Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Tiểu luận Vai trò bảo hiểm xã hội ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.93 KB, 28 trang )

MỤC LỤC
Chương I: Cơ sở lý luận về BHXH.
1.1.
1.2.

1.3.

Khái niệm của BHXH.
Hình thức, đối tượng áp dụng BHXH và chế độ của BHXH.
1.2.1.Hình thức và đối tượng áp dụng BHXH.
1.2.1.1. BHXH bắt buộc.
1.2.1.2. BHXH tự nguyện.
Vai trò của BHXH.
1.3.1.Vai trò của BH.
1.3.2.Vai trò của BHXH.
1.3.2.1. Vai trò của BHXH đối với NLĐ.
1.3.2.2. Vai trò của BHXH đối với NSDLĐ.
1.3.2.3. Vai trò của BHXH đối với xã hội.

Chương II: Vai trò của BHXH đối với kinh tế - xã hội.
Vai trò của BHXH đối với NLĐ.
2.1.1. Chế độ ốm đau;
2.1.2. Chế độ thai sản;
2.1.3. Chế độ TNLĐ – BNN;
2.1.4. Chế độ hưu trí;
2.1.5. Chế độ tử tuất.
2.2. Vai trò của BHXH đối với NSDLĐ.
2.3. Vai trò của BHXH đối với xã hội.
2.4. Vai trò của BHXH đối với nền kinh tế.
2.1.


Chương III: Thực trạng và giải pháp.
Thực trạng.
3.1.1.Số lượng đối tượng tham gia, số thu cho quỹ và sự tăng trưởng
hàng năm.
3.1.1.1. Số lượng người tham gia BHXH.
3.1.1.2. Số thu cho quỹ BHXH.
3.1.1.3. Số chi cho BHXH.
3.1.2.Tình trạng nợ đóng quỹ BHXH.
3.1.3.Việc chấp hành chế độ BHXH.
3.1.4.Nội dung quy định trong luật BH.
3.2. Giải pháp.
3.2.1.Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về vai trò của BHXH.
3.1.


3.2.2.Đẩy mạnh công tác quản lý trong hệ thống BHXH.
3.2.3.Nghiêm chỉnh chấp hành chế độ báo cáo theo quy định.
3.2.4.Củng cố hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật liên

việc thực hiện.

quan đến


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT



DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1: Số người tham gia BHXH giai đoạn 2007 – 2012

Bảng 2: Tỷ lệ NLĐ và DN tham gia BHXH năm 2014
Bảng 3: Thu quỹ BHXH từ đóng góp của NLĐ
Bảng 4: Thu từ nguồn quỹ tạm thời nhàn rỗi
Bảng 5: Tổng hợp đối tượng giải quyết hưởng chế độ BHXH giai đoạn 2007 –
2012
Bảng 6: Chi giải quyết chế độ từ nguồn Quỹ BHXH giai đoạn 2007- 2012


LỜI MỞ ĐẦU
BHXH có vai trò đặc biệt quan trọng trong thúc đẩy sự phát triển kinh tế
- xã hội bền vững, công bằng và an toàn trong mỗi quốc gia trên thế giới.
Hiện nay, khi đã trở thành một phần cơ bản nhất trong hệ thống ASXH,
BHXH là cơ sở để phát triển các bộ phận ASXH khác. Không chỉ vậy, BHXH
còn phản ánh trình độ phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia.
BHXH có vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống xã hội của các tầng
lớp LĐ và dân cư. Đồng thời, BHXH là nhân tố đảm bảo ổn định chính trị xã hội trong nền kinh tế thị trường.
Ở nước ta, trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường, BHXH được
Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm, được quy định trong Hiến pháp, văn
kiện của Đảng và được ban hành thành Luật BHXH. Trong tiến trình phát
triển đất nước, pháp luật BHXH của nước ta không ngừng được bổ sung, hoàn
thiện để phù hợp với vận hành nền kinh tế thị trường và xu thế BHXH trên thế
giới.
BHXH là một lĩnh vực chuyên môn nghiệp vụ có tính khoa học và thực
tiễn phong phú. Theo thời gian, BHXH ngày càng phát triển, đem lại lợi ích
thiết thực cho mỗi con người trong xã hội. Nhưng nhiều người lại chưa nhận
thức được tầm quan trọng, cũng như lợi ích của BHXH đem lại. Dẫn đến việc
NSDLĐ trốn đóng hay chậm đóng BHXH cho NLĐ hay NLĐ không tham gia
BHXH… Chính vì vậy sau quá trình học tập và tìm hiểu em đã chọn đề tài
cho bài tiểu luận của mình là: “ Phân tích và làm sáng tỏ vai trò của BHXH
trong đời sống kinh tế - xã hội.”, nhằm góp một phần nhỏ bé của mình vào

việc nâng cao vai trò của BHXH
Do kinh nghiệm còn chưa nhiều và nguồn tài liệu tham khảo còn hạn chế
nên bài tiểu luận này không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận
được sự góp ý của cô để em có thể rút ra kinh nghiệm cho bản thân. Em cũng
gửi lời cảm ơn chân thành đến cô THS.Nguyễn Thị Vân Anh, người đã tận
tình giảng dạy và hướng dẫn, giúp em hoàn thành bài tiểu luận này.


PHẦN NỘI DUNG
Chương I: CƠ SỞ LÝ CHUNG VỀ BHXH
1.1.

Khái niệm BHXH.

Theo giáo sư Henri Kliler thuộc trường đại học tổng họp tự do Bruxelles
của Bỉ đã đưa ra khái niệm về BHXH và các nội dung của khái niệm như sau:
“ BHXH là toàn bộ các luật và quy định nhằm đảm bảo cho NLĐ hưởng
lương ( và NLĐ tự do với một số hạn chế) cũng như gia đình họ ( những
người có quyền theo quy định) được hưởng trợ cấp khi họ ở trong hoàn cảnh
hoặc mất toàn bộ hay một phần thu nhập từ LĐ hoặc phát sinh những chi phí
cần được hỗ trợ( như việc học hành của con cái và chăm sóc y tế)”. Theo khái
niệm này, BHXH sẽ bao gồm: BH y tế, BH tàn tật, trợ cấp gia đình, thai sản,
trợ cấp TNLĐ – BNN, BH hưu trí và tử tuất, trợ cấp thất nghiệp.
Theo tập 1 Từ điển Bách khoa VN thì: “ BHXH là sự thay thế hoặc bù
đắp 1 phần thu nhập cho NLĐ khi họ bị mất hoặc giảm thu nhập do ốm đau,
thai sản, tNLĐ, bnn, tàn tật, thất nghiệp, tuổi già, tử tuất, dựa trên cơ sở 1 quỹ
tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH có sự bảo hộ của Nhà
nước theo pháp luật, nhằm đảm bảo an toàn đời sống cho NLĐ và gia đình họ,
đồng thời góp phần đảm bảo an toàn xã hội”.
Tóm lại, ta có thể thấy các khái niệm trên đều có điểm chung giống nhau

