Tải bản đầy đủ (.pdf) (221 trang)

Nghiên cứu, đánh giá thơ văn xướng họa của các sứ thần hai nước việt nam hàn quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.45 MB, 221 trang )




1

Mở đầu

Quan hệ ngoại giao Việt Nam - Hàn Quốc chính thức đợc bắt đầu vào
ngày 22 - 12 - 1992 và phát triển nhanh chóng trên tất cả các lĩnh vực chính
trị, kinh tế, văn hoá, giáo dục Tuy sự phát triển giao lu văn hoá giữa hai
nớc đi chậm hơn so với hợp tác kinh tế nhng lại vững chắc và tác động
không nhỏ đến hợp tác kinh tế. Sự phát triển vững chắc trong giao lu văn hoá
đó có nhiều nguyên nhân, song, nguyên nhân sâu xa là cơ sở văn hoá của hai
nớc có nhiều nét tơng đồng. Nét tơng đồng bao trùm là hai nớc đều chịu
ảnh hởng sâu đậm của văn hoá Hán nên sự hiểu biết văn hoá lẫn nhau đã
đợc gây dựng từ rất lâu trong lịch sử. Một trong những đóng góp cho sự hiểu
biết lẫn nhau đó là thơ văn xớng hoạ giữa các sứ thần hai nớc từ thời trung
đại đợc sáng tác bằng chữ Hán. Luận án này sẽ nghiên cứu, đánh giá văn bản
và thơ văn xớng hoạ của sứ thần hai nớc còn lu lại đến ngày nay. Trớc
khi đi vào phần chính của luận án, xin giới thiệu một số vấn đề của phần mở
đầu.
1. Mục đích và ý nghĩa của đề tài
Ngày nay, các nhà nghiên cứu và ngoại giao hai nớc Việt - Hàn thờng
đề cập đến sự kiện Lý Dơng Côn sang Hàn Quốc vào thế kỷ XII, Lý Long
Tờng cùng gia quyến và tuỳ tùng vợt biển sang Hàn Quốc vào thế kỷ XIII,
chung sống hoà thuận với nhân dân bán đảo Hàn, góp sức cùng nhân dân Hàn
chống giặc ngoại xâm, xây dựng đất nớc và coi đây là mốc son trong quan hệ
hữu hảo giữa hai nớc. Cũng từ đây, sự tiếp xúc trực tiếp giữa hai dân tộc đã
đợc bắt đầu và sự khởi đầu đó đã tạo cơ sở cho những đợt giao lu văn hoá
tiếp theo, trong đó, các cuộc gặp gỡ của sứ thần hai nớc ở Bắc Kinh Trung
Quốc đợc coi là đặc biệt.




2

Tới nay, các nhà nghiên cứu của hai nớc vẫn cha phát hiện ra th tịch
nào đề cập tới vấn đề ngoại giao quan phơng trực tiếp giữa hai bên mà mới
chỉ tìm thấy những văn bản thơ văn xớng hoạ giữa sứ thần hai nớc ở Trung
Quốc. Bởi thế, chúng có vị thế quan trọng trong việc nghiên cứu mối quan hệ
bang giao, tình hữu hảo giữa hai nớc Việt - Hàn.
Số lợng các bài thơ văn xớng hoạ giữa các sứ thần hai nớc hiện còn
lu lại phần nào ở cả hai nớc và đều do các tác gia nổi tiếng sáng tác. Do
vậy, các bài thơ xớng hoạ đó cần đợc khảo sát, đánh giá, khai thác nhằm
khẳng định giá trị văn chơng, giá trị lịch sử và phát huy những yếu tố tích
cực đối với thực tiễn hiện tại, nhất là trong quan hệ ngoại giao Việt Nam - Hàn
Quốc.
Các bài thơ văn xớng hoạ giữa sứ thần hai nớc không phải tập trung
trong một tập sách cố định mà nằm rải rác trong các tác phẩm của các tác gia,
nên công việc thu thập lại thành một tập có hệ thống ở cả hai nớc đã là một
công việc khó khăn, vất vả và đáng khích lệ. Song, điều quan trọng hơn là
trong những t liệu ấy, chúng tôi bớc đầu sử dụng phơng pháp và thao tác
văn bản học để nghiên cứu, điều tra, tiến tới giám định, khôi phục, chỉnh lý rồi
xác lập một văn bản có giá trị qui phạm, đó là thiện bản.
Sau khi xác lập đợc thiện bản, chúng tôi sẽ chọn dịch một số bài thơ
văn xớng hoạ tiêu biểu, đặc biệt là những bài hiện đang có ở cả hai nớc Việt
Nam và Hàn Quốc nhằm làm nổi bật giá trị nội dung, nghệ thuật của văn bản.
Sau cùng, luận án phân tích và đánh giá thơ văn xớng hoạ của sứ thần
hai nớc cả về nội dung lẫn nghệ thuật, tiến tới khẳng định giá trị về các mặt
văn chơng, lịch sử, bang giao của những vần thơ ấy cũng nh khẳng định
công lao vun đắp tình hữu hảo cho hai nớc Việt - Hàn của các tác gia.
Tìm hiểu và lý giải đúng đắn một cách khoa học giá trị của thơ văn

