Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

Tư tưởng nhân quả của phật giáo và ảnh hưởng của nó đối với đời sông người dân quảng trị trong thời đại ngày nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (436 KB, 81 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài

TƯ TƯỞNG NHÂN QUẢ CỦA PHẬT GIÁO VÀ ẢNH
HƯỞNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG NGƯỜI DÂN
QUẢNG TRỊ TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY

Giảng viên hướng dẫn
Sinh viên thực hiện
Lớp

: TS.Trần Ngọc Ánh
: Ngô Thị Hiệp
: 09SGC

Đà Nẵng, tháng 05/2013


Trong thời gian vừa qua nhờ sự quan tâm, giúp đỡ tận
tình của quý thầy cô, những người thân trong gia đình và
bạn bè mà tôi đã hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.
Tôi xin dành lời cám ơn chân thành đến các Thầy Cô
giáo trong khoa Giáo dục Chính trị - Trường Đại học Sư
phạm Đà Nẵng, đặc biệt là thầy giáo, TS. Trần Ngọc Ánh
– người đã trực tiếp hướng dẫn tôi trong quá trình thực
hiện khóa luận.
Đà Nẵng, ngày 14 tháng 05 năm 2013


Sinh Viên
Ngô Thị Hiệp

2


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Phật giáo một trong những tôn giáo lớn nhất thế giới. Sự ảnh hưởng của nó
đối với xã hội loài người từ khi ra đời đến nay là vô cùng lớn. Sự phát triển nhanh
chóng của Phật giáo là một sự phát triển hợp với quy luật của xã hội của lịch sử
phát triển loài người. Phật giáo, qua bao nhiêu thời gian của sự phát triển nó vẫn
như một ngọn đèn sáng chiếu rọi cho con người những bước đi trong cuộc đời sóng
gió.
Hơn 20 thế kỷ Phật giáo đã và đang làm sứ mệnh lịch sử của mình đó là sự
giáo huấn, rèn luyện cho con người những điều hay, lẽ phải, đạo lý của con người
chân chính, để con người biết vứt bỏ những sân si, dục vọng ham muốn của cuộc
sống đời thường để đạt đến sự chân thiện mỹ.
Cùng với trào lưu phát triển trên thế giới, phật giáo đã đến với con người Việt
Nam. Đạo phật đã hòa quyện cùng dân tộc Việt Nam, đã đưa con người, đất nước
Việt Nam vào một nguồn suối mát trong, an lạc, hiền hòa. Qua năm tháng tồn tại và
phát triển cùng đất nước, đạo phật đã trở thành một tôn giáo mang đậm bản sắc của
dân tôc, nó dường như đã ăn sâu vào đời sống văn hóa và tinh thần của dân tộc Việt
Nam. Giáo lý phật giáo đã mang đến cho con người niềm vui và hạnh phúc. Nó
không chỉ vì mục đích giải thoát tự thân mà vì an vui, hạnh phúc cho tha nhân và
mọi loài. Tư tưởng triết học của phật giáo đã thấm nhuần vào đời sống của người
dân Việt. Và có thể nói rằng giáo lý nhân quả là một trong những tư tưởng triết học

nổi bật trong tư tưởng của phật giáo. Một giáo lý đã ăn sâu vào hệ tư tưởng của dân
tộc ta. Nó không chỉ ảnh hưởng qua những trang sách, những bài viết, những trang
kinh của đức phật mà nó ảnh hưởng trực tiếp qua cách sống, qua ý thức tự nhiên, nó
như trở thành bản năng của con người Việt Nam. Ảnh hưởng của giáo lý nhân quả
trong đời sống của người dân Việt Nam nói chung là vô cùng lớn. Và đặc biệt ở
mảnh đất Quảng Trị, mảnh đất của sự linh thiêng lịch sử, mảnh đất của một thời hoa
lửa, của máu và hoa, sự ảnh hưởng của phật giáo cũng rất nổi bật. Sự ác liệt của


chiến tranh trên mảnh đất này, sự hi sinh, mất mát đã hằn sâu vào tâm thức của
người dân nơi đây. Chính vì vậy, đời sống văn hóa của con người Quảng Trị nó
mang đậm một nét riêng, luôn hướng về thời lịch sử anh hùng ấy. Phật giáo đã đến
xoa dụi những nỗi đau, những mất mát mà người dân nơi đây đã hứng chịu. Phật
giáo, nó ảnh hưởng trong mọi phương diện của lối sống người dân Quảng Trị, đặc
biệt là sự ảnh hưởng giáo lý nhân quả của Phật. Với mong muốn được đi sâu vào
khám phá đời sống của người dân quê mình, dưới ánh sáng của phật giáo, bản thân
tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “Tư tưởng Nhân Quả của Phật giáo và ảnh hưởng của
nó đối với đời sống người dân Quảng Trị trong thời đại ngày nay” làm đề tài khóa
luận tốt nghiệp của mình.
Trong thời đại ngày nay, cùng với sự phát triển của nhân loại, trước sự xâm
nhập của nhiều nền văn hóa, cùng với sự phát triển như vũ bão của khoa học kĩ
thuật, con người ngày nay như trở nên thực dụng hơn, lối sống chạy theo đồng tiền
và danh lợi mà đánh mất đi nhân phẩm, phẩm chất của mình. Xã hội với biết bao
nhiêu điều đáng phải nói, con người dường như trở nên khó để phân biệt ranh giới
giữa cái thiện và cái ác. Chính vì vậy khi nghiên cứu đề tài này bản thân tôi mong
muốn góp thêm tiếng nói của mình trong hồi chuông thức tỉnh những tâm hồn lạc
lối.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề phật giáo trong lịch sử đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về nó.
Đây là một vấn đề có phương diện nghiên cứu rộng, có nhiều cách để khai thác

phân tích và tìm hiểu nên đã lôi cuốn rất nhiều con người tìm hiểu và khám phá. Đã
có một số công trình nghiên cứu liên quan đến phật giáo và giáo lý nhân quả của
phật giáo như: “ Nhận thức về nhân quả và nghiệp” của Thích Giác Khang; “Nền
tảng đạo phật- đường đến Thức tỉnh, Giác ngộ, Tự do, hạnh phúc ”, NXB tổng hợp
TP Hồ Chí Minh, 2009; Nayakathera Piyadassi, Thích Tâm Quang (dịch), “ Học
thuyết phật giáo về đời sống sau khi chết”, NXB Tôn giáo, 2008; Minh Chi, “ Quan
niệm của phật giáo đối với sống chết”, NXB TP Hồ Chí Minh, 2002; Hoàng Thị
Thơ,“ Giá trị nhân bản của phật giáo trông truyền thống và hiện đại”, tạp chí triết

6


học số 6 (9/2001); Lê Hữu Tuấn “ Ảnh hưởng của phật giáo đối với tư duy của
người Việt”,Tạp chí triết học số6 (12/1998); “ Phật giáo Quảng Trị, 30 năm thành
lập và phát triển” của Nguyễn Hữu Ban ; Ngô văn Minh, “ Phát huy giá trị nhân văn
Phật giáo trong xây dựng xã hội mới hiện nay”, Nghiên cứu Tôn giáo, số 5/ 2009;
Tác phẩm “Đường xưa mây trắng” của thầy Nhất Hạnh..
Trên đây là những công trình nghiên cứu đã đề cập đến những vấn đề cơ bản
của phật giáo, ít nhiều đã đề cập đến giáo lý nhân quả của Phật. Tuy nhiên, sự ảnh
hưởng của giáo lý nhân quả trong đời sống nười dân Quảng Trị trong thời đại ngày
nay là một vấn đề nghiên cứu còn mới. Các công trình nghiên cứu trên là những tư
liệu hết sức quý báu, trên cơ sở tiếp thu, kế thừa những kết quả nghiên cứu của
những công trình nghiên cứu ấy đã giúp bản thân Tôi đi sâu nghiên cứu và hoàn
thành đề tài: “Tư tưởng Nhân quả của Phật giáo và ảnh hưởng của nó đối với đời
sống của người dân Quảng Trị trong thời đại ngày nay”.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu và giới hạn của đề tài.
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở giáo lý nhân quả của Phật giáo, đề tài sẽ phân tích, luận giải những
ảnh hưởng của tư tưởng nhân quả đối với đời sống tinh thần của người dân Quảng
Trị.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Khái quát chung về phật giáo và quá trình du nhập và phát triển phật giáo
Việt Nam
- Tư tưởng nhân quả và ảnh hưởng của nó đối với đời sống người dân Quảng
Trị
3.3. Giới hạn của đề tài
Trong khuôn khổ khóa luận tôt nghiệp, đề tài chỉ giớ hạn ở giáo lý Nhân Quả
của Phật giáo và ảnh hưởng của nó đối với người dân Quảng Trị trong thời đại ngày
nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1.Cơ sở lý luận: Đề tài được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác

7


– Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam.
4.2. Phương pháp nghiên cứu: Khi nghiên cứu đề tài này, người viết đã sử
dụng một số phương pháp sau:
* Phương pháp biện chứng duy vật lịch sử
* Phương pháp lôgic và lịch sử
* Phương pháp phân tích và tổng hợp
* Phương pháp diển dịch, quy nạp
* Phương pháp thống kê.
5. Đóng góp mới của đề tài
- Đề tài trình bày có hệ thống về giáo lý Nhân quả của Phật giáo.
- Làm rõ ảnh hưởng của tư tưởng Nhân quả đối với đời sống của người dân
Quảng Trị trong thời đại ngày nay.
6. Ý nghĩa của đề tài.
*Ý nghĩa lý luận:
-Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm rõ thêm tư tưởng của phật giáo

nói chung và đặc biệt là giáo lý nhân quả của phật giáo.
- Đề tài này có thể dung làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, học tập
môn tôn giáo học và các môn học liên quan.
*Ý nghĩa thực tiển: Góp phần giáo dục thế hệ trẻ, đặc biệt thế hệ trẻ Quảng trị
học tập vận dụng mặt tích cực của giáo lý nhân quả Phật giáo trong thời đại ngày
nay.
7. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục tài liệu tham khảo. Nội dung đề tài nghiên
cứu gồm hai chương
Chương 1: Khái quát chung về phật giáo và quá trình du nhập và phát triển
phật giáo Việt Nam.
Chương 2: Tư tưởng Nhân quả của Phật giáo và ảnh hưởng của nó đối với đời
sống người dân Quảng Trị trong thời đại ngày nay.

8


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHẬT GIÁO VÀ QUÁ TRÌNH DU
NHẬP PHÁT TRIỂN PHẬT GIÁO VIỆT NAM
1.1. Khái quát về phật giáo
1.1.1. Sự ra đời của phật giáo
Phật giáo là một tôn giáo được Thích Ca Mâu Ni (Shakyamuni) truyền giảng ở
miền Bắc Ấn Độ vào thế kỷ 6 trước công nguyên (TCN). Ngay từ buổi đầu, Thích
Ca, người sáng lập đạo Phật, đã tổ chức được một giáo hội với các giới luật chặt
chẽ.
1.1.1.1. Hoàn cảnh ra đời Phật giáo ở Ấn Độ
Điều kiện thiên nhiên ở Ấn Độ: Ấn Độ là đất nước có điều kiện tự nhiên đa
dạng. Đất nước này vừa có dãy núi Hymalaya hùng vĩ ở phía Bắt, vừa có biển Ấn
Độ Dương rộng mênh mông; vừa có sông Ấn chảy về phía Tây, lại có sông Hằng

chảy về phía Đông. Vì thế Ấn Độ có những vùng đồng bằng trù phú màu mỡ, có
vùng nóng ẩm mưa nhiều, có vùng lạnh giá quanh năm tuyết phủ, lại có những vùng
xa mạc khô cằn, nóng bức. Những điều kiên tự nhiên đa dạng và khắc nghiệt ấy là
cơ sở để hình thành sớm những tư tưởng tôn giáo triết học.
Về kinh tế – xã hội: Từ thế kỷ VI – I TCN, nền kinh tế – xã hội chiếm hữu nô
lệ Ấn Độ đã phát triển, thổ dân trên bán đảo Nam Á là người Dravidian và
Sumerian đã có nền văn minh khá cao. Đầu thế kỷ II TCN, một nhánh người Aryan
thâm nhập vào bán đảo Ấn Độ, dần dần chuyển sang định cư và sống bằng nghề
nông. Đặc điểm nổi bật của nền kinh tế – xã hội của xã hội Ấn Độ cổ, trung đại là
sự tồn tại rất sớm và kéo dài của kết cấu kinh tế – xã hội theo mô hình “công xã
nông thôn”. Mô hình này có đặc trưng là ruộng đất thuộc quyền sở hữu nhà nước,
gắn liền với nó là sự bần cùng hoá của người dân trong công xã, và quan hệ giữa gia
đình thân tộc được coi là quan hệ cơ bản, cùng với xã hội được phân chia thành các
đẳng cấp. Xã hội thời kỳ này được phân chia thành 4 đẳng cấp lớn là: tăng lữ, quý
tộc, bình dân tự do và nô lệ cung đình. Sự phân chia đẳng cấp đó làm cho xã hội
xuất hiện những mâu thuẫn gay gắt dẫn đến cuộc đấu tranh giai cấp giữa các đẳng

9


cấp trong xã hội. Trong cuộc đấu tranh ấy, nhiều tôn giáo và trường phái triết học
đã ra đời, trong đó có Phật giáo.
Đặc điểm văn hóa – khoa học: Văn hoá Ấn Độ cổ – trung đại được chia làm ba
giai đoạn. Khoảng thế kỷ XXV-XV TCN gọi là nền văn minh sông Ấn, từ thế kỷ
XV – VII TCN gọi là nền văn minh Vêđa và từ thế kỷ VI – I TCN là thời kỳ hình
thành các trường phái triết học tôn giáo lớn gồm hai hệ thống đối lập nhau là chính
thống và không chính thống. Tiêu chuẩn của chính thống và không chính thống là
có thừa nhận uy thế của kinh Vêđa và đạo Bàlamôn hay không. Về khoa học, ngay
từ thời kỳ cổ đại, người Ấn Độ đã đạt được những thành tựu về khoa học tự nhiên.
Đặc biệt là các lĩnh vực thiên văn, toán học, y học…

Như vậy, tất cả những đặc điểm kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội nói trên là
cơ sở cho sự nảy sinh và phát triển những tư tưởng triết học của Ấn Độ thời cổ,
trung đại với các hình thức phong phú đa dạng. Và Phật giáo ra đời trong làn sóng
phản đối sự ngự trị của đạo Bàlamôn và chế độ đẳng cấp, lý giải căn nguyên nỗi
khổ và tìm đường giải thoát cho con người khỏi nỗi khổ triền miên, đè nặng trong
xã hội nô lệ Ấn Độ. Vì chống lại sự ngự trị của đạo Bàlamôn đặc biệt là quan điểm
của kinh Vêđa nên Phật giáo được xem là dòng triết học không chính thống.
1.1.1.2. Thân thế, sự nghiệp Phật Thích Ca
Phật giáo là trào lưu tôn giáo triết học xuất hiện vào khoảng thế kỷ VI TCN,
Người sáng lập là Thích Ca Mâu Ni,
Đức Phật Thích Ca nguyên tên là Tấn Đạt Đa (Siddhattha), có nghĩa là người
được toại nguyện, họ Cồ Đàm (Gotama), sau đổi lại là Thích Ca (sakiya). Ngài
được sinh ra vào ngày mùng 8 tháng 4 năm 264 Tây lịch. Ngài là Hoàng tử con vua
Tịnh Phạn (Suddhadana ) và hoàng hậu Ma Da ( Mahamaya) . Sau ki sinh hạ Hoàng
tử được bảy ngày hoàng hậu MayDa từ trần. Thái tử được Maha-ba-xà-ba-đề
( Mahà Pajapatì) là em ruột của hoàng hậu May Da, con gái của vua Anjana nuôi
dưỡng, chăm sóc.
Theo truyền thuyết Siddhattha đã có tới 547 tiền kiếp trước đầu thai làm con
vua Sakiya. Trong những tiền kiếp trước Đức Phật là loài vật hay những con người

