chỉ làm một lần, phải làm
nhiều, làm đi làm lại một thao tác, một vấn đề cho tới khi thành thạo thì mới có thể
coi như có kỹ năng đó. Yêu cầu này cần thiết với tất cả các ngành, các lĩnh vực
trong cuộc sống lao động và học tập: diễn viên múa, cầu thủ bóng bàn, bóng đá,
người thợ mộc, thợ tiện...muốn có kỹ năng thành thạo trong công việc của mình
được giao đều phải làm nhiều, thực hành nhiều.
Cho đến nay có rất nhiều công trình nghiên cứu về kỹ năng và đưa ra
nhiều khái niệm khác nhau về nó. Theo Từ điển Tâm lí học của tác giả
A.V.Petrovxki: “Kỹ năng là giai đoạn nắm vững các hành động dựa trên quy tắc
nào đó và hành động phù hợp với quy tắc ấy trong quá trình giải quyết nhiệm vụ
đã xác định”. Tác giả Petrovxki cho rằng “Kỹ năng là cách thức hành động dựa

trên cơ sở tổ hợp những tri thức và kỹ xảo. Kỹ năng được hình thành bằng con
đường luyện tập tạo khả năng cho con người thực hiện hành động không chỉ
trong điều kiện quen thuộc mà ngay cả trong điều kiện thay đổi”.
Theo Từ điển tiếng Việt, kỹ năng là khả năng vận dụng những kiến thức
trong một lĩnh vực nào đó vào thực tế.
Các nhà Giáo dục học phân tích kỹ năng thành hai loại: kỹ năng bậc một và
kỹ năng bậc hai.
Kỹ năng bậc một là kỹ năng thực hiện đúng hành động, hoạt động phù hợp
với những mục tiêu và điều kiện cụ thể tiến hành hành động ấy, cho dù hành động

SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng
9


Khóa luận tốt nghiệp
cụ thể hay hành động trí tuệ. Loại kỹ năng này thông qua luyện tập tới mức hoàn
hảo, các thao tác được diễn ra hoàn toàn tự động hóa không cần có sự hiện diện của
ý thức hoặc sự tham gia của ý thức rất ít thì biến thành kỹ xảo. Ví dụ kỹ năng viết,
đi xe đạp....
Kỹ năng bậc hai là khả năng thực hiện hành động, hoạt động một cách thành
thạo, linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với những mục tiêu trong những điều kiện khác
nhau. Trong kỹ năng bậc hai yếu tố linh hoạt sáng tạo là yếu tố cơ bản, đó là cơ sở
cho mọi hoạt động đạt hiệu quả cao.
Theo Lê A - Nguyễn Trí, quan niệm về kỹ năng được hiểu như một khả năng
của con người có thể hoàn thành các nhiệm vụ trong những điều kiện mới dựa trên
những tri thức và kinh nghiệm đã được tích lũy và một loạt các kỹ xảo trong mối
quan hệ mật thiết với nhau. Trong quá trình lĩnh hội và sáng tạo văn bản, kỹ năng và
kỹ xảo luôn có mối quan hệ biện chứng với nhau.
Theo Tâm lí học lứa tuổi và tâm lí học sư phạm, kỹ năng là “khả năng vận dụng
kiến thức (khái niệm, cách thức, phương pháp...) để giải quyết một nhiệm vụ mới”.

Thực chất của việc hình thành kỹ năng là hình thành cho học sinh nắm vững
một hệ thống phức tạp các thao tác nhằm làm biến đổi và sáng tỏ những thông tin chứa
đựng trong bài tập, trong nhiệm vụ và đối chiếu chúng với các hành động cụ thể.
1.1.2. Quy trình hình thành kỹ năng
Vấn đề hình thành kỹ năng được nhiều nhà tâm lí học trong và ngoài nước
quan tâm. Mỗi tác giả, mỗi trường phái có những ý kiến khác nhau, song đều thống
nhất với nhau rằng: Kỹ năng được hình thành trong hoạt động. Sự vận dụng kiến
thức để khám phá, biến đổi chính là kỹ năng. Trong thực tế dạy học, học sinh
thường gặp khó khăn khi vận dụng kiến thức vào giải quyết các bài tập cụ thể chính
là do kiến thức không chắc chắn, khái niệm trở nên chết cứng và không biến thành
cơ sở kỹ năng. Muốn kiến thức là cơ sở của kỹ năng thì kiến thức phải phản ánh đầy
đủ thuộc tính của bản chất, được thử thách trong thực tế và tồn tại trong ý thức với
tư cách là công cụ của hành động các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành kỹ năng.
Quá trình hình thành kỹ năng có nhiều ý kiến khác nhau. Một số nhà tâm lí

SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng
10


Khóa luận tốt nghiệp
học như: V.A Crechetxki, N.D Leevitor, A.V.Petropxki, Phạm Minh Học, Trần
Quốc Thành…cho rằng quá trình hình thành kỹ năng hành động gồm ba bước:
Bước 1: Nhận thức đầy đủ về mục đích, cách thức và điều kiện hành động
Bước 2: Quan sát mẫu và làm thử theo mẫu
Bước 3: Luyện tập để tiến hành các hành động theo đúng yêu cầu, điều kiện
hành động nhằm đạt được mục đích đề ra
Theo các tác giả này, việc nhận thức mục đích và cách thức, điều kiện hành
động là quan trọng nhất. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở bước này thì chưa có kỹ năng vì
nó chỉ thể hiện ở mặt lý thuyết, tri thức về hành động chứ chưa có mặt kĩ thuật, thao
tác thực tiễn của hành động để đạt mục đích đề ra.

Giai đoạn làm thử theo mẫu cung không kém phần quan trọng. Ở giai đoạn
này, con người một mặt thực hiện các thao tác theo mẫu để hình thành kỹ năng, một
mặt con người đối chiếu với tri thức về hành động và điều chỉnh các thao tác hành
động nhằm đạt kết quả, giảm bớt những sai sót trong quá trình hành động.
Sau khi làm thử để nắm vững các cách thức hành động, người ta phải tiến
hành luyện tập để hoàn thiện kỹ năng. Ở giai đoạn này các tri thức về hành động
được củng cố nhiều hơn, các tri thức hành động cũng được ôn luyện có hệ thống
làm cho người ta nắm chắc hành động hơn. Đến đây có thể nói kỹ năng được hình
thành. Tuy nhiên đến đây kỹ năng vẫn chưa ổn định. Kỹ năng chỉ thực ổn định khi
người ta hành động có kết quả trong những điều kiện khác nhau. Tâm lí học hiện
đại đã khẳng định: “Chỉ trong họat động thì kỹ năng mới hình thành và phát triển”.
Như vậy bài tập là một tập hợp yêu cầu hoạt động để đạt tới kết quả nào đó. Nếu
làm một kiểu bài tập cùng kiểu lặp đi lặp lại tới mức độ cần thiết thì sẽ hình thành
được kỹ năng tương ứng.
1.2. Kỹ năng giao tiếp
1.2.1. Khái niệm
Giao tiếp là một hoạt động rất phong phú, đa dạng và phức tạp của con
người. Giao tiếp vừa biểu hiện văn hóa của mỗi người, vừa biểu hiện mức độ văn
minh của xã hội. Chính vì vậy, giao tiếp là một mặt quan trọng trong công tác giáo

SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng
11


Khóa luận tốt nghiệp
dục và đào tạo ở nước ta. Đặc biệt, môn Ngữ văn, với tư cách là môn học công cụ,
có nhiệm vụ rèn luyện các kỹ năng giao tiếp cho học sinh.
Kỹ năng giao tiếp được hiểu là khả năng nhận biết nhanh chóng những biểu
hiện bên ngoài và diễn biến tâm lý bên trong, đồng thời biết sử dụng yếu tố ngôn
ngữ và phi ngôn ngữ, biết cách định hướng và điều khiển quá trình giao tiếp đạt