xớng hoạ của sứ thần hai nớc vẫn đang là công việc vừa có ý nghĩa khoa


3

học cơ bản vừa có ý nghĩa thực tiễn, cập nhật trong đời sống văn hoá, ngoại
giao của hai nớc Việt Nam - Hàn Quốc.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Từ 1992 đến nay, quan hệ Việt - Hàn ngày một phát triển tốt đẹp và đã
có một số nhà nghiên cứu để tâm đến vấn đề thơ văn xớng hoạ giữa các sứ
thần hai nớc trong lịch sử. Tới nay, cha có một công trình nghiên cứu quy
mô nh một cuốn sách nào viết về vấn đề này, mà chỉ là những bài viết rải rác
trên các sách và tạp chí nghiên cứu.
Đáng lu ý nhất là hai bài viết của Bùi Duy Tân tham dự Hội thảo giao
lu văn hoá Hàn - Việt năm 1996:
1. Lý Tuý Quang - Phùng Khắc Khoan: quan hệ s giả - nhà thơ - mở
đầu tình hữu nghị Hàn - Việt.
2. Tứ hải giai huynh đệ: Những cuộc tao ngộ sứ giả - nhà thơ Việt Triều Tiên trên đất Trung Hoa thời trung đại.
Bài viết thứ nhất, Bùi Duy Tân có cho in lại trong cuốn Khảo và luận
một số tác gia - tác phẩm văn học trung đại Việt Nam (tập I), NXB giáo dục 1999; tr 358 - 371. Bài viết này thông qua t liệu 18 bài thơ xớng hoạ giữa
Lý Chi Phong - Phùng Khắc Khoan và 4 bài văn xuôi còn lu giữ ở cả hai
nớc để làm sáng tỏ vấn đề: "Cuộc gặp gỡ giữa hai sứ giả - nhà thơ thực sự là
cột mốc quan trọng, đánh dấu sự khai sáng quan hệ giao lu Hàn - Việt."
Bài viết thứ hai, Bùi Duy Tân cũng cho in lại trong tập sách nêu trên ở
tập II, tr.285-303.
ở bài viết này, tác giả không dừng lại ở hai tác gia - sứ giả gặp nhau và
trao tặng thơ xớng hoạ mà đã đề cập tới hàng chục cuộc gặp gỡ giữa mấy
mơi sứ giả - nhà thơ để minh chứng cho mối quan hệ hoà hiếu khá đặc biệt
giữa hai dân tộc. Hơn nữa, họ Bùi khẳng định trong nhiều lần gặp gỡ đó, có
hai cuộc tao ngộ đáng đợc xem là có ý nghĩa nhất. Một là cuộc gặp gỡ giữa

Lý Tuý Quang với Phùng Khắc Khoan, đợc xem là có ý nghĩa mở đầu trong


4

lịch sử bang giao giữa hai nớc. Hai là cuộc gặp gỡ giữa Lê Quý Đôn, Trần
Huy Mật, Trịnh Xuân Thụ với sứ bộ Hồng Khải Hy, Triệu Vinh Tiến, Lý Huy
Trung, đợc xem là cuộc giao tiếp có ý nghĩa học thuật - hữu hảo cao đẹp
trong lịch sử bang giao Việt - Triều.
Một bài viết tham dự Hội thảo trên của Cho Jae Hyun (Hàn Quốc) cũng
cần đợc đề cập tới. Đó là bài Quan hệ Hàn Quốc - Việt Nam: quá khứ, hiện
tại và tơng lai. Bài viết gồm năm phần lớn, trong đó, ở phần hai, tức phần
Quan hệ Hàn - Việt trong thời kỳ lịch sử cổ trung đại, đã thống kê 10 đợt gặp
gỡ giữa các sứ thần hai nớc vào thời trung đại. Tác giả nêu một số tên sứ thần
hai nớc từng gặp gỡ nhau và làm thơ xớng hoạ để chứng minh một phần
rằng từ thời trung đại, quan hệ Hàn - Việt đã xuất hiện một cách gián tiếp
thông qua sự giao lu giữa các sứ thần. Đây không phải là bài chuyên khảo về
thơ văn xớng hoạ giữa các sứ thần hai nớc mà viết khá tỉ mỉ, sâu sắc về
quan hệ ngoại giao hai nớc Hàn - Việt, nhng trong thời điểm năm 1996,
việc thống kê ra đợc tên một số sứ thần có thơ văn xớng hoạ đã là một cố
gắng rất lớn và đáng ghi nhận. Bài viết này đợc đăng trên Tơng đồng văn
hoá Việt Nam - Hàn Quốc; Nxb Văn hoá; Hà Nội 1996 và cuốn Ngời Việt
Nam ở Triều Tiên và mối giao lu văn hoá Việt - Triều trong lịch sử do Hội
khoa học lịch sử Việt Nam xuất bản năm 1997.
Cuối năm 1999, tạp chí Hán Nôm số 4 có xuất hiện bài Thêm bốn bài
thơ xớng hoạ giữa Lê Quý Đôn với sứ thần Triều Tiên của Nguyễn Minh
Tuân.
Đây là bài viết giới thiệu khá đầy đủ những t liệu thơ văn xớng hoạ
giữa Lê Quý Đôn với sứ thần Triều Tiên hiện có ở th viện Viện Nghiên cứu
Hán Nôm và phiên âm, dịch nghĩa cẩn thận bốn bài thơ cha đợc công bố.