10


đầy lòng từ bi, hỉ xả, sẵn sàng hy sinh cho đồng loại. Kiếp gần nhất của Đức Phật là
con voi trắng sáu ngà.
Khi hoàng tử chào đời, có một vị hiền triết được triệu vào cung để tiên đoán
vận mệnh của hoàng tử, đó là đạo sĩ Asita, một người thân tính của nhà vua, được
hoàng tộc Gautama quý trọng. Khi xem thân tướng của thái tử, Asita tiên đoán rằng
đây quả là một vương tử phi thường sẽ trở thần một vĩ nhân. “Ngài ứa nước mắt vì
chính ngài sẽ không còn sống lâu nữa để nhìn thấy thái tử Siddattha thành Phật và

ngài dặn cháu trai mình là Nâlaka nhớ rằng về sau phải làm đệ tử của Đức Phật
tương lai này”
Năm bảy tuổi, theo học các đạo sĩ Bàlamôn, Tất Đạt Đa đã tỏ ra là một người
thông minh lạ thường và sức khoẻ tuyệt luân. Một lần theo phụ vương ra ngoài dự
lễ hạ điền, thấy cảnh người nông dân chân lấm tay bùn cực nhọc, trâu bò phải kéo
cày khổ sở, trên luống cày chim chóc tranh nhau sâu bọ, hoàng tử lặng lẽ ngồi trầm
ngâm thiền định dưới góc cây, suy tư về nỗi khổ của chúng sinh. Để tránh Tất Đạt
Đa sẽ xuất gia đi tu như đã được các vị đạo sĩ tiên đoán, nhà vua đã đặt ra các thú
vui, tạo ra cuộc sống xa hoa, lộng lẫy, ngày đêm có các ca công vũ nữ hầu hạ, để
hoàng tử quên đi những suy tư và việc tu hành.
Năm 16 tuổi nhà vua đã cưới cho hoàng tử công chúa Ýaodhara, một người em
cô cậu cho hoàng tử. Trong 13 năm sau ngày hôn lễ, Tất Đạt Đa hoàn toàn sống
cuộc đời vương giả. “Đời sống của ta thật là tế nhị, vô cùng tinh vi. Trong hoàng
cung chỗ đâu ta ở, phụ hoàng đều có đào ao, xây những đầm sen. Khi sen xanh đua
nhau khoe màu ở đây, thì sen đỏ vươn mình khoe sắc phía bên kia, và bên cạnh sen
trắng đau nhau tranh đẹp dưới ánh nắng ban mai. Trầm hương của ta dung đều là
loại thượng hạng từ xứ Kasi đưa về. Khăn và xiêm áo của ta cũng may toàn bằng
hàng lụa bậc nhất từ Kasi chở đến…”
Mặc đầu sống trong giàu sang phú quý với sự yêu chiều của vua cha và người
vợ trẻ đẹp, nhưng như tiền định, hoàng tử vẫn luôn nghĩ về sự khổ của sinh, bệnh,
lão, tử và những phiền não của bụi trần ô trược. Siddhattha suy niệm: “Chính ta
phải chịu sinh, già, bệnh, tử phiền não và ô nhiễm. Tại sao vẫn mê mãi chạy theo

11


những điều mà bản chất cũng còn như vậy. Vì chịu sinh, lão, bệnh, tử phiền não và
ô nhiễm, ta đã nhận thức được sự bất lợi của những điều ấy. Hay ta thử đi tìm cái
chưa thành đạt, cái tối thượng và tuyệt đối chu toàn là Niết Bàn”. Mỗi ngày Thái tử
càng xít lại gần hơn với quyết định xuất gia. Thái tử vẫn thấy lòng nặng trĩu bao nỗi

băng khoăn thắc mắc. Ngài cho cảnh đời mà ngài đang sống ở đây không phải là
hạnh phúc chân thật mà là giả dối, mê muội chỉ làm cho kiếp sống thêm nặng nề
đau khổ. Ngài thấy cần phải tìm một lối thoát, một cuộc sống chân thật và cao đẹp
hơn.
Trong những lần ra khỏi hoàng cung để nhìn xem thế gian bên ngoài và trực
tiếp tiếp xúc với sự thật phủ phàng của đời sống, thái tử tận mắt nhìn thấy một cụ
già đầu bạc, lưng còng, chân chồn, đầu gối mỏi, đi đứng mệt nhọc, một người bệnh
hoạn đau khổ, một thây ma theo sau có những người khóc than sầu não, một đạo sĩ
nghiêm trang khả kính. Hoàng tử càng suy tư về khổ của nhân sinh, càng chán cảnh
phồn hoa thế vị, càng quyết tâm xuất gia đi tu tầm đạo để giải thoát cho chúng sinh
khỏi cảnh khổ ải của nghiệp chướng luân hồi. Nữa đêm mùng bảy tháng hai, hoàng
tử lặng lẽ rời cung đi ra đi tìm đường chân lý. Lúc ấy hoàng tử Tất Đạt Đa vừa tròn
29 tuổi và đã có một người con trai tên là Ruhula.
Sau khi đi khắp nơi học đạo. Đầu tiên Tất Đạt Đa gặp hai vị ở trong rừng là
Alàrà Kàlama và Uddaka Kama. Hai vị tẩn sĩ này lần lượt lần lượt dạy cho Tất Đạt
Đa tu tập các phương pháp thiền định. Tất Đạt Đa lần lượt học hết các đạo nhưng
nhận thấy không đạo nào giúp Ngài chứng ngộ được chân lý cao thượng. Ngài tự
mình vào ở ẩn trong rừng sâu, trải qua sáu năm cùng với năm đạo sĩ thuộc nhóm
Kiều Trân Như thực hành phép tu khổ hạnh ép xác đến kiệt sức nhưng vẫn không
tìm ra chính đạo. Sau đó, Ngài đã vượt qua sự cám dỗ của Ma vương và sự xa lánh,
kỳ thị của người đồng tu, chọn kiên trì tu luyện theo con đường trung đạo. Trải qua
kinh nghiệm đời sống tu luyện Tất Đạt Đa đã nhận thấy rằng tu khổ hạnh chỉ làm
suy giảm tinh thần và trí tuệ; còn lối sống lợi dưỡng vật chất thì chỉ làm chậm trể sự
tiến bộ của đạo đức và tâm trí. Đó là hai thái cực cần phải tránh. Sau 48 ngày đêm
nhập định, Siddhattha đã ngộ đạo, nhận thức được căn nguyên sinh thành biến hoá