đó là:
BHXH là 1 chính sách xã hội được luật hóa túy theo điều kiện cụ thể
của từng nước;
- NLĐ tham gia BHXH và gia đình họ là những đối tượng trực tiếp được
hưởng lợi từ chính sách BHXH, khi có các sự kiện bh xảy ra, như : bị
giảm hoặc mất thu nhập từ LĐ do hết tuổi LĐ, ốm đau, thai sản,
TNLĐ…
- Để tổ chức và thực hiện được chính sách BHXH phải dựa vào 1 quỹ
tiền tệ do NLĐ, NSDLĐ đóng góp và có sự bảo trợ của Nhà nước.
-

-

Mục đích của BHXH là đảm bảo đời sống cho những NLĐ tham gia
BHXH và gia đình họ, từ đó góp phần đảm bảo ASXH.


1.2.

Hình thức, đối tượng áp dụng BHXH và chế độ BHXH.
1.2.1. Hình thức và đối tượng áp dụng BHXH.
1.2.1.1.
BHXH bắt buộc.
NLĐ tham gia BHXH bắt buộc là công dân VN, bao gồm:

-

-

Người làm việc theo HĐLĐ không xác định thời hạn, HĐLĐ có thời hạn từ 3

đến 6 tháng, HĐLĐ có thời hạn dưới 3 tháng;
Cán bộ, công chức, viên chức;
Công nhân quốc phòng, công nhân công an;
Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan
nghiệp vụ; sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân; người
làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân đội nhân dân, công an
nhân dân;
Hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội nhân dân và hạ sĩ quan, chiến sĩ công an nhân
dân phục vụ có thời hạn;
Người làm việc có thời hạn ở nước ngoài mà trước đó có đóng BHXH bắt
buộc;
Cán bộ không chuyên trách cấp xã;
NLĐ là công dân nước ngoài vào làm việc tại VN có giấy phép LĐ được cơ
quan thẩm quyền của VN cấp.
NSDLĐ tham gia BHXH bắt buộc bao gồm: cơ quan Nhà nước, đơn vị
sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức nước
ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ VN; doanh nghiệp, hợp tác xã,
hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, tổ chức khác và cá nhân có thuê mướn, sử
dụng và trả công cho NLĐ.
1.2.1.2.

BHXH tự nguyện.

Đối tượng của BHXH tự nguyện chỉ có sự tham gia của NLĐ, không có
sự tham gia của phía NSDLĐ. NLĐ tham gia BHXH tự nguyện là công dân
VN trong độ tuổi LĐ, không thuộc diện áp dụng của pháp luật về BHXH bắt
buộc, bao gồm:
-

Người tham gia các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, kể cả xã viên

không hưởng tiền lương, tiền công trong các hợp tác xã, liên hợp tác xã;


-

NLĐ tự tạo việc làm;
NLĐ làm việc có thời hạn ở nước ngoài mà trước đó chưa tham gia BHXH
bắt buộc hoặc đã nhận BHXH 1 lần;
Người tham gia khác.
1.2.2. Chế độ BHXH.
Các chế độ của BHXH là các trường hợp được BH do Nhà nước quy
định cho người hưởng BH, theo các mức hưởng và thời gian hưởng khác
nhau, khi có đủ điều kiện BH phát sinh. Cũng như việc xác định đối tượng
tham gia, việc xác định các chế độ BHXH cũng tùy thuộc vào nhu cầu tham
gia BH và trình độ quản lý rủi ro của từng nước.
Với điều kiện hiện tại, nước ta đã lựa chọn thực hiện 5 chế độ đối với
BHXH bắt buộc, gồm: chế độ ốm đau; thai sản; TNLĐ – BNN; hưu trí và tử
tuất. Và 2 chế độ đối với BHXH tự nguyện, bao gồm: chế độ hưu trí và tử
tuất.
1.3.

Vai trò của BHXH.
1.3.1. Vai trò của BH.

Các hình thức BH nói chung, bao gồm cả BHXH, đóng vai trò vô cùng
quan trọng:
-

-


-

BH góp phần ổn định cuộc sống, sản xuất và làm cho sản xuất kinh
doanh của những người tham gia BH tiếp túc phát triển bình thường
khi họ gặp rủi ro, sự cố gây tổn thất;
Khi tham gia BH, các cá nhân tổ chức kinh tế - xã hội sẽ được nhà BH
phối hợp quản lý rủi ro, thực hiện các biện pháp đề phòng và hạn chế
tổn thất;
Khi quỹ BH chưa sử dụng đến, chúng sẽ là nguồn vốn đầu tư đáng kể
góp phần phát triển và tăng trưởng kinh tế.
Vai trò của BHXH.
1.3.2.1.
Vai trò của BHXH đối với NLĐ.

1.3.2.


Mục đích chủ yếu của BHXH là đảm bảo thu nhập cho NLĐ và gia đình
họ khi gặp những khó khăn trong cuộc sống làm giảm hoặc mất thu nhập. Vì
vậy, BHXH có vai trò rất lớn đối với NLĐ, đó là điều kiện cho NLĐ được
cộng đồng tương trợ khi ốm đau, tai nạn, thai sản… Đồng thời, BHXH cũng
là cơ hội để mọi người thực hiện trách nhiệm tương trợ cho những khó khăn
của các thành viên khác. Từ đó, các rủi ro trong LĐ sản xuất và trong đời
sống của NLĐ được khống chế, khắc phục hậu quả ở mức độ cần thiết. Tham
gia BHXH còn giúp NLĐ nâng cao hiệu quả trong chi tiêu cá nhân, giúp họ
tiết kiệm những khoản nhỏ, đều đặn để có nguồn dự phòng cần thiết chi dùng
khi già cả, mất sức LĐ…góp phần ổn định cuộc sống cho bản thân và gia
đình.
1.3.2.2.