Năm 2001, tạp chí Hán Nôm số 3 có đăng bài Cuộc gặp gỡ của sứ thần
Việt Nam và Triều Tiên ở Trung Quốc trọng tâm là chuyện xảy ra trong thế kỷ
XVIII của SHIMIZUTARO ở phần T liệu tham khảo. Bài này do Lơng Thị


5

Thu dịch, Nguyễn Thị Oanh hiệu đính. Tuy có lợc bỏ đôi chỗ nh phần chú
thích đã nêu nhng đã chỉ ra tên một số tác gia và t liệu ở Việt Nam, Triều
Tiên ghi chép lại việc sứ thần hai nớc giao lu, trao đổi thơ văn ở thế kỷ
XVIII.
Một bài viết nữa của Nguyễn Tuấn Thịnh - Nguyễn Kim Sơn với nhan
đề Về cuộc gặp gỡ giữa Lê Quý Đôn - sứ thần Việt Nam với các sứ thần Triều
Tiên năm 1761 cũng rất đáng chú ý. Bài này đợc đăng tải trong cuốn Ngời
Việt Nam ở Triều Tiên và mối giao lu văn hoá Việt - Triều trong lịch sử
(tr.195 - 202). Hai tác giả đã giới thiệu khái quát về tình hình t liệu th tịch
có liên quan đến cuộc gặp gỡ đó (chủ yếu là văn xuôi) rồi lập luận chứng
minh một luận đề rằng hai bên sứ thần đối đãi với nhau bằng lòng chân thành
thẳng thắn, biết nhau bằng văn chơng. Thực bốn bể đều là anh em.
Tháng 8 - 2007, nhân kỷ niệm 15 năm quan hệ Việt - Hàn, tại Hội thảo
quốc tế quan hệ hai nớc Việt Nam - Hàn Quốc, Nguyễn Minh Tờng có bài
Một số cuộc tiếp xúc giữa sứ thần Việt Nam và sứ thần Hàn Quốc trong thời
trung đại (Tạp chí Hán Nôm số 6 (85) 2007 đăng lại nguyên văn), trên cơ sở
cuốn sách Ngời Việt Nam ở Triều Tiên và mối giao lu văn hóa Việt Triều
trong lịch sử mà chúng tôi đã nêu, Nguyễn Minh Tờng đã phân rõ mốc thời
gian theo triều đại Việt Nam có sứ thần sang Yên Kinh gặp sứ thần Hàn Quốc,
nêu khái quát nội dung gặp gỡ giao hảo.
Nếu ngợc thời gian lên trớc năm 1992 thì cũng cần nói rõ thêm một
điều về vấn đề ngoại giao. Trớc năm 1992, nớc ta chỉ thiết lập quan hệ
ngoại giao với Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên, gọi tắt là Triều Tiên.

Bởi vậy, giới nghiên cứu nớc ta đều quen sử dụng tên gọi này. Tuy cha có
một tập chuyên khảo nào về thơ văn xớng hoạ giữa hai nớc Việt - Triều
nhng khi nghiên cứu về các tác gia và thơ văn, các nhà nghiên cứu cũng đề
cập tới những bài thơ văn xớng hoạ tiêu biểu để minh chứng cho luận điểm
mình nêu ra. Xin nêu tên mấy cuốn sách tiêu biểu nh Trạng Bùng Phùng


6

Khắc Khoan; Bùi Duy Tân - Ngọc Liễn, Ty văn hoá Hà Sơn Bình 1979, Phùng
Khắc Khoan - Tác gia - Tác phẩm; Bùi Duy Tân chủ biên; Ty văn hóa Hà Tây
2000, Phùng Khắc Khoan - cuộc đời và thơ văn; Trần Lê Sáng; Nxb Văn hoá
Thông tin; Lê Quý Đôn - nhà bác học Việt Nam thế kỷ XVIII; Bùi Duy Tân
(viết chung) Ty văn hóa Thái Bình 1979, Chân dung văn hoá Việt Nam; Tạ
Ngọc Liễn, Nxb Thanh niên, Hà Nội 1999
Đặc biệt, các tác giả cho biết rằng, vào đầu những năm 1960, nhà Hán
Nôm lão thành Trần Văn Giáp đã sang công tác Triều Tiên và mang về bản
chép tay một số bài thơ văn xớng hoạ giữa các sứ thần hai nớc Việt - Triều
nhng không rõ văn bản hiện ở đâu. Mãi tới năm 1997, Hội khoa học lịch sử
Việt Nam mới cho công bố trong cuốn Ngời Việt Nam ở Triều Tiên và mối
giao lu văn hoá Việt - Triều trong lịch sử của các tác gia sau:
1. Phùng Khắc Khoan - Lý Chi Phong
2. Nguyễn Công Hãng - Du Tập Nhất, Lý Thế Cẩn
3. Nguyễn Tông Quai - Sứ bộ Triều Tiên
4. Lê Quý Đôn - Hồng Khải Hy, Triệu Vinh Tiến, Lý Huy Trung
5. Hồ Sĩ Đống - Sứ bộ Triều Tiên
6. Phan Huy ích - Sứ bộ Triều Tiên
7. Nguyễn Đề - Sứ bộ Triều Tiên
8. Nguyễn T Giản - Nam Đình Thuận, Triệu Bỉnh Cảo
9. Nguyễn Thợng Hiền - Kim bí th