12


của vũ trụ vạn vật, tìm được nguồn góc của nỗi khổ và từ đó chỉ ra phương pháp

diệt trừ nỗi khổ cho chúng sinh bằng học thuyết “nhân sinh duyên” và triết lý “tứ
diệt đế”, “ Thập nhị nhân duyên”, “ Bát chánh đạo”. Tất Đạt Đa đã trở thành Phật
Thích Ca Mâu Ni, còn gọi là Đức Phật, lúc này ngài vừa đúng 35 tuổi.
Sau khi đắc đạo Đức Phật bắt đầu cuộc thuyết giáo dài tới 45 năm. Những nơi
có nhân duyên sâu nặng với Đức Thích ca mà Ngài lưu lại thuyết giáo lâu nhất là
thành Vương Xá của nước Ma Kiệt Đà, thành Xá Vệ của nước Kiều Tất La, thành
Bà La Nại của nước Ca Thi. Năm 80 tuổi , Đức Phật nhận thấy cơ duyên giáo hóa
chúng sinh đã viên mãn và quyết định nhập niết bàn dư y. Để ban lời giáo huấn cuối
cùng, chỉ trong một ngày đêm, Đức Phật đã nói xong bộ kinh Đại Bát Niết Bàn. Rồi
Ngài lên tòa thất bảo, nằm nghiên sườn bên trái, đầu gối về phía Bắc, chân duỗi về
phương Nam đi vào đại diệt độ ( Mahàvirvàna), nhằm vào ngày 15 tháng 02. Sau
khi Đức Phật nhập niết bàn, Ngài Ma Ka Diếp và Đại Chúng rước kim quan của
Đức Phật tới giàn thiêu để làm lễ Trà tỳ.
Qua hơn 40 năm hoằng pháp và truyền đạt giáo lý Phật giáo khăp Ấn Độ. Ông
qua đời ở tuổi 80 và để lại cho nhân loại những tư tưởng triết học Phật giáo vô cùng
quý báu. Với mục đích nhằm giải phóng con người khỏi mọi khổ đau bằng chính
cuộc sống đức độ của con người, Phật giáo nhanh chóng chiếm được tình cảm và
niềm tin của đông đảo quần chúng nhân dân lao động. Nó đã trở thành biểu tượng
của lòng từ bi bác ái trong đạo đức truyền thống của các dân tộc Châu Á. Kinh điển
của phật giáo rất đồ sộ gồm ba bộ phận gọi là “tam tạng kinh” bao gồm Tạng kinh,
Tạng luật và Tạng luận.
1.1.2. Quá trình phát triển của phật giáo
Sự phân phái các hệ thống triết lý tôn giáo lớn trong quá trình phát triển của
mình đã trở thành một hiện tượng mang tính quy luật và đạo Phật cũng không nằm
ngoài quy luật đó.
Sau khi Đức Phật diệt độ, các môn đệ cũng như các tăng sỹ trong hàng ngũ
tăng gia có quan điểm khác nhau về giáo lý và giới luật của Đức Phật cùng với sự
thay đỗi của cuộc sống xã hội lúc bấy giờ đã dẫn đến sự phân phái trong Đạo Phật.

13



Quá trình phân phái đó bắt đầu từ khi Đức Phật diệt độ và gắn liền với 4 kỳ kết tập
của phật giáo.
Kết tập lần một (gọi là Hội thánh kỳ đầu hay kết tập 500) được tổ chức sau khi
Phật tịch khoảng 100 ngày (khoảng thế kỷ V Tcn) do Đại Ca Diếp triệu tập và làm
chủ tọa. “Chư Thánh Tăng hội kỳ đầu cốt dọn thành bộ Tam Tạng kinh đề dìu dắt
Chư Tăng và tránh cho nhau những sự sai lầm có thể xảy ra”. Đại hội này kéo dài 7
tháng có 500 tỳ kheo tham dự. Tại Đại hội này, Ananda kể lại lời Phật dạy về giáo
lý, Ưu Bà Ly kể lại lời Phật nói về giới luật tu hành, Đại Ca Diếp kể về những lời
luận giải của Phật về giáo lý và giới luật. Như vậy, về nguyên tắc Tam Tạng của
Phật giáo được khởi soạn từ đây nhưng tất cả đều không được ghi bằng văn tự.
Kết tập lần hai (Hội thánh kỳ hai, kết tập 700). Đây là “đại hội các vị trưởng
lão” được tiến hành khoảng thế kỷ IV TCN, kéo dài 8 tháng với 700 tỳ kheo tham
dự. Đại hội lần này chủ yếu giải quyết những bất đồng về việc thực hành giới luật
và luận giải kinh điển. Đại hội này đánh dấu cho việc Phật giáo tách thành hai phái:
Thượng Tọa bộ và Đại chủng bộ.
Kết tập lần ba (Hội thánh kỳ 3) tiến hành giữa thế kỷ III Tcn, do vua A Dục
(Asoka) đứng ra triệu tập. Đại hội kéo dài 9 tháng với 1000 tỳ kheo tham dự. Lần
kết tập này Tam Tạng đã được ghi lại bằng văn bản với cả hai thứ tiếng Sankrit và
Paly. Sau kết tập được sự bảo trợ của vua A Dục các tăng đoàn được thành lập và
bắt đầu truyền bá đạo Phật ra nước ngoài.
Kết tập lần bốn được tiến hành dưới triều vua Ca Nhị Sắc Ca (Kaniska), năm
125-150 Scn, với 500 tỳ kheo tham dự. Kết tập đã hoàn chỉnh “kinh điển” của Phật
giáo và tồn tại cho đến ngày nay. Cũng từ lần kết tập này, Phật giáo chính thức chia
thành hai phái: Tiểu thừa và Đại thừa.
Tiểu thừa có nghĩa là cỗ xe nhỏ. Phái này chủ trương ai tu thì độ lấy mình.
Kinh sách ban đầu chủ yếu viết bằng tiếng Paly và chủ yếu truyền đạo về phía Nam
Ấn như Xrilanca, Lào, Thái Lan, Campuchia, Miến Điện nên còn gọi là Nam tông.
Tiểu thừa có hai phái lớn là: Phái “Nhất thiết hữu bộ” tập trung nghiên cứu phạm

trù thời gian, phái “Kinh bộ” xây dựng “lý thuyết về tính chốc lát”. Về sau Tiểu

14


thừa còn có nhiều phái khác như Câu xá tông, Thành thực tông, Luật tông…
Đại thừa có nghĩa là cỗ xe lớn, phái này không chỉ tự giác ngộ cho mình mà
còn giác ngộ cho mọi người. Kinh sách thường viết bằng tiếng Sankrit và phát triển
mạnh về phía Bắc Ấn như Nêpan, Tây Tạng, Mông Cổ, Trung Quốc, Nhật bản, Việt
Nam nên còn gọi là Bắc tông.
Đại thừa có hai phái lớn: Phái “Trung luận” (Madhymika) do sư Long Thọ lập
ra ở thế kỷ II Scn. Phái này truyền tụng chủ yếu là các kinh Hoa Nghiêm; Phái “Du
già” (Yogacara) do hai anh em Vô Trước (Asangha) và Thế Thân (Vasubhandha)
sáng lập ở thế kỷ IV Scn. Kinh sách truyền tụng của phái này thường là Du già sư
địa luận (duy thức luận), đại thừa luận, kim cương bát nhã luận. Về sau Đại thừa
còn có nhiều tông phái khác như: Pháp tướng tông, Tam luận tông, Hoa Nghiêm
tông, Thiên thai tông, Mật tông (chân ngôn tông), Thiền tông, Tịnh độ tông…
1.1.3. Những tư tưởng cơ bản của Phật giáo
Tư tưởng triết học Phật Giáo ban đầu chỉ là truyền miệng, sau đó được viết
thành văn thể trong một khối kinh điển rất lớn, gọi là “Tam Tạng”, Gồm 3 Tạng
kinh điển là: Tạng Kinh, Tạng Luật, và Tạng Luận. Trong đó thể hiện các quan
điểm về thế giới và con người.
1.1.3.1. Quan điểm của Phật giáo về thế giới quan
Quan điểm về thế giới quan của Phật giáo thể hiện tập trung ở nội dung của 3
phạm trù: vô ngã, vô thường và duyên.
*Vô ngã (không có cái tôi chân thật)
Trái với quan điểm của kinh Vêđa, đạo Bàlamôn và đa số các môn phái triết
học tôn giáo đương thời thừa nhận sự tồn tại của một thực thể siêu nhiên tối cao,
sáng tạo và chi phối vũ trụ, Phật giáo cho rằng thế giới xung quanh ta và cả con
người không phải do một vị thần nào sáng tạo ra mà được cấu thành bởi sự kết hợp

của 2 yếu tố là “Sắc” và “Danh”. Trong đó, Sắc là yếu tố vật chất, là cái có thể cảm
nhận được, nó bao gồm đất, nước, lửa và không khí; Danh là yếu tố tinh thần,
không có hình chất mà chỉ có tên gọi. Nó bao gồm: thụ (cảm thụ), tưởng (suy nghĩ),
hành (ý muốn để hành động) và thức (sự nhận thức).