Vai trò của BHXH đối với NSDLĐ.

BHXH góp phần làm cho lực lượng LĐ trong mỗi đơn vị ổn định, hoạt
động sản xuất, kinh doanh được liên tục, hiệu quả, các bên trong quan hệ LĐ
cũng gắn bó với nhau hơn. BHXH tạo điều kiện để NSDLĐ có trách nhiệm
với NLĐ, không chỉ khi trực tiếp sử dụng LĐ mà trong suốt cuộc đời NLĐ,
đến khi NLĐ già yếu. BHXH làm cho quan hệ LĐ có tính nhân văn sâu sắc,
nâng cao trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. BHXH còn giúp cho đơn vị sử
dụng LĐ ổn định nguồn chi, ngay cả khi có rủi ro lớn xảy ra thì cũng không
lâm vào tình trạng phá sản.
1.3.2.3.

Vai trò của BHXH đối với xã hội.

BHXH có tác dụng tạo ra cơ chế chia sẻ rủi ro, nâng cao tính cộng đồng
xã hội, củng cố truyền thống đoàn kết, gắn bó giữa các thành viên trong xã
hội. BHXH là căn cứ để đánh giá trình độ quản lý rủi ro của từng quốc gia và
mức độ ASXH đạt được trong mỗi nước. Không chỉ vậy, BHXH còn phản ánh
trình độ phát triển kinh tế, xã hội của một quốc gia. Hoạt động BHXH cũng
góp phần vào việc huy động vốn đầu tư, làm cho thị trường tài chính phong
phú và kinh tế xã hội phát triển.


Chương II: VAI TRÒ CỦA BHXH ĐỐI KINH TẾ - XÃ HỘI.
2.1.

Vai trò của BHXH đối với NLĐ.
2.1.1. Chế độ ốm đau

Đối với ốm đau bình thường và chăm sóc con ốm: Mức trợ cấp bằng

75% mức tiền lương, tiền công đóng BHXH của tháng liền kề trước khi nghỉ
việc chia cho 26 ngày, sau đó nhân với số ngày thực tế nghỉ việc trong khoảng
thời gian được nghỉ theo quy định. Nếu nghỉ ốm ở tháng đầu tham gia BHXH
thì lấy mức lương của chính tháng đó để tính hưởng trợ cấp.
Đối với bản thân và gia đình NLĐ, BH ốm đau trước hết nhằm hỗ trợ
một phần kinh phí chữa trị bệnh tật, duy trì cuộc sống hàng ngày cho bản thân
và gia đình NLĐ, giúp NLĐ nhanh chóng quay trở lại làm việc, ổn định thu
nhập, ổn định đời sống.
2.1.2.

Chế độ thai sản.

Trong thời gian mang thai:
-

-

Mỗi lần khám thai được nghỉ 1 ngày ( tối đa 5 lần trong 1 thai kỳ);
Khi sinh con NLĐ nữ được nghỉ hưởng chế độ thai sản 6 tháng.
Sau khi nghỉ hưởng chế độ thai sản NLĐ nữ sẽ được nhận trợ cấp thai
sản bằng 100% mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng
BHXH của 6 tháng liền kề trước khi nghỉ việc.
Mức trợ cấp một lần khi LĐ nữ sinh con hoặc nhận nuôi con dưới 4
tháng tuối là bằng 2 tháng lương tối thiểu chung cho mỗi con.

BH thai sản tạo điều kiện để LĐ nữ thực hiện tốt chức năng làm mẹ, thực
hiện tốt hơn công tác xã hội; tạo điều kiện để bảo vệ người mẹ và người con
trong quá trình sinh đẻ và nuôi con.
2.1.3.


Chế độ TNLĐ – BNN.

Mức hưởng của chế độ TNLĐ – BNN:
-

Mức trợ cấp 1 lần: Theo tỷ lệ thương tật, nếu bị suy giảm 5% khả năng
LĐ được hưởng 5 tháng lương tối thiểu chung. Sau đó cứ giảm 1% thì


-

được hưởng thêm 0,5 tháng lương tối thiểu chung. Theo số năm đóng
thì NLĐ tham gia BHXH 1 năm trở xuống được tính bằng 0,5 tháng
tiền lương tiền công đóng BHXH; sau đó cứ thêm mỗi năm đóng
BHXH được tính thêm 0,3 tháng tiền lương tiền công đóng BHXH.
Mức trợ cấp hàng tháng: Theo tỷ lệ thương tật, nếu suy giảm 31% khả
năng LĐ sẽ được hưởng 30% lương tối thiểu chung. Sau đó cứ suy
giảm thêm 1% thì được hưởng thêm 2% tháng lương tối thiểu chung.
Theo số năm đóng BHXH, NLĐ tham gia đóng BHXH từ 1 năm trở
xuống được tính bằng 0,5 % tiền lương tiền công đóng BHXH; sau đó
cứ thêm mỗi năm đóng BHXH được tính thêm 0,3% tiền lương tiền
công đóng BHXH.

Chế độ TNLĐ – BNN góp phần đảm bảo ổn định cho người bị TNLĐ –
BNN. So với một số rủi ro khác mà NLĐ có thể gặp phải thì rủi ro từ TNLĐ –
BNN thường làm mất đi một phần hoặc toàn bộ khả năng LĐ, do đó NLĐ khó
có thể tìm kiếm việc làm để có thu nhập. Chính vì vậy, trợ cấp TNLĐ – BNN
có ý nghĩa to lớn trong việc đảm bảo thu nhập cho NLĐ, giảm gánh nặng về
vật chất cho thân nhân NLĐ.
2.1.4.


Chế độ hưu trí.