Đây là tài liệu rất quan trọng, Trần Văn Giáp đã phiên âm và dịch thơ
những bài thơ xớng hoạ, đã dịch những bài văn xuôi sang tiếng Việt. Công
lao của Trần Văn Giáp rất đáng trân trọng, nhng có điều là không có bản chữ
Hán 1 , nhất là ở phần phiên âm, lỗi của ngời đánh máy đời sau rất nhiều, hầu
nh bài nào cũng có. Bởi vậy, tiếc cho ngời đi sau không thể coi nh một bản
để đối chiếu so sánh mà chỉ có ý nghĩa khai sáng và tham khảo.


7

Nh vậy, vấn đề nghiên cứu một cách hệ thống các vần thơ xớng hoạ
giữa các sứ thần hai nớc Việt - Hàn trong lịch sử ít đợc đề cập tới. Đặc biệt
là thơ văn xớng hoạ giữa sứ thần hai nớc, càng cha đợc nghiên cứu văn
bản và đánh giá giá trị về nội dung, nghệ thuật.
3. Phạm vi và đối tợng nghiên cứu
3.1. Phạm vi nghiên cứu
Sứ thần hai nớc Việt Nam - Hàn Quốc mỗi khi có việc ngoại giao với
Trung Quốc đều tới thủ đô Bắc Kinh. Không phải chuyến ngoại giao nào các
sứ thần hai bên cũng đợc gặp nhau và có dịp làm thơ viết văn bày tỏ tình cảm
của mình. Bởi vậy, phạm vi nghiên cứu của đề tài sẽ là những chuyến ngoại
giao mà sứ thần hai nớc gặp nhau ở Bắc Kinh, có để lại thơ văn xớng hoạ và
t liệu đó hiện còn lu giữ đến ngày nay. Nếu giới hạn phạm vi nh vậy thì
cuộc gặp gỡ giữa Nguyễn Thợng Hiền với Ngài bí th họ Kim có thuộc phạm
vi này hay không? Cho Jae Hyun (Hàn Quốc) và Trần Văn Giáp, Nguyễn
Minh Tờng có đề cập tới cuộc gặp gỡ này và coi là một cuộc gặp gỡ của các
sứ thần có để lại thơ tặng đáp. Nhng có lẽ điều này nên đặt ở góc cạnh ngoại
giao thì hợp lý hơn là coi đây là cuộc gặp giữa sứ thần hai nớc ở Bắc Kinh
Trung Quốc. Xin hãy cùng xem những nét chính về Nguyễn Thợng Hiền, đặc
biệt là thời gian ông ở nớc ngoài.
Nguyễn Thợng Hiền (1866 - 1925), tự Đỉnh Nam và Đình Thần, hiệu

Mai Sơn, ngời làng Liên Bạt, huyện Sơn Lãng (sau đổi là ứng Hoà), tỉnh Hà
Đông (nay thuộc tỉnh Hà Tây). Năm 1885, đỗ Cử nhân; 1886, đỗ đầu thi Hội;
1892, đậu Hoàng giáp; Làm quan với các chức: Toản tu quốc sử (1895), Đốc
học các tỉnh Ninh Bình (1901), Hà Nam (1905), Nam Định (1906). Khi làm
việc ở Huế, tiếp xúc với t tởng khai sáng, giao thiệp với các chí sĩ yêu nớc
nh Tăng Bạt Hổ, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh Sau khi cha mất (1907)
sang Trung Quốc rồi Nhật Bản, ủng hộ phong trào Đông Du do Phan Bội Châu
khởi xớng. Khi Phan Bội Châu bị bắt giam, ông đảm đơng nhiều việc hệ


8

trọng của tổ chức "Việt Nam Quang phục hội". Sau thất bại cuộc chính biến ở
Huế năm 1916, ông phẫn chí đi tu ở Hàng Châu, Chiết Giang, Trung Quốc rồi
mất ở đó. [34, tr:345]
Qua vài nét chính về tiểu sử Nguyễn Thợng Hiền, ta thấy rõ trong thời
gian làm quan triều Nguyễn, ông cha từng đợc cử đi sứ sang nhà Thanh
Trung Quốc. Ông chỉ sang Trung Quốc, Nhật Bản với một t cách khác và gặp
gỡ các chí sĩ yêu nớc Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản với mục đích khác.
Bởi vậy, bài thơ của ông gửi tặng Kim bí th không xếp vào đối tợng nghiên
cứu của luận án và cuộc gặp gỡ giữa ông với Kim bí th có lẽ cũng không nên
xếp vào những cuộc gặp gỡ giữa sứ thần hai nớc Việt - Hàn.
Nh vậy, phạm vi nghiên cứu của đề tài bắt đầu từ lần gặp gỡ giữa sứ
thần hai nớc vào cuối thế kỷ XVI (năm 1597) giữa Phùng Khắc Khoan Lý
Túy Quang 2 và kết thúc là lần gặp gỡ vào cuối thế kỷ XIX (năm 1868) giữa
Nguyễn Tử Giản với Nam Đình Thuận, Triệu Bỉnh Cảo.
3.2. Đối tợng nghiên cứu
Các vần thơ xớng hoạ cũng nh các bài văn xuôi đề Tựa tặng đáp giữa
sứ thần hai nớc hiện vẫn còn lu lại trong tác phẩm của các tác gia hai nớc.
T liệu thu thập đợc cho thấy, trong thơ văn của Phùng Khắc Khoan, Lê Quý