15


Danh và sắc kết hợp lại tạo thành 5 yếu tố gọi là “Ngũ uẩn”. Ngũ uẩn bao
gồm sắc (vật chất), thụ (cảm giác), tưởng (ấn tượng), hành (suy lý) và thức (ý thức),
chúng tác động qua lại với nhau tạo nên vạn vật và con người. Nhưng sự tồn tại của
sự vật chỉ là tạm thời, thoáng qua, không có sự vật riêng biệt nào tồn tại mãi mãi.
Do đó, không có “Bản ngã” hay cái tôi chân thực.
*Vô thường (vận động biến đổi không ngừng)
Đạo Phật cho rằng “Vô thường” là không cố định, luôn biến đổi. Các sự vật,
hiện tượng trong vũ trụ không đứng yên mà luôn luôn biến đổi không ngừng, không
nghỉ theo chu trình bất tận là “sinh – trụ – dị – diệt”. Nghĩa là sinh ra, tồn tại, biến
dạng và mất đi.
Do đó, không có gì trường tồn, bất định, chỉ có sự vận động biến đổi không
ngừng.Với quan niệm này, Đức Phật dạy: “tất cả những gì trong thế gian đó là biến
đổi, hư hoại, đều là vô thường”. Vì vậy mọi sự vật không mãi ở yên trong một trạng
thái nhất định, luôn luôn thay đổi hình dạng, đi từ trạng thái hình thành đến biến đi
rồi tan rã. Sinh và diệt là hai quá trình xảy ra đồng thời trong một sự vât, hiện tượng
cũng như trong toàn thể vũ trụ rộng lớn. Đức Phật cũng dạy rằng không phải là sự
vật, hiện tượng sinh ra mới gọi là sinh, mất (hay chết đi) mới gọi là diệt, mà trong
sự sống có sự chết, chết không phải là hết, không phải là hết khổ mà chết là điều
kiện của một sinh thành mới.
*Duyên (điều kiện cho nguyên nhân trở thành kết quả)
Bàlamôn Phật giáo cho rằng, mọi sự vật, hiện tượng trong vũ trụ từ cái nhỏ
nhất đến cái lớn nhất đều chịu sự chi phối của luật nhân duyên. Trong đó duyên là

điều kiện giúp cho nguyên nhân trở thành kết quả. Kết quả ấy lại nhờ có duyên mà
trở thành nhân khác, nhân khác lại nhờ có duyên mà trở thành kết quả mới. Cứ như
vậy mà tạo nên sự biến đổi không ngừng của các sự vật, tuân theo quy luật “NhânQuả”, nhân là cái hạt, quả là cái trái, cái trái do mầm ấy phát sinh. Nhân và quả là
hai trạng thái nối tiếp nhau, nương vào nhau mà có. Nếu không có nhân thì không
thể có quả, nếu không có quả thì không thể có nhân, nhân thế nào thì quả thế ấy.
Hạt lúa được gọi là “nhân” khi gặp “duyên” là điều kiện thuận lợi về không khí,

16


nước, ánh sáng, nhiệt độ…thì nhân sẽ phát triển thành “quả” là cây lúa.
Như vậy, thông qua các phạm trù Vô ngã, Vô thường và Duyên, triết học Phật
giáo đã bác bỏ quan điểm duy tâm lúc bấy giờ cho rằng thần Brahman sáng tạo ra
con người và thế giới. Phật giáo cho rằng sự vật và con người được cấu thành từ các
yếu tố vật chất và tinh thần. Các sự vật hiện tượng thế giới nằm trong quá trình liên
hệ, vận động, biến đồi không ngừng. Nguyên nhân của sự vận động, biến đổi nằm
trong các sự vật. Đó là quan điểm biện chứng về thế giới tuy còn mọc mạc chất phát
nhưng rất đáng trân trọng. Và đó cũng là quan điểm duy vật biện chứng về thế giới.
1.1.3.2. Quan điểm của Phật giáo về nhân sinh quan
Nội dung triết lý nhân sinh của Phật giáo được thể hiện tập trung trong thuyết
“Tứ Diệu Đế” (Tứ thánh đế – Catvary Arya Satya) tức là 4 chân lý tuyệt diệu đòi
hỏi mọi người phải nhận thức được. Tứ diệu đế là:
* Khổ đế:
Chân lí về sự khổ, cho rằng mọi dạng tồn tại đều mang tính chất khổ não,
không trọn vẹn, cuộc đời con người là một bể khổ. Phật xác nhận đặc tướng của
cuộc đời là vô thường, vô ngã và vì vậy mà con người phải chịu khổ. Có 8 nỗi khổ
là: sinh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, thụ biệt khổ (yêu thương nhau phải xa
nhau), oán tăng hội (ghét nhau phải gần nhau), sở cầu bất đắc (mong muốn mà
không đạt được) và ngũ thụ uẩn (do 5 yếu tố tạo nên con người).
Như vây, cái khổ về mặt hiện tượng là cảm giác khổ về thân, sự bức xúc của

hoàn cảnh, sự không toại nguyện của tâm lý về bản chất. Về phương triết học, khổ
đau là một thực tại đối với con người, khổ đế là một chân lý khách quan hiện thực.
Khổ hay hình thái bất an là kết quả hàng lọat nhân duyên được tạo tác từ tâm thức.
Như vậy tri nhân thực tại là một cách trực tiếp đi vào soi sáng mọi hình thái khổ đau
của con người. Để thấu hiểu triệt để cái căn nguyên của khổ đau, con người không
thể dừng lại ở sự thật của đau khổ, hay quay mặt chạy trốn, mà phải đi vào soi sáng
cái bản chất nội tại của nó.
Đạo Phật cho rằng đời là bể khổ, nỗi đau khổ là vô tận, là tuyệt đối. Do đó,
con người ở đâu, làm gì cũng khổ. Cuộc đời là đau khổ không còn tồn tại nào khác.

17


Ngay cả cái chết cũng không chấm dứt sự khổ mà là tiếp tục sự khổ mới. Phật ví sự
khổ của con người bằng hình ảnh: “Nước mắt của chúng sinh nhiều hơn nước biển”.
*Nhân đế (hay Tập đế):
Là triết lý về sự phát sinh, nguyên nhân gây ra sự khổ. “Tập” là tụ hợp, kết tập
lại. Nguyên nhân của khổ là sự ham muốn, tìm sự thoả mãn dục vọng, thoả mãn
được trở thành, thoả mãn được hoại diệt… Các loại ham muốn này là gốc của luân
hồi. Đạo Phật cho rằng nguyên nhân sâu xa của sự khổ, phiền não là do “thập nhị
nhân duyên”, tức 12 nhân duyên tạo ra chu trình khép kín trong mỗi con người. 12
nhân duyên gồm:
1. Vô minh (không sáng suốt): đồng nghĩa với mê tối, ít hiểu biết, không sáng
suốt. Không hiểu được đời là bể khổ, không tìm ra nguyên nhân và con đường thoát
khổ. Trong mười hai nhân duyên, vô minh là căn bản. Nếu không thấu hiểu Tứ diệu
đế cũng được gọi là Vô minh.
2. Duyên hành: là ý muốn thúc đẩy hành động.
3. Duyên thức: tâm từ trong sáng trở nên u tối.
4. Duyên danh sắc: sự hội tụ các yếu tố vật chất và tinh thần sinh ra các cơ
quan cảm giác (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân thể và ý thức).

5. Duyên lục nhập: là quá trình xâm nhập của thế giới xung quanh vào các giác
quan cảm giác, lúc đó thân sẽ sinh ra sáu cửa là: nhãn, nhĩ, tỳ, thiệt, thân để thiêu
hủy, đón nhận.
6. Duyên xúc: là sự tiếp xúc của thế giới xung quanh sinh ra cảm giác. Đó là
sắc, thính, hương vị, xúc và pháp khi tiếp xúc, đụng chạm vào.
7. Duyên thụ: là sự cảm thụ, sự nhận thức khi thế giới bên ngoài tiếp xúc với
lục căn sinh ra cảm giác.
8. Duyên ái: là yêu thích mà nảy sinh ham muốn, dục vọng trước sự tác động
của thế giới bên ngoài.
9. Duyên thủ: do yêu thích quyến luyến, không chịu xa lìa, rồi muốn chiếm
lấy, giữ lấy không chịu buông ra.
10. Duyên hữu: cố để dành, tồn tại để tận hưởng cái đã chiếm đoạt được.