Mức hưởng đối với chế độ BH hưu trí bắt buộc:
-

-

Mức hưởng lương hưu hàng tháng đầy đủ được tính bằng 45% mức
bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH
Mức hưởng BH hưu trí hàng tháng thấp hơn cũng được tính dựa trên
mức tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH và thời gian đóng
BHXH. Tuy nhiên NLĐ nghỉ hưu trước tuổi nên cứ mỗi năm nghỉ hưu
trước tuổi sẽ giảm đi 1% mức bình quân của tiền lương tháng làm căn
cứ đóng BHXH
Đối với chế độ trợ cấp 1 lần: Mức lương hàng tháng tối đa của NLĐ
bằng 75% mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH. Kể
từ năm thứ 26 đóng BHXH trở lên đối với nữ và năm thứ 31 trở lên đối
với nam, NLĐ được nhận ½ tháng mức lương bình quân của tiền
lương, tiền công tháng đóng BHXH.
Mức hưởng đối với chế độ BH hưu trí tự nguyện:


-

-

Mức hưu trí tự nguyện hàng tháng được tính bằng 45% mức bình quân
thu nhập tháng đóng BHXH khi đủ 15 năm đóng BHXH, sau đó cứ
thêm mỗi năm đóng BHXH thì được tính thêm 2% đối với nam và 3%

đối với nữ.
Mức hưởng BHXH 1 lần trong BH hưu trí tự nguyện được tính theo số
năm đã đóng BHXH, cứ mỗi năm đóng BHXH được tính hưởng bằng
1,5 tháng mức bình quân thu nhập tháng đóng BHXH.

BH hưu trí góp phần cùng với chế độ khác của BHXH khác tạo nên ý
nghĩa của BHXH nói chung trên các phương diện kinh tế, chính trị, xã hội,
pháp lý. Song xét ở phạm vi cụ thể, chế độ BH hưu trí đã đảm bảo được việc
thực hiện quyền và lợi ích chính đáng của NLĐ sau khi đã hoàn thành nghĩa
vụ LĐ đối với xã hội.Có thể khi về già, nhiều NLĐ cũng có những chỗ dựa là
con cháu song phần lớn họ trông cậy vào khoản trợ cấp hưu trí. Hơn nữa,
khoản trợ cấp hưu trí này còn là chỗ dựa tinh thần cho những người hết tuổi
LĐ. Những người về hưu sẽ cảm thấy yên tâm trong cuộc sống khi họ được
hưởng lương hưu, không bị mặc cảm là gánh nặng của gia đình và xã hội.
2.1.5.

Chế độ tử tuất.

Mức hưởng đối với chế độ BH tử tuất bắt buộc:
-

-

-

Mức hưởng chế độ trợ cấp mai táng: Khi NLĐ chết, thân nhân của họ
hoặc những người trực tiếp lo chôn cất cho NLĐ sẽ được hưởng mức
trợ cấp bẳng 10 tháng tiền lương tối thiểu chung.
Mức hưởng chế độ trợ cấp tuất hàng tháng: Mức trợ cấp hàng tháng
cho thân nhân của NLĐ bằng 50% mức lương tối thiểu chung cho mỗi

thân nhân. Trường hợp thân nhân không có người thân trực tiếp nuôi
dưỡng thì mức trợ cấp bằng 70% mức lương tối thiểu chung.
Mức hưởng chế độ trợ cấp tuất một lần: Mức trợ cấp được tính dựa
trên mức lương hưu đang hưởng và thời gian hưởng lương hưu.
Mức hưởng đối với chế độ BH tử tuất tự nguyện

-

Mức hưởng chế độ trợ cấp mai táng: Khi NLĐ chết, thân nhân của họ
hoặc những người trực tiếp lo chôn cất cho NLĐ sẽ được hưởng mức
trợ cấp bẳng 10 tháng tiền lương tối thiểu chung.


-

-

Mức hưởng chế độ trợ cấp tuất một lần: Căn cứ theo số năm mà NLĐ
tham gia BHXH tự nguyện đã đóng BHXH, cứ mỗi năm( tháng lẻ thì
làm tròn theo quy định) sẽ được tính trợ cấp bằng 1,5 mức lương bình
quân tiền lương, tiền công và thu nhập tháng đóng BHXH. Khi NLĐ
đang hưởng lương hưu thì mức trợ cấp được tính bằng 48 tháng lương
hưu đang hưởng.
Mức hưởng chế độ trợ cấp tuất hàng tháng: Mức trợ cấp hàng tháng
cho thân nhân của NLĐ bằng 50% mức lương tối thiểu chung cho mỗi
thân nhân. Trường hợp thân nhân không có người thân trực tiếp nuôi
dưỡng thì mức trợ cấp bằng 70% mức lương tối thiểu chung.

Khi NLĐ chết đi, khoản trợ cấp từ chế độ BH tử tuất giúp gia đình họ
trang trải những phí tổn về tang lễ, đồng thời giúp họ trong những ngày khó

khăn ban đầu khi người thân vừa mất.
2.2.

Vai trò của BHXH đối với NSDLĐ.

Đối với NSDLĐ, chế độ BH ốm đau gắn kết trách nhiệm của NSDLĐ
đối với NLĐ. Từ chỗ đảm bảo thu nhập, đời sống và ổn định tâm lý cho NLĐ.
BH ốm đau cùng với biện pháp khác sẽ giúp NSDLĐ ổn định sản xuất, tăng
năng suất LĐ, tăng trưởng kinh tế, hạn chế tốn kém và phiền hà khi rủi ro xảy
ra đối với NLĐ...
Chế độ TNLĐ – BNN giúp giảm chi phí cho NSDLĐ khi xảy ra TNLĐ –
BNN, nhanh chóng phục hồi sản xuất kinh doanh. Thông thường khi trách
nhiệm bồi thường cho người bị TNLĐ – BNN thuộc về NSDLĐ, khi loại hình
BHXH ra đời và phát triển trách nhiệm này được chuyển giao cho tổ chức
BHXH với điều kiện NSDLĐ phải đóng phí. Khi tham gia BHXH, NSDLĐ
sẽ được tổ chức BHXH gánh bớt một phần chi phí phải trả cho NLĐ khi xảy
ra TNLĐ – BNN. Điều đó sẽ giúp cho NSDLĐ không rơi vào tình trạng nợ
nần, phá sản, nhanh chóng khôi phục sản xuất, kinh doanh.
2.3.

Vai trò của BHXH đối với xã hội.