được mục đích nhất định.
Hiện nay các nước trên thế giới rất coi trọng quan điểm dạy học theo quan
điểm giao tiếp, lấy hoạt động giao tiếp là một căn cứ để hình thành và phát triển các
hoạt động ngôn ngữ mà cụ thể là năng lực nghe, nói, đọc, viết cho người học.
1.2.2. Các kỹ năng giao tiếp
1.2.1.1. Kỹ năng nghe
Nghe là hoạt động tiếp nhận thông tin bằng thính giác. Trong cuộc sống, kỹ
năng nghe của con người được sử dụng rất nhiều. Các dạng của kỹ năng nghe cũng
rất đa dạng: Nghe ngẫu nhiên, nghe có chủ đích. Ngay cả với dạng nghe có chủ
đích cũng không giống nhau: Nghe để giải trí (nghe ca nhạc, nghe kể chuyện…);
nghe để thu thập thông tin (hội họp, nghe tin tức thời sự, khoa học trên ti vi…);
nghe để giải quyết vấn đề; nghe để chia sẻ giao lưu về thông tin, tình cảm (trò
chuyện, tâm tình); nghe để học…
Nghe một cách có ý nghĩa là nghe và hiểu được nó, phản hồi được một cách
sáng tạo cái điều chúng ta nghe thấy. Như vậy nghe không phải là hoạt động thụ
động mà là một kỹ năng cần sử dụng để nhận biết nội dung, mục đích, ý đồ của
người nói.
Những kỹ năng cần rèn luyện khi nghe:
+ Biết phát hiện những vấn đề chính
+ Biết ghi nhanh, ghi đúng, ghi đầy đủ
+ Duy trì sự chú ý liên tục trong suốt quá trình nghe
1.2.1.2. Kỹ năng nói
Nói là hoạt động tạo lập ngôn bản bằng lời. Trong thực tế hai kỹ năng nghe
nói đi liền với nhau. Nói một cách có ý nghĩa là nói với sự hiểu biết của chúng ta về

SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng
12


Khóa luận tốt nghiệp

một kinh nghiệm hay về một sự kiện nào đó mà người nghe hiểu được điều chúng
ta muốn nói. Hoạt động nói chịu ảnh hưởng của các nhân tố sau: Nhân vật giao tiếp,
đối tượng giao tiếp, hoàn cảnh giao tiếp, mục đích giao tiếp,..
Những điều kiện để nói hiệu quả:
+ Nội dung bài nói tốt
+ Hiểu biết sâu rộng, kĩ càng về nội dung cần trình bày
+ Xác định đúng đối tượng nói và mục đích nói
+ Người nói phải có uy tín
+ Giọng nói tốt
1.2.1.3. Kỹ năng đọc
Đọc là hoạt động cơ bản của con người để chiếm lĩnh văn hóa. Đọc là hoạt
động tiếp nhận thông tin bằng mắt và có hoặc không sử dụng bộ máy phát âm. Hàng
ngày chúng ta thực hiện hoạt động đọc như: Đọc truyện, sách báo, biển báo (trường
học, cơ quan…), nhãn hàng hóa, thông tin, quảng cáo... để tiếp nhận thông tin.
Bản thân việc đọc đã có nhiều mức độ từ đọc thông, đọc thuộc, không vấp váp
về ngữ âm, nghĩa từ, biết ngừng giọng đúng chỗ là một trình độ. Bước hai là đọc kỹ,
đọc sâu để biết được cách hành văn, sắp xếp ý, dụng ý trong dùng từ, ngắt câu, chơi
chữ. Bước thứ ba là đọc hiểu cái thông điệp mà văn bản gửi đến cho người đọc là một
mức rất cao. Nhưng đọc văn là để cảm, đế sống, để thưởng thức, để dùng, để tự phát
triển bản thân, cho nên đọc sáng tạo và đọc sử dụng là khâu cao nhất. Người đọc phải
tìm được cái nghĩa mà người đọc trước chưa thấy, thậm chí hiểu cái nghĩa ngoài tầm
kiểm soát của tác giả. Đó đã là đọc sáng tạo. Trong các khâu đọc đó, đọc hiểu là khâu
cơ bản nhất, nó bắt đầu từ hiểu từ, hiểu câu, hiểu đoạn, hiểu liên kết, hiểu nghĩa toàn
bài. Có hiểu đúng thì mới nói chuyện hiểu sáng tạo.
Trong nhà trường, học sinh đọc các tài liệu học tập. Qua việc tiếp xúc với
các loại văn bản trong chương trình học, vốn kiến thức ngôn ngữ, văn học, khoa
học, nghệ thuật,... của học sinh cũng sẽ tăng dần lên. Vốn từ vựng và ngữ pháp của
các em ngày một phong phú, vững vàng, có tác dụng tích cực cho việc rèn luyện tư
duy, rèn kỹ năng diễn đạt gọn gàng, trong sáng.


SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng
13


Khóa luận tốt nghiệp
Các dạng đọc: Đọc thầm, đọc thành tiếng, đọc đồng thanh và đọc diễn cảm…
Các kỹ năng đọc cần rèn luyện:
+Biết nắm bắt nhanh chóng tư tưởng cơ bản của một tác phẩm văn học nghệ thuật
+ Biết vận dụng các loại ngữ điệu vào việc đọc
+ Biết sử dụng cường độ của giọng đọc một cách hợp lí
+ Biết sử dụng các yếu tố phi ngôn ngữ (tư thế, nét mặt, cử chỉ,…)
1.2.1.4. Kỹ năng viết
a. Khái niệm
Viết được hiểu là một phương tiện để lưu giữ, truyền và trao đổi thông tin
thông qua các mã hiệu và ký tự tùy vào hệ thống ngôn ngữ được sử dụng.
Viết là hoạt động tạo lập ngôn bản bằng chữ viết. Viết là quá trình sử dụng
các ký hiệu (chữ của bảng chữ cái, dấu chấm câu) để trình bày những suy nghĩ và ý
tưởng thành một dạng có thể đọc được.
Viết một cách có ý nghĩa là viết trao đổi ý kiến, suy nghĩ những nội dung
thông tin nào đó.
Kỹ năng viết là một quá trình phức tạp bao gồm nhiều thao tác khác nhau.
Để có được một bài viết thành công dù đó là một bức thư, một công văn, một báo
cáo hay bất cứ điều gì khác cũng cần phải có một công tác chuẩn bị kĩ lưỡng, sau đó
là sự thống nhất và tầm quan trọng, kế đến là bố cục và cách làm nổi bật, sự mạch
lạc và rõ ràng.
Trước khi viết cần chú ý: Viết về chủ đề gì? Viết nhằm mục đ ch gì? Viết như
thế nào? Nên cho học sinh tập nói trước khi viết thành bài. Cần xây dựng dàn ý:
Đặt vấn đề, giải quyết vấn đề và kết thúc vấn đề. Cần giúp học sinh sử dụng được
các kiểu câu, các loại văn bản.
b. Các kỹ năng bộ phận của kỹ năng viết

Kỹ năng viết bao gồm nhiều kỹ năng bộ phận khác nhau:
- Kỹ năng tìm hiểu đề
- Kỹ năng tìm ý và lập dàn ý
- Kỹ năng viết bài văn

SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng
14


Khóa luận tốt nghiệp
- Kỹ năng sửa chữa
Ngoài ra, trong mỗi kỹ năng này còn có các tiểu kỹ năng. Mỗi một kỹ năng
bộ phận lại hướng tới một nhiệm vụ cụ thể. Do đó, trong quá trình tạo lập văn bản
của học sinh, cần chú trọng việc rèn luyện các kỹ năng bộ phận trong kỹ năng viết
cho các em.
1.3. Kỹ năng viết trong môn Ngữ văn
Kỹ năng viết là một trong bốn kỹ năng giao tiếp chính của môn học Ngữ văn.
Kỹ năng viết nói chung và trong môn Ngữ văn nói riêng chỉ có thể hình thành bằng
con đường luyện tập, tạo ra các năng lực thực hiện hành động không chỉ trong
những điều kiện quen thuộc mà cả trong những điều kiện thay đổi. Đối với môn
Ngữ văn, kỹ năng viết được biểu hiện bằng việc luyện tập thông qua hệ thống bài
tập trong chương trình.
Theo chương trình đổi mới, nội dung môn Ngữ văn từ lớp 1 đến lớp 12 được tổ
chức theo bốn mạch chính, tương ứng với bốn kỹ năng giao tiếp cơ bản. Bốn mạch kỹ
năng này được triển khai thành hệ thống các chuẩn cần đạt đối với từng kỹ năng.
Dạy học theo hướng đổi mới, kỹ năng viết cũng xây dựng được những chuẩn
cần đạt cần thiết. Chuẩn cần đạt thể hiện những điều học sinh cần biết và có thể làm
được sau khi học. Hệ thống chuẩn này cũng là căn cứ để xác định được những nội
dung, phương pháp dạy học và phương pháp đánh giá thích hợp đối với mỗi lớp
học, cấp học.

Đối với kỹ năng viết, ngoài những nội dung chung như bản chất, chức năng,
quy trình, chiến lược và các yêu cầu chung của hoạt động viết, các chuẩn cần đạt
được xây dựng dựa vào các kỹ năng bộ phận, phân biệt theo nhiều tiêu chí khác
nhau. Có thể phân biệt như:
-

Mức độ phức tạp của hoạt động viết.

-

Mức độ phức tạp của đề tài.

-

Sự phân biệt các thể loại văn bản.