Đôn, Nguyễn Công Hãng có nhiều bài thơ xớng hoạ cũng nh văn xuôi của
sứ thần hai nớc so với tác phẩm của các tác gia khác nh Phan Huy ích,
Đoàn Nguyễn Tuấn, Vũ Huy Tấn, Nguyễn Tông Quai, Phạm Chi Hơng, Hồ
Sĩ Đống, Nguyễn Đề, Bùi Ngọc Quỹ, Nguyễn T Giản Đây là đối tợng
nghiên cứu chính của luận án. Dù các bài thơ văn xớng hoạ giữa sứ thần hai
nớc còn lu lại trong tác phẩm của các tác gia nhiều hay ít thì vẫn đợc trân
trọng và nghiên cứu tỉ mỉ. Nếu cùng một tác gia mà có nhiều dị bản thì sẽ
đợc nghiên cứu so sánh đối chiếu để tìm ra một thiện bản rồi coi là đối tợng
nghiên cứu chính.


9

Các tài liệu liên quan đến lĩnh vực đi sứ của các sứ thần Việt Nam có
thơ văn xớng hoạ nh:
Mai lĩnh sứ hoa thi tập
Ngôn chí thi tập
Phùng Khắc Khoan thi tập
Phùng Công ngôn chí thi tập
An Nam quốc sứ thần xớng hoạ vấn đáp lục của Phùng Khắc Khoan
Bắc sứ thi tập của Nguyễn Công Hãng
Sứ hoa tùng vịnh của Nguyễn Tông Quai
Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn
Bắc sứ thông lục của Lê Quý Đôn
Quế Đờng thi tập của Lê Quý Đôn
Hoa trình thi tập của Vũ Huy Đĩnh
Hoa trình khiển hứng của Hồ Sĩ Đống
Hoa trình tiêu khiển tập của Nguyễn Đề
Tinh sà kỷ hành của Phan Huy ích
Hải Yên thi tập của Đoàn Nguyễn Tuấn

Hải Ông thi tập của Đoàn Nguyễn Tuấn
Hoa trình ngẫu bút lục của Lê Quang Viện
Mi Xuyên sứ trình thi tập của Phạm Chi Hơng
Yên thiều thi thảo của Nguyễn T Giản
là những tài liệu tham khảo chính của luận án. Đồng thời, trong thời gian gần
hai năm từ tháng 10 - 2003 đến tháng 9 - 2005 sang Hàn Quốc thực tập và
nghiên cứu, tôi đã có dịp đọc sách ở các th viện lớn nh Th viện Quốc gia;
Th Viện Trờng Đại học Quốc gia Seoul, Th viện Trờng Đại học Koryo,
Đại học Ngoại ngữ Hàn Quốc với mục đích tìm tòi t liệu và tìm hiểu về
vấn đề đang nghiên cứu. Những vần thơ xớng hoạ giữa các sứ thần Hàn Quốc
với Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Công Hãng, Phan Huy ích, Vũ Huy Tấn
mà tôi thu thập đợc mang về cũng là những tài liệu tham khảo chính.


10

4. Các phơng pháp thực hiện
4.1. Phơng pháp thống kê, đối chiếu so sánh
Thông thờng, mỗi văn bản Hán Nôm có nhiều dị bản, mỗi dị bản lại có
thể hình thành từ các niên đại khác nhau hoặc ở hai nớc khác nhau. Do đó,
luận án sẽ sử dụng phơng pháp thống kê, đối chiếu so sánh giữa các dị bản
để rồi xác lập một văn bản tốt nhất, hợp lý nhất.
4.2. Phơng pháp văn bản học Hán Nôm
Các văn bản thơ văn xớng hoạ giữa sứ thần hai nớc Việt - Hàn đợc
ngời xa chép tay, khắc in. Cho dù công việc chép tay nhân bản hoặc khắc in
đợc tiến hành rất cẩn thận, chu đáo, nhng cũng khó tránh khỏi sai sót.
Dựa vào đặc trng của phơng pháp văn bản học Hán Nôm, luận án sẽ
phân tích văn bản qua diện mạo, chất giấy, lối chữ rồi từ đó phát hiện những
chỗ nhầm lẫn, những điều cần đính chính, đa ra một văn bản cần chọn lựa.
4.3. Phơng pháp lịch sử