Đối với xã hội, chế độ BH hưu trí thể hiện trách nhiệm của nhà nước, của
xã hội, của NSDLĐ đối với những người đã có quá trình LĐ, đóng góp vào sự
phát triển chung của đất nước, nay hết tuồi LĐ. Chế độ này phản ánh rõ nét


các giá trị xã hội, tính nhân văn, nhân đạo của dân tộc, là một trong những nội
dung nòng cốt của chính sách ASXH quốc gia.
NLĐ khi tham gia BHXH không những được đảm bảo thu nhập trong

quá trình LĐ, sau quá trình LĐ mà ngay cả khi họ mất, người thân của họ vẫn
được hỗ trợ để lo việc mai táng và hưởng BHXH. Chính vì vậy mà chế độ tử
tuất có ý nghĩa quan trọng không chỉ với bản thân NLĐ và thân nhân họ mà
nó còn quan trọng đối với xã hội và cộng đồng.
Trong xã hội ngày nay, BH thai sản không những có ý nghĩa to lớn đối
với bản thân NLĐ và gia đình họ mà còn có ý nghĩa to lớn đối với toàn xã
hội. Trong quá trình mang thai, sinh con NLĐ nữ được hưởng nghỉ chế độ để
thăm khám thường xuyên hơn ở các cơ sở y tế, sẽ giúp cho việc chăm sóc đứa
trẻ một cách đầy đủ, điều đó cũng đảm bảo an toàn cho xã hội hơn. Và góp
phần hình thành nguồn lực mới có chất lượng cho xã hội.
Đối với chế độ TNLĐ – BNN, để giảm thiểu chi phí trợ cấp cho người
tham gia, tổ chức BHXH thường thực hiện các biện pháp phòng ngừa TNLĐ
– BNN, tăng cường kỹ thuật an toàn – vệ sinh LĐ, nhờ đó làm giảm TNLĐ –
BNN, đảm bảo duy trì phát triển lực lượng LĐ và an toàn xã hội. Góp phần
thúc đẩy hệ thống ASXH phát triển.
2.4.

Vai trò của BHXH đối với nền kinh tế.

Do việc huy động BH hưu trí bắt buộc đối với NLĐ, cũng như NSDLĐ
và được nhận phần hỗ trợ từ ngân sách nhà nước, nên đã tồn tích thành quỹ
tiền tập trung có thể đầu tư một phần vào các hoạt động kinh tế để sinh lời,
tăng thêm nguồn thu cho quỹ BHXH.
Chế độ BH ốm đau giúp NLĐ bù đắp một phần thu nhập bị mất, giúp họ
yên điều trị, nhanh chóng quay lại làm việc. Có thể thấy BH ốm đau có vai trò
to lớn trong việc duy trì ổn định lực lượng LĐ xã hội,thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội của NLĐ.
Chế độ TNLĐ – BNN góp phần thực hiện mục tiêu quốc gia về an toàn,
vệ sinh LĐ. Góp phần thúc đẩy kinh tế bền vững, giảm chi phí kinh tế, xã hội
và đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế, các quốc gia thường xây dựng chương

trình mục tiêu quốc gia về an toàn, vệ sinh LĐ.


Chương III: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP.
3.1.

Thực trạng.
3.1.1.Số lượng đối tượng tham gia, số thu cho quỹ và sự tăng trưởng
hàng năm.
3.1.1.1. Số lượng người tham gia BHXH.

Qua 20 năm xây dựng và phát triển, BHXH VN đã tạo được dấu ấn đậm
nét, xây dựng được nền tảng vững chắc, thực dự đổi mới về cả hệ thống chính
sách, tổ chức bộ máy quản lý. Đội ngũ quản lý BHXH đã trưởng thành nhanh
chóng, quỹ BH đã phát triển lớn mạnh. Thành tựu của ngành BHXH chính là
một thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước.
Tháng 1 năm 1995, Chính phủ đã ban hành Điều lệ BHXH kèm theo
nghị định số 12/CP ngày 26/1/1995 và Nghị định số 45/CP ngày 15/7/1995.
Điều lệ về chính sách BHXH mới đã mở rộng đối tượng áp dụng ( Đối tượng
tham gia BHXH bắt buộc ko chỉ bao gồm LĐ trong khu vực nhà nước mà
NLĐ trong các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có sử dụng 10 LĐ trở lên
cũng có quyền tham gia BHXH) và có nhiều chính sách ưu đãi cho người
tham gia. Ngoài chế độ BHXH bắt buộc, chính phủ còn ban hành chế độ
BHXH tự nguyện.
Mới đây luật BHXH sửa đổi năm 2014 đã có nhiều điểm mới mang tính
nhân văn hơn, trong đó chú trọng đến việc mở rộng đối tượng tham gia
BHXH hơn nữa ( Ngoài NLĐ có HĐLĐ không xác định thời hạn, có thời hạn
trên 3 tháng, đối tượng tham gia BHXH bắt buộc được mở rộng áp dụng đối
với cả NLĐ có HĐLĐ dưới 3 tháng) và đảm bảo quyền lợi cho NLĐ.
Cùng với tốc độ phát triển của BHXH là sự tăng cao của số lượng người

tham gia BH. Nếu như năm 1995, ngành BHXH mới chỉ quản lý 2,2 triệu LĐ,
thì đến cuối năm 2014, số người tham gia BHXH, BHYT đã lên tới 64 triệu
người. Số lượng NLĐ tham gia BHXH qua các năm tăng, thể hiện ở bảng sau:


Tuy nhiên đó chưa phải là toàn bộ LĐ trên cả nước. Đến năm 2014, số
người thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc là 16 triệu người nhưng mới chỉ
có 11.5 triệu người tham gia. Trong 300 nghìn DN đang hoạt động chỉ có 150
nghìn DN đăng ký tham gia BHXH cho NLĐ.

3.1.1.2.

Số thu cho quỹ BHXH.

Giai đoạn 2007- 2012, số thu từ đóng góp của NLĐ và NSDLĐ qua
các năm như sau:


Đến cuối năm 2013 số thu BHXH bắt buộc là 105.018 tỷ đồng. Công tác
thu BHXH đạt được những kết quả nêu trên là do cơ quan BHXH đã áp dụng
nhiều biện pháp, trong đó các biện pháp nhằm hạn chế tình trạng chậm đóng,
nợ đóng. Mặc dù số thu BHXH không ngừng tăng lên qua từng năm. Tuy
nhiên, bên cạnh đó thì tình trạng nợ đóng, chậm đóng BHXH vẫn xảy ra khá
phổ biến tại các doanh nghiệp.
Ngoài khoản thu chính từ người tham gia, quỹ BHXH còn có nguồn thu
từ việc đầu tư các nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi. Theo cơ quan kiểm toán, các
quỹ BH đều có kết dư và hàng năm đều có tốc độ tăng trưởng khá cao.