18


11. Duyên sinh: sự ra đời, sinh thành do phải tồn tại.
12. Duyên lão tử: khi đã sinh thì xác thân phải tiêu hoại mỏi mòn, trẻ rồi già,
ốm đau rồi chết.
Thập nhị nhân duyên có nhiều cách giải thích khác nhau nhưng nhìn chung
đều cho rằng chúng có quan hệ mật thiết với nhau, cái này là nhân, làm duyên cho
cái kia, cái này là quả của cái trước, đồng thời là nhân cho cái sau. Cũng có lời giải
thích là 12 yếu tố tích luỹ đưa đến cái khổ sinh tử hiện tại mà yếu tố căn đế là ái và
thủ, nghĩa là tham lam, ích kỷ, còn gọi là ngã chấp. Mười hai nguyên nhân và kết
quả nối tiếp nhau tạo ra cái vòng lẩn quẩn của nổi khổ đau nhân loại.
Nguyên nhân sâu hơn và căn bản hơn chính là vô minh, tức là si mê không
thấy rõ bản chất của sự vật hiện tượng đều nương vào nhau mà sinh khởi, đều vô
thường và chuyển biến, không có cái chủ thể, cái bền vững độc lập ở trong chúng.
Chúng ta có thể nhận thấy một cách rõ ràng, khổ hay không là do lòng mình. Hay
nói cách khác, tùy theo cách nhìn của mỗi người đối với cuộc đời mà có khổ hay

không. Nếu không bị sự chấp ngã và dục vọng, vị kỹ hay phiền não khuấy động, chi
phối, ngự trị trong tâm thì cuộc đời đầy an lạc hạnh phúc.
*Diệt đế:
Là chân lý về diệt khổ. Phật giáo cho rằng mọi nỗi khổ điều có thể tiêu diệt
được để đạt tới trạng thái “niết bàn”. Một khi gốc của mọi tham ái được tận diệt thì
sự khổ cũng được tận diệt. muốn diệt khổ phải đi ngược lại 12 nhân duyên, bắt đầu
từ diệt trừ vô minh. Vô minh bị diệt, trí tuệ được bừng sáng, hiểu rõ được bản chất
tồn tại, thực tướng của vũ trụ là con người, không còn tham dục và kéo theo những
hành động tạo nghiệp nữa, tức là thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử. Nói cách khác
diệt trừ được vô minh, tham dục thì hoạt động ngũ vẩn dừng lại, tu đến niết bàn,
tịch diệt khi ấy mới hết luân hồi sinh tử.
Phật Giáo cho rằng, một khi người ta đã làm lắng dịu lòng tham ái, chấp thủ,
thì những nỗi lo âu, sợi hãi, bất an giảm dần, thâm tâm của bạn trở nên thanh thản,
đầu óc tĩnh táo hơn; lúc đó nhìn mọi vấn đề trở nên đơn giản hơn, rộng lượng hơn.
Đó là một hình thức hạnh phúc, cũng nhờ vậy tâm trí không bị chi phối bởi những

19


tư tưởng chấp thủ, nhờ không bị nung núng bởi các ngọn lửa phiền muộn, lo lắng sợ
hãi mà tâm lý của bạn trầm tĩnh và sáng suốt hơn, khả năng nhận thức sự vật hiện
tượng sâu sắc hơn, chính xác hơn, thâm tâm được chuyển hóa, thái độ ứng xử của
bạn với mọi người xung quanh rộng lượng và bao dung hơn. Tùy vào khả năng
giảm thiểu lòng tham, vô minh đến mức độ nào thì đời sống của bạn sẽ tăng phần
hạnh phúc đến mức độ ấy.
*Ðạo đế:
Là chân lý về con đường dẫn đến diệt khổ. Đây là con đường tu đạo để hoàn
thiện đạo đức cá nhân. Khổ được giải thích là xuất phát Thập nhị nhân duyên, và
một khi dứt được những nguyên nhân đó thì ta có thể thoát khỏi vòng sinh tử. Chấm
dứt luân hồi, vòng sinh tử đồng nghĩa với việc chứng ngộ niết bàn. Có 8 con đường

chân chính để đạt sự diệt khổ dẫn đến niết bàn gọi là “Bát chính đạo”. Bát chính đạo
bao gồm:
1. Chính kiến: hiểu biết đúng đắn và gìn giữ một quan niệm xác đáng về Tứ
diệu đế và giáo lí vô ngã.
2. Chính tư duy: suy nghĩ luôn có một mục đích đúng đắn, suy xét về ý nghĩa
của bốn chân lí một cách không sai lầm.
3. Chính ngữ: nói năng phải đúng đắn, không nói dối hay nói phù phiếm.
4. Chính nghiệp: giữ nghiệp đúng đắn, tránh phạm giới luật, không làm việc
xấu, nên làm việc thiện.
5. Chính mệnh: giữ ngăn dục vọng đúng đắn, tránh các nghề nghiệp liên quan
đến sát sinh.
6. Chính tinh tiến: cố gắng nổ lực đúng hướng không biết mệt mỏi để phát
triển nghiệp tốt, diệt trừ nghiệp xấu.
7. Chính niệm: tâm niệm luôn tin tưởng vững chắc vào sự giải thoát, luôn tỉnh
giác trên ba phương diện Thân, Khẩu, Ý.
8. Chính định: kiên định, tập trung tư tưởng cao độ suy nghĩ về tứ điệu đế, vô
ngã, vô thường, tâm ý đạt bốn định xuất thế gian.
Theo con đường bát chính đạo nói trên, con người có thể diệt trừ vô minh, đạt

20


tới sự giải thoát, nhập vào niết bàn là trạng thái hoàn toàn yên tĩnh, sáng suốt, chấm
dứt sinh tử luân hồi.
Ngoài ra Phật giáo còn đưa ra 5 đều nhằm răn đe đem lại lợi ích cho con người
và xã hội. Chúng bao gồm: bất sát (không sát sinh), bất dâm (không dâm dục), bất
vọng ngữ (không nói năng thô tục, bậy bạ), bất âm tửu (không rượu trà) và bất đạo
(không trộm cướp).
Như vậy, Phật giáo nguyên thuỷ có tư tưởng vô thần, có yếu tố duy vật và tư
tưởng biện chứng của thế giới. Phật giáo khuyên con người suy nghĩ thiện và làm

việc thiện nhằm góp phần hoàn thiện đạo đức cá nhân. Tuy nhiên trong triết lý nhân
sinh và con đường giải phóng của phật giáo vẫn mang nặng tính chất bi quan không
tưởng và duy tâm về xã hội. Và những tư tưởng xã hội phật giáo đã phản ánh thực
trạng xã hội đẳng cấp khắc nghiệt của xã hội Ấn Độ cổ – trung đại và nêu lên ước
vọng giải thoát nổi bi kịch cho con người lúc đó. Phật giáo cũng nói lên được tự do
bình đẳng trong xã hội nhưng triết lý nhân sinh vẫn còn mang nặng tính chất bi
quan không tưởng và duy tâm về xã hội.
1.2. Lịch sử du nhập và phát triển Phật giáo Việt Nam
1.2.1. Lịch sử du nhập phật giáo vào Việt Nam
Phật giáo đã mang đến cho con người một dòng suối mát trong của niềm vui
và hạnh phúc thật sự. Theo dòng chảy của sự phát triển phật giáo đã được du hập
vào xã hội Việt Nam, đánh thức tâm hồn con người, xoa dịu những nỗi đau mà con
người phải hứng chịu. Qua mọi khoảng cách của địa lý, khoảng cách về thời đại,
với bản chất khoan hoà của mình, Phật giáo đã hoà mình cùng với đời sống văn hoá
dân tộc Việt Nam, và đã trở thành một nét văn hoá của dân tộc ta.
Việt Nam nằm trong bán đảo Đông Dương, là cái gạch nối địa lý giữa hai nước
lớn, hai nền văn minh cổ xưa nhất của Châu Á và có thể là của cả loài người là Ấn
Độ và Trung Quốc. Với một địa thế, nằm kẹp giữa hai nước lớn như vậy, Việt Nam
tất nhiên chịu ảnh hưởng từ cả hai phía, phía Ấn Độ và phía Trung Quốc. Chính vì
vậy đạo phật đã được du nhập vào Việt Nam rất sớm, từ hai con đường là đường bộ
và đường thuỷ khoảng từ cuối thế kỷ II đầu thế kỷ III.