Thơ văn xớng hoạ giữa sứ thần hai nớc Việt - Hàn do các sứ thần
sáng tác trong các lần đi sứ Trung Quốc. Mỗi chuyến đi sứ thờng gắn liền với
một thời điểm lịch sử cụ thể và giá trị thơ văn của các sứ thần cũng sẽ đợc
nghiên cứu, đánh giá theo hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Thơ văn xớng hoạ của
các sứ thần hai nớc Việt - Hàn cũng không ngoại lệ.
4.4. Phơng pháp phân tích đánh giá tác phẩm văn học
Để tìm hiểu giá trị các vần thơ xớng hoạ giữa các sứ thần hai nớc
Việt - Hàn, luận án vận dụng quan điểm duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác,
thể hiện chủ yếu ở tinh thần kế thừa di sản văn hoá dân tộc, phát huy tinh thần
ngoại giao rộng mở, đa phơng hoá và thân thiện hữu nghị theo đờng lối của
Đảng để đánh giá tác phẩm. Luận án cũng sử dụng phơng pháp thể loại,
phong cách ngôn từ, vần điệu để phân tích, lý giải thơ văn xớng hoạ của các
tác gia.
5. Những đóng góp mới của luận án


11

Trong thời gian công tác ở Hàn Quốc, chúng tôi đã su tầm đợc Chi
Phong tập, tuyển tập ghi chép toàn bộ thơ xớng hoạ và các bài văn xuôi của
Phùng Khắc Khoan và Lý Tuý Quang. Đồng thời, chúng tôi cũng đã su tầm
đợc 8 bài thơ xớng hoạ giữa Nguyễn Công Hãng với Lý Thế Cẩn, 4 bài thơ
xớng hoạ giữa Phan Huy ích, Vũ Huy Tấn với Từ Hạo Tu...
Trong kho sách Viện Nghiên cứu Hán Nôm cũng nh Th viện các
trờng Đại học, Th viện Quốc gia.., các bài thơ xớng hoạ giữa các sứ thần
hai nớc Việt - Hàn không đợc tập trung mà rải rác, tản mạn trong các tập
thơ văn của các tác gia. Luận án sẽ tập trung lại và dựa vào tính chất đặc thù
của phơng thức định hình văn bản Hán Nôm để khảo sát diện mạo, tình trạng
cụ thể văn bản, kết hợp với văn bản tìm đợc ở Hàn Quốc, tiến tới xác lập một
thiện bản thơ văn xớng hoạ giữa các sứ thần hai nớc Việt Nam - Hàn Quốc

trong lịch sử.
Ngoài ra, tìm hiểu các giá trị thơ văn, lịch sử, t tởng, lòng yêu nớc,
tình hữu hảo, giá trị thẩm mỹ trong thơ văn xớng hoạ giữa các sứ thần hai
nớc Việt - Hàn sẽ là một đóng góp của luận án, đặc biệt là đối với quan hệ
giữa hai nớc Việt - Hàn hiện nay.
Phần phụ lục của luận án tuyển dịch một số tác phẩm tiêu biểu đã đợc
giám định sẽ cung cấp t liệu cho giới nghiên cứu, giới ngoại giao và bạn đọc
quan tâm, đặc biệt là in lại nguyên bản thơ văn xớng hoạ giữa Lý Chi Phong
với Phùng Khắc Khoan vào năm Đinh Dậu (1597) cùng một số t liệu khác
mới tìm thấy ở Hàn Quốc.
6. Bố cục của luận án
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận án bao gồm 3 chơng:
Chơng 1: Khái quát sự giao lu văn hoá và tình hình thơ văn xớng
hoạ của sứ thần Việt Nam - Hàn Quốc.
Chơng 2: Khảo sát văn bản thơ văn xớng hoạ của sứ thần Việt Nam Hàn Quốc.
Chơng 3: Giá trị văn bản thơ văn xớng hoạ của sứ thần Việt Nam Hàn Quốc.


12

CHƯƠNG I

Khái quát sự giao lu văn hoá v tình hình thơ văn
xớng hoạ của sứ thần Việt Nam - Hn Quốc

Giao lu văn hoá là nhu cầu của cuộc sống con ngời, là sự vận động
phát triển nội tại của một nền văn hoá trong mối quan hệ với các nền văn hoá
khác. ở phơng Đông, ấn Độ và Trung Quốc là hai trung tâm văn hoá lớn. Từ
thời cổ đại, sự lan toả và ảnh hởng của hai trung tâm văn hoá này sang các
nớc xung quanh là rất lớn. Đến thời Trung đại, cùng với sự phát triển của