Nhìn chung, hoạt động đầu tư quỹ BHXH đảm bảo đúng quy định, an
toàn và có khả năng thu hồi được khi cần thiết. Nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi

của quỹ BHXH đã góp phần đáng kể vào công cuộc phát triển kinh tế- xã hội
của đất nước. Hình thức đầu tư quỹ chủ yếu tập trung vào mua trái phiếu
Chính phủ, cho ngân sách Nhà nước vay, cho các ngân hàng thương mại vay
vì hoạt động đầu tư từ quỹ BHXH phải đảm bảo an toàn, hiệu quả và thu hồi
được khi cần thiết.


Việc đầu tư quỹ BHXH đạt hiệu quả không cao trong thời gian qua có
thể nhận định do một số nguyên nhân sau: Sứ mạng của quỹ hưu trí phải được
đầu tư dài hạn, song thời gian vừa qua quỹ hưu trí chủ yếu được đầu tư ngắn
hạn; BHXH VN chưa thật chủ động xây dựng các phương án đầu tư quỹ hưu
trí; quy chế đầu tư quỹ chậm được xây dựng; Hình thức đầu tư của quỹ
BHXH cũng chưa thật đa dạng; Tổ chức thực hiện chức năng đầu tư quỹ
BHXH chưa chuyên nghiệp;
3.1.1.3.

Số chi cho BHXH.

Trong giai đoạn từ 2007 đến 2012, mỗi năm cơ quan BHXH phải giải
quyết và chi trả chế độ cho trên 5 triệu lượt người hưởng BHXH.


Tính đến 31/12/2012, tổng số người hưởng lương hưu, trợ cấp BHXH
hàng tháng là 2,529 triệu người, trong đó: số đối tượng hưởng từ nguồn ngân
sách nhà nước đảm bảo là 1,322 triệu người, số đối tượng hưởng từ nguồn
quỹ BHXH đảm bảo là 1,207 triệu người. Tổng số người đang hưởng lương
hưu là 1,9 triệu người, với mức hưởng lương hưu bình quân là 3,2 triệu
đồng/người/tháng. Tổng số tiền chi giải quyết chế độ từ nguồn Quỹ BHXH
trong 6 năm là trên 202,791 nghìn tỷ đồng, bình quân mỗi năm chi trên 33,7
nghìn tỷ đồng.


Công tác chi trả lương hưu, trợ cấp BHXH đã được cải tiến thông qua
việc đa dạng hóa phương thức chi trả nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người
thụ hưởng như chi trả thông qua hệ thống bưu điện xã, chi trả thông qua tài
khoản thẻ ATM. Đến cuối năm 2012 số đối tượng nhận lương hưu, trợ cấp
hàng tháng qua tài khoản thẻ ATM là 120.000 người tại 58 tỉnh (tăng 28 tỉnh
và trên 35.000 người) thực hiện qua 9 hệ thống ngân hàng; đã có 12 tỉnh thực
hiện thí điểm chi trả lương hưu, trợ cấp BHXH hàng tháng qua hệ thống bưu
điện. Việc chi trả các chế độ BHXH, quản lý đối tượng nhìn chung ổn định,
không có vướng mắc lớn xảy ra, những tồn tại trong công tác chi trả đã dần
được các địa phương chấn chỉnh, khắc phục; công tác quản lý đối tượng tiếp
tục được tăng cường; các trường hợp cắt giảm khi hết hạn hưởng hoặc bị chết
được kiểm soát chặt chẽ hơn.


Tuy nhiên, việc giải quyết, chi trả các chế độ BHXH còn một số tồn tại,
khó khăn, vướng mắc: Luật BHXH hiện hành đã quy định khá chi tiết các nội
dung chi của quỹ BHXH, tuy nhiên “phí giám định y khoa” mặc dù luật quy
định NLĐ được đi giám định, giám định lại mức suy giảm khả năng LĐ và tổ
chức BHXH có trách nhiệm giới thiệu NLĐ, thân nhân NLĐ đi giám định
mức suy giảm khả năng LĐ trong một số trường hợp nhưng không quy định
trách nhiệm trong việc chi trả “phí giám định y khoa”. Pháp luật về BHXH
còn một số nội dung quy định chưa cụ thể; một số nội dung chưa hợp lý… Vì
vậy, việc tiếp nhận hồ sơ, giải quyết chế độ BHXH còn có một số tồn tại,
vướng mắc. Nhiều đơn vị sử dụng LĐ nợ BHXH hoặc không kịp thời tiếp
nhận hồ sơ để giải quyết chế độ ốm đau, thai sản cho NLĐ, sau thời gian dài
mới đề nghị BHXH giải quyết, quyết toán gây khó khăn trong giải quyết, chi
trả trợ cấp cho NLĐ. Việc giải quyết và chi trả chế độ BHXH còn chưa được
thật đơn giản, nhanh gọn, thuận tiện cho NLĐ và NSDLĐ. Việc chi trả các
chế độ BHXH hàng tháng chủ yếu vẫn thông qua hệ thống đại diện chi trả,

nên tiềm ẩn yếu tố mất an toàn tiền mặt trong quá trình chi trả; kết quả chi trả
các chế độ BHXH qua tài khoản thẻ ATM còn hạn chế. Tình trạng gian lận,
giả mạo hồ sơ để hưởng BHXH có diễn biến phức tạp, đa dạng gây không ít
khó khăn trong công tác giải quyết và chi trả chế độ BHXH cho NLĐ.
3.1.2.Tình

trạng nợ đóng quỹ BHXH.