Tất cả các năng lực và phẩm chất của học sinh đều được phát triển thông qua
các hoạt động dạy học, xoay quanh bốn lĩnh vực giao tiếp cơ bản: đọc, viết, nói và

SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng
15


Khóa luận tốt nghiệp
nghe. Các kiến thức lý thuyết về tiếng Việt, lịch sử văn học, và tập làm văn được
chủ yếu sử dụng như là phương tiện tiến hành các hoạt động dạy học đó.
Theo PGS.TS Bùi Mạnh Hùng - Khoa Ngữ văn, Trường ĐHSP TP Hồ Chí
Minh, có thể có một số tiêu chí đánh giá kỹ năng viết đối với môn Ngữ văn ở Trung
học phổ thông như sau:
Đánh giá kỹ năng viết kết hợp với đánh giá kỹ năng đọc thông qua việc đọc một

hay một số văn bản cụ thể (phổ biến ở dạng bài viết phân tích tác phẩm văn học).
Đánh giá kỹ năng phân tích, bàn luận về một đề tài cụ thể (phổ biến ở dạng
bài nghị luận xã hội có đề tài mở).
Đánh giá kỹ năng tạo lập văn bản đáp ứng một nhu cầu cụ thể trong đời sống
như viết thư, báo cáo, quảng cáo,...
Việc đánh giá kỹ năng viết phải dựa vào nhiều tiêu chí khác nhau. Tùy vào
kiểu bài viết mà tiêu chí đánh giá có những khác biệt nhất định.
Về nội dung: Khả năng hiểu văn bản, chủ đề tư tưởng, quan điểm và ý định
của tác giả văn bản; khả năng nắm được đặc trưng thể loại văn bản; tính sáng tạo,
độc đáo của các ý tưởng được trình bày; khả năng tập trung vào đề tài đang bàn.
Về hình thức ngôn ngữ: Chuẩn mực về chính tả, từ vựng, ngữ pháp, phong cách
và ngữ dụng (phù hợp với ngữ cảnh, nhất là với đối tượng tiếp nhận và mục đích viết).
Cần chú ý đến khả năng dùng từ ngữ và cấu trúc câu đa dạng của người viết.
Về kết cấu: Mức độ phù hợp với các thể loại văn bản như văn bản miêu tả,
văn bản tự sự, văn bản biểu cảm, văn bản thuyết minh, văn bản nghị luận văn học
và xã hội; tính liên kết và mạch lạc trong phạm vi một đoạn văn và giữa các đoạn
văn trong một văn bản.
Về khả năng biểu đạt và lập luận: Mức độ biểu đạt rõ ràng, lôgic và có hiệu
quả các ý tưởng; khả năng phân tích, suy đoán, lập luận và sử dụng các lí lẽ, bằng
chứng (chi tiết, số liệu hay các ví dụ về người thật, việc thật,...) hỗ trợ cho các quá
trình đó.
Giáo viên đánh giá học sinh và cho các em tự đánh giá các công đoạn của
quá trình viết: từ suy nghĩ, quan sát, nghiên cứu, chọn đề tài; cho đến tìm kiếm và

SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng
16


Khóa luận tốt nghiệp
xử lí tư liệu, viết bản thảo, sửa chữa, hoàn thiện và trình bày/công bố.