Nho giáo, văn hoá Trung Hoa ảnh hởng mạnh hơn tới các nớc láng giềng.
Ngợc lại, văn hoá các nớc khác cũng toả ra và ảnh hởng sang Trung Quốc.
Đó là hiện tợng giao lu văn hoá thông thờng trong lịch sử nhân loại.
Bắt đầu từ thời Trung đại, trên cơ sở văn hoá đồng văn, Việt Nam và
Hàn Quốc đã có những đợt giao lu văn hoá, trong đó có cả những cuộc giao
lu văn hoá giữa các sứ thần hai nớc ở Bắc Kinh, Trung Quốc.
1.1. Văn hoá đồng văn
1.1.1. Sự du nhập chữ Hán và Nho học
ở Việt Nam, đa số ý kiến cho rằng, ngời đầu tiên truyền bá chữ Hán
sang Việt Nam là Tích Quang và Nhâm Diên vào thế kỷ I sau Công nguyên.
Sau khi nhà Hán xâm lợc Việt Nam (năm 111 TCN), chúng chia đất Nam
Việt thành chín quận, trong đó, ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam thuộc
lãnh thổ Việt Nam ngày nay. Giao Chỉ là trung tâm chính trị, văn hoá của cả
chín quận. Tích Quang từng là Thái thú Giao Chỉ và Nhâm Diên là Thái thú
Cửu Chân. Hai viên Thái thú này gắng sức truyền bá chữ Hán cũng nh đa
Nho học vào Việt Nam để phục vụ cho việc cai trị đợc thuận lợi. Nhng, theo
một nghiên cứu mới đây, Trần Nghĩa nêu ý kiến chữ Hán du nhập vào Việt


13

Nam từ thời Triệu Đà [50, tr.83], tức là còn sớm hơn nhà Đông Hán truyền bá
chữ Hán vào đất Việt. Tuy nhiên, Trần Nghĩa cũng thừa nhận họ Tích và họ
Nhâm là nhân vật tiêu biểu, có công lớn, "là hai ngời truyền bá chữ Hán và
đạo Nho hăng say nhất" [50, tr.84].
Trong bài viết này [50, tr.82 - 90], trên cơ sở cứ liệu của Việt Nam và
Trung Quốc, đối với vấn đề Vai trò của Nho học Việt Nam thời Bắc thuộc,
Trần Nghĩa đã phân chia thành hai giai đoạn là Bắc thuộc lần thứ nhất
(179TCN - 40 SCN) và Bắc thuộc lần thứ hai (43 - 544SCN) rồi chứng minh
luận điểm: "Chỉ từ giai đoạn Bắc thuộc lần thứ hai trở về sau, cách nhìn của

ngời Lĩnh Nam đối với chữ Hán và đạo Nho mới có sự thay đổi... Họ dần dần
ý thức đợc rằng chữ Hán chẳng qua là một thứ công cụ ghi chép, không nên
đánh đồng với kẻ đô hộ. Chẳng những vậy, còn có thể lợi dụng chữ Hán, tiếng
Hán và đạo Nho để học tập văn hoá, phát triển nhân tài, xây dựng nền văn hoá
thành văn của dân tộc, phục vụ cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng đất nớc".
Còn đối với việc truyền bá chữ Hán và Nho học ở nớc ta trong giai
đoạn Bắc thuộc lần thứ nhất, ông đã nêu rõ là đã vấp phải những trở lực lớn.
Trở lực thứ nhất là sức mạnh của nền văn hoá bản địa. Ông đã dẫn
những t liệu của Trung Quốc trong Hán th, Sử ký để chứng minh cho ý kiến
nêu trên. Chẳng hạn nh câu chuyện Triệu Đà vốn ngời phơng Bắc đợc
Hán Cao Tổ phong cho làm Nam Việt Vơng, vậy mà, do ở đất Việt lâu ngày,
khi Lục Giả mang ấn tới phong, Triệu Đà đã búi tó, ngồi xổm mà tiếp khách.
Sứ phơng Bắc là Lục Giả thấy vậy bèn nói: "Vơng vốn là ngời Hán, thân
thích phần mộ đều ở đất Chân Định, nay lại phản tính trời, bỏ mũ đai, muốn
chống lại nhà Hán, chả lầm lắm ?". Triệu Đà vội vàng đứng dậy nói rằng:
"Tôi ở đây lâu ngày, quên mất cả lễ nghĩa." Điều đó cho thấy, hồi bấy giờ, chữ
Hán đã du nhập vào đất Việt nhng đạo Nho vẫn còn mờ nhạt.
Trở lực thứ hai là phong trào đấu tranh ngày một lan rộng. Điều này
đợc gián tiếp phản ánh qua một số nhân vật có ảnh hởng ở xã hội Trung


14

Quốc đơng thời nh Hoài Nam Vơng Lu An hay Dơng Hùng. Trần Nghĩa
đã trích dẫn t liệu trong Hậu Hán th, Thuỷ kinh chú, An Nam chí lợc, Ngự
Giao kỷ... để chứng minh rằng, đơng thời, sự cai trị của phơng Bắc đối với
vùng đất này còn "lỏng lẻo", "dân cậy hiểm xa, thờng hay phản loạn", "tuy
đặt làm quận huyện mà phong tục ngời Di vẫn cứ để nh cũ".
Nguyễn Tài Th, trong cuốn sách của mình [39], tuy ông không phân
chia rạch ròi và dẫn chứng cứ cụ thể nh Trần Nghĩa nhng cũng có nhận định