Theo Luật LĐ thì NLĐ được hưởng lương và chế độ BHXH theo quy
định. Thế nhưng quyền lợi cơ bản này của NLĐ đang bị vi phạm nghiêm
trọng do tình trạng nhiều DN chậm đóng BHXH cho NLĐ và thậm chí nhiều
DN còn tìm cách trốn đóng BHXH. Điều này gây thiệt hại trước hết cho
NLĐ, và sau là toàn nền kinh tế - xã hội, không những vậy doanh nghiệp còn
làm cho mối quan hệ giữa NLĐ và mình ngày càng trở nên mâu thuẫn. Qua
các năm, con số các DN nợ đóng BHXH ngày càng lớn và số tiền mà DN nợ
quỹ BHXH cũng tăng tỷ lệ thuận với số DN, hơn nữa là thời gian nợ ngày
càng kéo dài. Đến năm 2014, tình trạng trốn đóng, nợ đóng tiền BHXH còn
diễn ra phổ biến ở tất cả các tỉnh, thành phố. Số nợ BHXH là 5.578 tỷ đồng,
bằng 4,93% tổng số phải thu, giảm 10,8% so với năm 2013. Trong đó, DN có
vốn nước ngoài và tổ chức nước ngoài có số nợ nhiều nhất.
Theo báo cáo của BHXH các tỉnh, thành phố, tính đến hết tháng 8/2014,
có 47.315 đơn vị ( chiếm tỷ lệ 18% trong tổng số đơn vị tham gia BHXH) còn
nợ tiền BHXH, BHYT với số tiền nợ là 11.562 tỷ đồng. Đáng chú ý là trong


số các đơn vị nợ BHXH, BHYT đã có trên 8.000 đơn vị dừng hoạt động, với
gần 7.000 không còn giao dịch với cơ quan BHXH và có hơn 30.000 số LĐ
tại các đơn vị này có nguy cơ mất quyền lợi cơ bản về BHXH, BHYT. Trên cả
nước số đối tượng có quan hệ LĐ thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc là 16
triệu người nhưng mới có gần 11 triệu LĐ tham gia BHXH bắt buộc, còn

khoảng 5 triệu LĐ chưa được tham gia BHXH, BHYT, tương ứng với số thu
BHXH, BHYT khoảng 56.000 tỷ đồng/ năm. Đây là thất thoát lớn, ảnh hưởng
trực tiếp đến Quỹ BHXH và quyền lợi của NLĐ.
Trên thực tế, tình trạng nợ đóng, trốn đóng BHXH, BHYT đã gây khó
khăn rất lớn cho cơ quan BHXH nhiều năm nay. Với số tiền nợ BHXH, có
chủ sử dụng LĐ gần như bỏ rơi NLĐ, không thực hiện trách nhiệm, nghĩa vụ
đối với NLĐ, không hợp tác với cơ quan BHXH để giải quyết chế độ cho
NLĐ theo quy định của pháp luật. Các hành vi này đã gây ảnh hưởng lớn đến
trật tự, an toàn xã hội mà trực tiếp vi phạm tới các lợi ích cơ bản về ASXH
của NLĐ.
3.1.3.Việc

chấp hành chế độ BHXH.

Công đoàn VN là hệ thống tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai
cấp công nhân, đội ngũ tri thức và những NLĐ tự nguyện lập ra nhằm mục
đích tập hợp, đoàn kết lực lượng, xây dựng giai cấp công nhân, LĐ. Tuy
nhiên, tổ chức công đoàn của nhiều DN còn thiếu tính độc lập, chưa trở thành
chỗ dựa tin cậy cho NLĐ. Rất nhiều DN chưa có tổ chức Công đoàn, thậm chí
Giám đốc kiêm luôn chức vụ Chủ tịch Công đoàn. Điều này dẫn đến khi NLĐ
bị thiệt thòi sẽ không có tổ chức đứng ra bảo vệ. Ngoài việc tổ chức Công
đoàn còn yếu kém, nguyên nhân dẫn đến tình trạng nợ đóng, trốn đóng
BHXH xuất phát từ ý thức pháp luật và đạo đức yếu kém của chủ DN. DN chỉ
muốn thu lợi nhuận tối đa, không quan tâm đến quyền lợi của NLĐ, tìm cách
trốn tránh, đối phó với cơ quan chức năng. Mặt khác nhận thức về pháp luật
LĐ của NLĐ còn rất hạn chế. Một số NLĐ không muốn tham gia tổ chức
Công đoàn, không muốn trích nộp BHXH vì sợ thu nhập bị giảm đi. Hoặc
NLĐ không muốn đấu tranh do tâm lý sợ bị trì dập, đuổi việc.
Công tác thanh tra, kiểm tra chưa thường xuyên, chế tài xử lý chưa đủ
mạnh để buộc các DN phải tuân thủ luật LĐ và luật BHXH. Lực lương thanh

tra LĐ ở các địa phương rất mỏng, mỗi năm chỉ tiến hành thanh tra được vài
chục DN. Không chỉ vậy, theo quy định nếu NSDLĐ vi pham luật BHXH sẽ


bị sử phạt hành chính, và buộc phải nộp đủ, đúng số tiền còn thiếu theo quy
định, cộng với tiền lãi ngân hàng số tiền nộp chậm. Nếu vi phạm với số lượng
lớn thời gian dài sẽ bị khởi kiện tại tòa dân sự. Tuy nhiên, thủ tục khởi kiện
tương đối phức tạp, các DN thiếu hợp tác gây nhiều khó khăn. Không ít DN
dù đã bị khởi kiện, đã có phán quyết của tòa án nhưng vẫn cố tình không thực
hiện.
Việc nợ đóng, trốn đóng BHXH đến cuối cùng người thiệt hại nhiều nhất
vẫn là NLĐ. Trong nhiều trường hợp, lỗi là do NSDLĐ không chấp hành luật
nhưng khi DN đã giải quyết cho NLĐ thì cơ quan BH lại không tiến hành giải
quyết nhanh chóng mà làm khó NLĐ.
3.1.4.Nội

dung quy định trong luật BH.

Luật BHXH ra đời đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc tạo
cơ sở pháp lý để nâng cao hiệu quả thực thi chế độ, chính sách BHXH, pháp
điển hóa các quy định hiện hành và bổ sung các chính sách BHXH phù hợp
với những định hướng phát triển của nền kinh tế - xã hội ở VN. Hệ thống các
văn bản quy phạm pháp luật triển khai Luật BHXH được xây dựng, ban hành
tương đối đầy đủ, kịp thời, đảm bảo chất lượng, tạo cơ sở pháp lý cho việc
triển khai thực hiện pháp luật về BHXH và đáp ứng các yêu cầu đặt ra.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, qua quá trình tổ chức thực hiện
chính sách BHXH cho thấy, một số nội dung quy định trong chính sách, chế
độ BHXH đã bộc lộ một số điểm bất hợp lý dẫn tới những khó khăn trong
công tác tổ chức thực hiện chính sách. Cho đến nay, vẫn còn một số nội dung
quy định trong Luật BHXH chưa được Chính phủ và các Bộ, ngành hướng

dẫn thi hành, cụ thể:
-

Nội dung quy định về ứng dụng công nghệ thông tin, hiện đại hóa quản
lý và tổ chức thực hiện chính sách BHXH (Khoản 2 Điều 9 Luật
BHXH).