21


Xuất phát từ các hải cảng vùng Nam Ấn rồi qua ngã Srilanka, Indonesia, Việt
Nam…lợi dụng được luồng gió thổi định kỳ vào hai lần một năm phù hợp với hai
mùa mưa nắng ở khu vực Đông Nam Á, những thương nhân Ấn đã tới các vùng này
để buôn bán bằng những con thuyền buồm. Trong các chuyến đi viễn dương này,
các thương nhân thường cung thỉnh một hay hai vị tăng để cầu nguyện cho thủy thủ

đoàn và các vị tăng này nhờ đó mà đến truyền bá Đạo Phật vào các dân tộc ở Đông
Nam Á.
Ấn Độ là một bán đảo, cũng như bán đảo Đông Dương nhưng là một bán đảo
khổng lồ, cả một tiểu lục địa. Từ xa xưa trước công nguyên, thương nhân Ấn Độ đã
giao thương với các nước Ả rập, các nước ven biển Địa Trung Hải và nhất là với đế
quốc La Mã, tiêu thụ rất nhiều vàng ngọc, châu báu, hương liệu, lụa là, trầm quế…
Để có đủ hàng cung cấp cho thị trường phương Tây, thương nhân Ấn Độ đống
thuyền theo gió mùa Tây Nam đi về phía Đông Nam Á, đến Mã Lai, quần đảo Nam
Dương, vượt eo biển Malacca vào biển Đông, đến Việt Nam, rồi đến Trung Hoa,
Nhật Bản. Khi đi thì lựa theo gió mùa Tây Nam, khi về thì phải chờ tới sang năm,
theo mùa gió Đông Bắc. Ròng rã một năm ở lại, đủ thời giờ cho họ buôn bán, và
ảnh hưởng dần dần, sâu đậm đến các dân tộc địa phương trên mặt sản xuất, văn hóa,
sinh hoạt tôn giáo. Lịch sử chính thức xác nhận năm 240 trước Tây lịch, Mahodacon vua A dục (Asoka) đã đưa Đạo Phật vào Việt Nam.
Dưới thời vua A-dục trị vì tại Ấn Độ (273 – 232 TCN), nhờ sự ủng hộ của nhà
vua nên đạo Phật đã được truyền đi nhiều xứ sở bên ngoài Ấn Độ. Các thương nhân
người Ấn theo đường biển đã đến Giao Chỉ buôn bán và mang theo đạo Phật mới
mẻ đến xứ này. Sau đó đến lượt các tăng sĩ người Ấn tới đây truyền đạo, góp phần
lập ra trung tâm đạo Phật tại Luy Lâu (nay thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc
Ninh, Việt Nam), một trong những trung tâm lớn nhất của đạo Phật tại phương
Đông đầu Công nguyên cùng với hai trung tâm Lạc Dương và Bành Thành (nay
thuộc Trung Quốc).
Tư liệu trong Lĩnh Nam Chính Quái cho biết một dữ kiện chứng tỏ sự có mặt
của đạo Phật vào đời Hùng Vương thứ 3 (triều đại thứ 18 Vua Hùng kể từ trước

22


công nguyên 2879-258). Đó là truyện “Nhất Dạ Trạch”, chuyện kể Tiên Dung, con
gái vua Hùng Vương thứ 3 lấy Đồng Tử. Đồng Tử và Tiên Dung lập phố xá buôn
bán giao thiệp với người nước ngoài. Một hôm Đồng Tử theo một khách buôn ngoại

quốc đến núi Quỳnh Viên trên núi có am nhỏ, tại đây Đồng Tử đã gặp một nhà sư
Ấn Độ tên Phật Quang. Phật Quang đã truyền pháp cho Đồng Tử và Nhờ đó mà
Đồng Tử và Tiên Dung đã biết đến Đạo Phật. Qua dữ kiện này ta thấy sự hiện diện
của Phật Giáo do các tăng sĩ Ấn Độ truyền vào Việt Nam khá lâu trước công
nguyên.
Thiền Uyển Tập Anh cũng ghi nhận cuộc đàm luận giữa thiền sư Thông Biện
và Thái Hậu Phù Thánh Linh Nhân (Ỷ Lan) (khi bà hỏi về nguồn gốc Đạo Phật Việt
Nam vào dịp các cao tăng trong nước tập hợp tại chùa Khai Quốc (nay là chùa Trấn
Quốc – Hà Nội) vào ngày rằm tháng 2 năm 1096) Thông Biện dẫn chứng lời pháp
sư Đàm Thiên (542-607) đối thoại với Tùy Cao Đế (?-604): “Một phương Giao
Châu, đường sang Thiên Trúc, Phật pháp lúc mới tới, thì Giang Đông (Trung Hoa)
chưa có, mà Luy Lâu lại dựng chùa hơn 20 ngôi, độ tăng hơn 40 người, dịch kinh
được 15 quyển, vì nó có trước vậy, vào lúc ấy thì đã có Khâu Đà La, Ma Ha Kỳ
Vực, Khương Tăng Hội, Chi Cương Lương, Mâu Bác tại đó”. Ma Ha Kỳ vực, Khâu
Đà La (188) người Ấn Độ hay Trung Á; Mâu Bác (165-170) người Trung Hoa;
Khương Tăng Hội (200-247) người Ấn Độ; Chi Cương Lương (?-264) người xứ
Nhục Chi, theo sử chép đó là các vị sư có mặt sớm nhất ở Giao Châu vào khoảng
thế kỷ thứ hai đến thế kỷ thứ ba. Có lẽ đây chỉ là những vị được sử ghi lại tên tuổi,
kỳ thực đây không phải là phái đoàn truyền bá đầu tiên đến Việt Nam, vì từ thế kỷ
thứ ba trước Tây lịch đến thế kỷ thứ hai sau Tây Lịch chắn chắc đã có nhiều tăng sĩ
đặt chân đến hoằng Pháp tại Việt Nam, cho nên Pháp sư Đàm Thiên chỉ dẫn phần
giới hạn và căn cứ vào sự có mặt của tác phẩm “Lý hoặc Luận” của Mâu Bác.
Qua nhiều tài liệu lịch sử và dựa vào địa lý, thiên nhiên, cư dân, lịch sử có thể
cho chúng ta một kết luận chắn chắc rằng đạo Phật đã được truyền trực tiếp vào
Việt Nam chứ không thông qua Trung Hoa bằng con đường biển. Tuy nhiên, cũng
có nhiều cứ liệu lịch sử chứng minh rằng đạo Phật đồng thời được truyền vào Việt