Như vậy, kỹ năng viết nói chung cũng như kỹ năng viết trong bộ môn Ngữ
văn đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với việc hoàn thiện năng lực học sinh. Kỹ
năng viết cùng các kỹ năng giao tiếp khác là thước đo năng lực ngôn ngữ, vốn văn
học, vốn sống, sự phát triển nhân cách...của học sinh.
Để dạy học tốt kỹ năng viết cho học sinh phổ thông nói chung và học sinh
khối 10 nói riêng thì giáo viên cần tích hợp với các kỹ năng giao tiếp khác và các
phương pháp dạy học đặc thù của Làm văn. Có như vậy, việc rèn luyện kỹ năng viết
cho học sinh lớp 10 trong Làm văn mới đạt được hiệu quả tốt.
1.4. Hệ thống bài tập
1.4.1. Khái niệm
a. Khái niệm bài tập
Có nhiều định nghĩa khác nhau về “bài tập”. Theo Nguyễn Hữu Châu: “Bài
tập (Assigment) là những nhiệm vụ công việc được giao cho mỗi nhóm hoặc mỗi cá
nhân trong khuôn khổ một chương trình học tập nhằm rèn lu ện kỹ năng ha tăng
cường kiến thức cho người học”. Trong sách giáo khoa, giáo trình, tài liệu tham
khảo, thuật ngữ bài tập xuất hiện rất nhiều như: bài tập Toán, bài tập Tiếng Việt, bài
tập Tiếng Anh...Theo nghĩa này, bài tập được hiểu là dạng bài học mô phỏng lại
kiến thức và thao tác thực hành đã được giới thiệu nhằm mục đích vận dụng lý
thuyết và rèn luyện kỹ năng cần thiết theo chương trình môn học. Theo đó, bài tập
được sử dụng chủ yếu trong hoạt động thực hành mà nhiệm vụ giải bài tập là một
hình thức thực hành. Tuy nhiên, trước xu hướng đổi mới phương pháp dạy học
nhằm phát huy cao độ tính tích cực, tự giác, độc lập, sáng tạo trong nhận thức của
người học thì phạm vi ứng dụng của bài tập rộng hơn nhiều. Nhiều quan điểm hiện
nay cho rằng, bài tập không chỉ được dùng với mục đích giúp người học vận dụng
những tri thức đã học, rèn luyện kỹ năng tương ứng mà còn giúp họ hình thành tri
thức mới và phát triển các kỹ năng khác.
Như vậy, bài tập được hiểu là các nhiệm vụ học tập mà giáo viên đặt ra cho
người học thực hiện, được trình bày dưới dạng câu hỏi hay những yêu cầu hoạt

SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng

17


Khóa luận tốt nghiệp
động buộc người học tái hiện những kiến thức, giải quyết vấn đề trên cơ sở những
điều đã biết hoặc kết nối những kiến thức, giải quyết vấn đề dựa trên việc tìm kiếm
phương pháp mới qua đó nắm vững tri thức, rèn luyện và phát triển kỹ năng.
b. Hệ thống bài tập
Trong cuốn “Từ điển Từ và ngữ Hán Việt” [7] khái niệm hệ thống được hiểu
là: tập hợp những bộ phận có liên hệ chặt chẽ với nhau; thứ tự sắp xếp có quy củ; sự
liên tục. Bản chất cốt lõi của khái niệm hệ thống được thể hiện ở hai khía cạnh: Thứ
nhất là mối quan hệ nội tại có tính lôgic rất rõ của từng thành tố riêng biệt với
những thành tố khác trong một dãy các thành tố; thứ hai là tính chất tổng thể, hợp
thành của một đối tượng từ những thành tố bộ phận cùng loại hay có cùng chức
năng. Như vậy, khái niệm hệ thống được hiểu là tập hợp những thành tố có liên hệ,
quan hệ với nhau, tác động lẫn nhau tạo nên một chỉnh thể mới. Và hệ thống bài tập
là một tập hợp với nhiều bài tập khác nhau được xếp thành các nhóm (trong mỗi
nhóm có thể có những nhóm nhỏ hơn) theo một trình tự có chủ đích nhất định.
Theo quan điểm đổi mới bộ môn, hệ thống bài tập làm văn được xác định là
phương tiện thực hành nhằm tạo dựng và phát triển năng lực của học sinh. Học sinh
phổ thông ở các lứa tuổi khác nhau, trình độ khác nhau thì yêu cầu về năng lực sử
dụng ngôn ngữ cũng khác nhau, cách thể hiện các kỹ năng sử dụng ngôn ngữ cũng
rất khác nhau. Vì vậy, cần xuất phát từ hệ thống những kỹ năng sử dụng trong Làm
văn để thiết kế hệ thống bài tập. Điều đó cũng có nghĩa là xuất phát từ bản chất của
một kỹ năng cụ thể để thiết kế một hệ thống bài tập làm văn tương ứng tương ứng.
Hệ thống bài tập định hướng phát triển năng lực chính là công cụ để học sinh luyện
tập nhằm hình thành năng lực và là công cụ để giáo viên và các cán bộ quản lý giáo
dục kiểm tra, đánh giá năng lực của học sinh và biết được mức độ đạt chuẩn của quá
trình dạy học.
Theo yêu cầu rèn luyện kỹ năng, hệ thống bài tập được xây dựng vừa sức,

phù hợp với trình độ và năng lực thì học sinh mới có thể thực hiện được, có làm
được thì mới thành thạo. Hệ thống bài tập vừa phải có sự thống nhất, phát triển từ
thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, vừa rèn luyện một cách toàn diện kỹ năng

SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng
18


×