-

Nội dung quy định về khen thưởng đối với NSDLĐ thực hiện tốt công
tác bảo hộ LĐ, phòng ngừa tai nạn LĐ, bệnh nghề nghiệp được chi từ
quỹ tai nạn LĐ, bệnh nghề nghiệp (Khoản 2 Điều 133 Luật BHXH).

3.2.

Giải pháp.


3.2.1.Đẩy

mạnh công tác tuyên truyền về luật BHXH và vai trò của
BHXH.

Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về BHXH đã được triển khai
đồng bộ và rộng khắp đã tạo sự đổi mới cơ bản về nhận thức của các doanh
nghiệp, NLĐ và toàn xã hội trong việc thực hiện chính sách BHXH. Tuy
nhiên việc tuyên truyền vẫn còn những điểm hạn chế, cụ thể:
-

-


-

Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về BHXH còn chưa được sự
quan tâm đúng mức của chính quyền tại một số địa phương, kinh phí
còn hạn hẹp.
Công tác tuyên truyền, phổ biến luật còn bộc lộ những hạn chế như
hình thức chưa đa dạng, nội dung chưa thật sự phù hợp với từng nhóm
đối tượng tham gia. Chưa chú ý vấn đề quyền lợi của NLĐ, NSDLĐ
khi tham gia BHXH.
Nhận thức của một bộ phận NSDLĐ và NLĐ về chính sách BHXH
còn hạn chế, đặc biệt còn nhiều bộ phận trong nhân dân chưa có thông
tin về chính sách BHXH tự nguyện.

Chính vì vậy, để đẩy mạnh công tác tuyên truyền cần phát huy những mặt
được và thay đổi và sửa chữa những mặt hạn chế, cụ thể:
-

-

-

Khi tổ chức tuyên truyền cần đảm bảo sau khi tuyên truyền thì các đối
tượng phải hiểu rõ về chế độ, chính sách BHXH theo quy định của
pháp luật, để NLĐ có cái nhìn tích cực về BHXH.
Cần đến một đội ngũ cán bộ có chuyên môn, nhiệt tình và sáng tạo
trong công việc. Có thể phối hợp các ban ngành liên quan để cùng tổ
chức các buổi tuyên truyền đến từng địa phương.
Sáng tạo những hình thức tuyên truyền mới, phù hợp với tâm lý NLĐ
ở từng địa phương… Tích cực tuyên dương, khen thưởng các nhân tố

điển hình thực hiện tốt các chế độ về chính sách BH, lấy đó làm gương
cho người khác cùng phấn đấu. Song bên cạnh đó cũng phải phê phán
các hành vi tiêu cực, vi phạm các chính sách BHXH.
3.2.2.Đẩy mạnh công tác quản lý trong hệ thống BHXH và mạnh tay
xử lý những trường hợp vi phạm quy định của Luật BHXH.

Tăng cường kiểm tra, đôn đốc các đơn vị SDLĐ thu nộp BHXH, BHYT,
BH thất nghiệp đúng hạn. Chủ động tham mưu với cấp ủy, chính quyền địa
phương và phối hợp với thanh tra Nhà nước tỉnh, Sở LĐ – Thương binh và Xã


hội, nhất là cơ quan quản lý, thu thuế các DN kiên quyết xử phạt và truy thu
những đơn vị chậm đóng, đóng thiếu, trốn đóng BHXH. Đối với các đơn vị
nợ đóng kéo dài thì hoàn thiện các thủ tục khởi kiện ra tòa án. Tổ chức công
đoàn phải phát huy tích cực vai trò bảo vệ NLĐ, không để cho DN gian lận
tiền BHXH của NLĐ.
Tăng cường lực lượng thanh tra LĐ ở các địa phương. Tích cực thanh
tra, kiểm tra nhiều hơn nữa và khi phát hiện ra có sự gian lận quỹ, DN trốn
đóng quỹ và xảy ra tình trạng nợ đóng thì phải kiên quyết xử lý ngay, và biện
pháp, mức độ phạt phải mạnh hơn nữa. Không chỉ vậy cần cắt bỏ những thủ
tục khiếu kiện rườm rà, không cần thiết để nhanh chóng xử lý các đối tượng
vi phạm. Đối với trường hợp cố tình không thi hành án khi đã có phán quyết
của tòa án nhân dân thì cần phải sử dụng đến luật hình sự để giải quyết.
3.2.3.Nghiêm

chỉnh chấp hành chế độ báo cáo theo quy định.

Theo đúng quy định, báo cáo tháng chốt số liệu vào ngày 25 hàng tháng,
gửi báo cáo trong ngày trong ngày 26 hàng tháng, báo cáo quý gửi trước ngày
20 của tháng đầu quý sau. Nếu địa phương nào không chấp hành tốt quy định

này thì cần phải xử lý nghiêm, làm gương cho các địa phương khác. Các biện
pháp đưa ra có thể là nhắc nhở công khai rồi yêu cầu kiểm điểm. Đồng thời
khen thưởng các đơn vị chấp hành tốt và khen thưởng với mức độ xứng đáng.
Ngoài ra, theo quy định hiện hành hàng năm Chính phủ báo cáo Quốc
hội về quản lý và sử dụng các quỹ BHXH. Thực tiễn thực hiện hoạt động
trong những năm qua cho thấy do báo cáo Quốc hội hàng năm nên việc phân
tích, đánh giá không thật kỹ lưỡng, chưa phản ánh được những thay đổi lớn
trong thực hiện. Như vậy, để có phân tích, đánh giá kỹ lưỡng và đưa ra các dự
báo về khả năng cân đối quỹ BHXH thì định kỳ báo cáo Quốc hội về tình
hình quản lý và sử dụng quỹ BHXH nên quy định 3 năm hoặc 5 năm là phù
hợp.
3.2.4.Củng

cố hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật liên quan đến
việc thực hiện cơ chế, chính sách của BHXH.

Để các chính sách BHXH được nhanh chóng giải quyết một cách chính
xác, đúng luật và đồng bộ thì chính phủ cần nhanh chóng hoàn thiện hệ thống
các quy phạm pháp luật sao cho hợp lý, đồng nhất với nhau, các hướng dẫn


×