23



Nam qua con đường bộ hay còn gọi là con đường tơ lụa con đường này nối liền
Đông Tây, phát xuất từ vùng Đông Bắc Ấn Độ, Assam hoặc phía Trung Á, một
nhánh của đường tơ lụa đi từ Châu Âu qua các vùng thảo nguyên và vùng sa mạc ở
Trung Á tới Lạc Dương bằng phương tiện lạc đà. Các con đường bộ không thiếu
nhưng vất vả và khó nhọc hơn. Trước hết là có những con đường vừa thủy vừa bộ
khá tiện lợi. Thay vì đi vòng xuống eo biển Malacca, xa về phía Nam, thương nhân
Ấn Độ có thể chuyển hàng hóa qua eo biển Kra và bán đảo Mã Lai, theo những
tuyến đường bộ tiện lợi, có thể vượt vài giờ, nối liền biển nọ đến biển kia.Từ Nam
Ấn, thương nhân Ấn Độ có thể dùng thuyền không lớn vượt thủy đạo hẹp giữa
Andaman và Nicobar, hoặc là quá xuống phía Nam, thủy đạo giữa Nicobar và
Achin. Tuyến đường thứ hai dẫn tới điểm Kadah. Tại hai điểm này, các nhà khảo cổ
học đã khai quật được nhiều đồ vật cổ thuộc nền văn minh Ấn Độ thời xưa.
Cũng có thể các thương nhân và tăng sĩ qua vùng Tây Tạng và các triền sông
Mekong, sông Hồng, sông Đà mà vào Việt Nam. “Lịch sử Phật giáo Việt Nam” (Hà
Nội, 1988) có nói rõ: “Các thương nhân xuất phát từ Trung Ấn có thể dùng tuyến
đường bộ ngang qua đèo Ba Chùa và theo sông Kanburi mà xuống Châu Thổ
Mênam, bằng tuyến đường hiện nay vẫn nối liền cảng Moulmein với thành phố
Raheng, nằm trên một nhánh của con sông Mênam (…) chính tuyến đường này dẫn
tới vùng Bassak ở trung lưu sông Mekong, địa bàn của vương quốc Kambijan.
Vương quốc này có thể là do những di dân Ấn Độ thành lập trước công nguyên. Rất
có thể các tăng sĩ Ấn Độ vào đầu công nguyên đã theo con đường này mà đến đất
Lào, rồi từ đây vượt Trường Sơn sang Thanh Hóa hay Nghệ An”. Xa về phía bắc,
thì con đường nối Ấn Độ với Nam Trung Quốc ngang qua Assam, thượng Miến
Điện, và Vân Nam. Tuyến đường này hình như đã được sử dụng từ thế kỷ II và
thậm chí trước đó nữa.
Những dữ kiện về con đường biển và con đường bộ có liên quan đến sự giao
lưu của Việt Nam tuy chưa nhiều chứng minh có những chứng tích mà lịch sử còn
để lại, dù lịch sử truyền miệng hay thành văn, theo lịch sử Phật giáo Việt Nam thì
vào thế kỷ thứ II trước Tây lịch, vua Ấn Độ Asoka sau cuộc đại hội kết tập kinh


24


điển lần thứ ba, vua và trưởng lão Tissa Moggaliputta đã gởi nhiều phái đoàn Như
Lai sứ giả lên đường truyền bá chánh pháp cho các nước thuộc vùng viễn đông,
trong đó có đoàn của hai vị cao tăng là Uttara và Sona được phái đến Suvana
-Bhumi, xứ Kim Địa. Tuy có nhiều ý kiến khác nhau về vùng Kim Địa nhưng ý
kiến trong quyển lịch sử Phật giáo thế giới thì cho rằng vùng Kim Địa này là bán
đảo Đông Dương từ Miến Điện kéo dài đến Việt Nam. Vấn đề này được sách Lịch
Sử Phật Giáo Việt Nam viết: Sử liệu Phật Giáo Miến Điện chép rằng hai vị cao
tăng đó (Uttara và Sona) đã đến Miến Điện truyền giáo nhưng sử liệu Phật giáo tại
Thái Lan cũng ghi là hai cao tăng Uttara và Sona có đến Thái Lan truyền giáo. Nói
chung căn cứ theo các tư liệu trên thì chúng ta có thể khẳng địng rằng Phật giáo
truyền vào Việt Nam khoảng đầu công nguyên bằng hai con đường thủy và bộ.
Ngay sau khi được du nhập và hình thành, Phật giáo Việt Nam phát triển mạnh mẽ
và trở thành quốc giáo bởi những giá trị tốt đẹp của nó.
1.2.2. Quá trình phát triển Phật giáo ở Việt Nam
Từ khi được du nhập vào nước ta, Phật giáo đã luôn luôn đồng hành cùng lịch
sử phát triển của dân tộc. Trong những năm đầu khi mới được truyền vào Việt Nam
Phật giáo chưa phát triển mà chỉ phớt qua trên mọi miền đất nước. Và dần dần có
ảnh hưởng sâu rộng tới các triều vua về sau nhất là triều Lý và Trần, các triều đại
sau này Phật giáo ngày càng bị suy đồi do một phần ảnh hưởng của chiến tranh triền
miên mang lại.
Có thể chia quá trình phát triển phật giáo ở Viêt nam qua 3 thời kỳ
*Thời kỳ cực thịnh
Phật giáo đời Đinh Tiên Hoàng và Tiền Lê (968 -1009) phất triển mạnh mẽ và
giữ vị trí độc tôn.
Sau một nghìn năm Bắc Thuộc, năm 905 (thế kỷ X) Giao Châu chính thức độc
lập. Năm 968 Đinh Tiên Hoàng lên ngôi vua, lập ra nhà Đinh, đặt tên nước là Đại
Cồ Việt, mở ra thời kì độc lập và thống nhất phát triển lâu dài trong lịch sử Việt

Nam. Đạo Phật thời này cũng không là ngoại lệ, đã phát triển đến đỉnh cao và tham
dự vào nhiều sự kiện hệ trọng của đất nước. Khởi đầu là Đinh Tiên Hoàng với việc

25


lập ra chức tăng thống – người đứng đầu phật giáo của đất nước trong lịch sử.
Như ta đã thấy, Phật Giáo Việt Nam của thế kỷ thứ V chỉ còn ghi lại hai thiền
sư là Đạt Ma Đề Bà và Huệ Thắng. Thế kỷ thứ VI ghi lại hai thiền sư Việt Nam:
Quán Duyên và Pháp Thiền. Chính trong thế kỷ này mà thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi
đến Việt Nam. Ba thế kỷ tiếp theo, thế kỷ VII, VIII và IX là ba thế kỷ thuộc nhà
Đường cai trị, đến thế kỷ X thì Việt Nam mới bắt đầu giành được quyền tự chủ.
Chính trong thế kỷ này Đạo Phật mới thực sự hưng thịnh và có những đóng góp tích
cực cho đất nước. Năm 971 vua Đinh Tiên Hoàng định giai cấp cho tăng sĩ và ban
chức tăng thống cho Thiền sư Ngô Chân Lưu thuộc thiền phái Vô Ngôn Thông, và
ngài Khuông Việt Thái Sư, chính thức tiếp nhận Phật Giáo làm nguyên tắc chỉ đạo
tâm linh cho chính sự. Cũng chính trong thế kỷ này vua Lê Đại Hành đã mời thiền
sư Pháp Thuận và thiền sư Vạn Hạnh của thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi làm cố vấn
chính sự. Các thiền sư Khuông Việt, Pháp Thuận và Vạn Hạnh cũng đã tiếp tục trợ
giúp vua Lý Thái Tổ trong thế kỷ kế tiếp.
Nhà Lý ra đời đã đưa đạo Phật lên hàng quốc đạo, nhiều triều vua nối tiếp
nhau đã thực hiện rất nhiều Phật sự, không chỉ góp phần phát triển việc tu học mà
còn qua đó phát triển một nền văn hóa riêng của Đại Việt khác biệt với Trung Hoa.
Một dấu ấn quan trọng thời này là việc khai sinh Thiền phái Thảo Đường. Tuy
nhiên, vì khuynh hướng thiên trí thức và văn chương, thiền phái Thảo Ðường không
cắm rễ được trong quần chúng mà chỉ ảnh hưởng đến một số trí thức có khuynh
hướng văn học. Thiền Uyển Tập Anh tuy có ghi lại tên họ 19 vị thuộc thiền phái
Thảo Ðường. Đạo Phật thời nhà Lý có nhiều ảnh hưởng không chỉ với dân thường
mà cả vua quan. Có chín trên 19 vị của Thiền phái Thảo Đường là cư sĩ mà phần
lớn là vua quan, trong đó có ba vị vua là Lý Thánh Tông, Lý Anh Tông, và Lý Cao

Tông. Rất nhiều thiền sư đời Lý tham gia chính sự mà không tham dự chính quyền.
Nhà Trần lên nắm quyền tiếp tục kế thừa và phát triển thêm nền tảng xã hội đã
có từ thời Lý trong đó có đạo Phật. Nét nổi bật nhất của đạo Phật thời kì này so với
thời trước là sự ra đời của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, do người Việt sáng lập mà
tổ sư chính là vị vua rời bỏ chính sự để xuất gia Trần Nhân Tông.

26


×