tơng tự: "Nho học truyền vào Việt Nam trong một hoàn cảnh đặc biệt. Ngời
Hán xâm lợc Việt Nam và đa Nho học vào. Lúc đầu, Nho học là cái xa lạ
với t tởng và tập tục truyền thống Việt Nam. Về sau, nó đợc bản địa hoá và
trở thành nhu cầu tinh thần của ngời Việt Nam. Dới thời kỳ Bắc thuộc, Nho
học ở Việt Nam mới là hiện tợng có mặt ở các trị sở của ngời phơng Bắc.
Về sau, khi giành đợc độc lập, Nho học dần dần quen thuộc với nhiều vùng
của đất nớc" [39,tr.233,234].
Dới góc độ tiếp xúc giao lu với văn hoá Trung Hoa, Đặng Đức Siêu
trong cuốn sách của mình [29] cũng viết: "Với cơ cấu tổ chức làng xã bền
chặt, về thực tế là vẫn nằm ngoài những tác động của chính quyền đô hộ, hoặc
đã triệt tiêu, giảm thiểu những tác động đó đến mức tối đa, nhờ vậy mà đời
sống văn hoá tinh thần của tổ tiên ta đơng thời vẫn tiếp diễn với những phong
tục tập quán cổ truyền, với nếp sống, lẽ sống gắn bó với tinh hoa của nền văn
hoá bản địa, mang đậm màu sắc Đông Nam á. Tuy nhiên, qua một quá trình
cộng c lâu dài đến nh vậy (hàng chục thế kỷ) với ngời Hán, lại ít nhiều
không thể không chấp nhận một số hình thức cỡng chế nào đó của chính
sách "áp đặt văn hoá" của chính quyền đô hộ, một số yếu tố văn hoá Hán cũng
đã đợc đa vào hệ thống văn hoá Việt Nam nh: ngôn ngữ, văn tự, thể chế
quản lý, cách trang phục, ăn ở, một số nghi thức lễ tiết, phong tục trong giỗ
chạp, cới xin, ma chay... dới dạng thức đan xen giữa yếu tố bản địa với yếu
tố Hán đã đợc cải biến ở những chừng mực nhất định". [ tr.62 - 63 ]


15

Khác với ý kiến của Trần Nghĩa và hai vị nêu trên, có ý kiến cho rằng,
chữ Hán và Nho học đợc du nhập vào Việt Nam từ sau cuộc khởi nghĩa Hai
Bà Trng (40 - 43) và sự tiếp nhận chữ Hán, Nho học của ngời Việt là trên
tinh thần tự nguyện, tự nhiên, ngời có công truyền bá chữ Hán và chữ Nho
học đầu tiên phải là Sĩ Nhiếp (137 226)3 , ngời đợc nhà Nho Việt Nam đời

sau tôn xng là Sĩ Vơng, Nam Giao học tổ.
Hai ý kiến trên tới nay vẫn còn có tranh luận, xin chỉ nêu ra và coi nh
cập nhập thông tin, còn ý kiến của chúng tôi là tuân thủ nhận định chính thống
và ghi nhận công lao lớn của Sĩ Nhiếp đối với nền Nho học Việt Nam.
Trải theo thời gian 1000 năm Bắc thuộc, tuy Nho học đợc du nhập gặp
nhiều trở ngại trong quá trình truyền bá nhng có thể nói đã có ảnh hởng
nhất định tới xã hội Việt Nam đơng thời và từng bớc thay đổi nhận thức của
ngời Việt cổ, họ tiếp nhận chữ Hán nh một công cụ ghi chép và Nho học
nh một thành tố văn hoá.
Xuất phát từ nhận thức đó, một số tác phẩm chữ Hán của ngời Việt đã
ra đời nh: "Sáu bức th tranh luận về đạo Phật, bài văn bia ở đạo tràng Bảo
An, bài thơ của Đại Thừa Đăng, bài phú và bài văn sách của Khơng Công
Phụ, bài văn sách của Khơng Công Phục, bài văn khắc trên chuông Thanh
Mai, bài ký và bài thơ của Liêu Hữu Phơng, bài thơ tiễn Mã Thực, bảy đoạn
văn đối thoại trong giới Thiền học"... [50, tr.88].
ở Hàn Quốc, chữ Hán du nhập vào thời điểm cụ thể nào thì vẫn cha
xác định đợc rõ. Nhng theo các sách sử Hàn Quốc cho biết, từ năm 108
TCN, nhà Hán đem quân xâm lợc bán đảo Hàn, cai trị bán đảo này khoảng
100 năm và truyền bá chữ Hán, ra lệnh dùng chữ Hán trong công văn giấy tờ
của cơ quan hành chính do nhà Hán lập ra và bắt quan lại nhân viên ngời bản
địa phải học chữ Hán.
Tuy giới nghiên cứu Hàn Quốc tới nay vẫn cha xác định rõ con ngời
cụ thể truyền bá chữ Hán và Nho học vào Hàn Quốc nhng xét về thời gian thì


16

thấy vào năm thứ 52 đời vua Gô-Y, tức năm 285, một ngời PecChê tên là
WangIn (Vơng Nhân) đã đợc cử sang Nhật Bản giảng dạy Thiên tự văn và
Luận ngữ [21,tr.51]. Nhật Bản th kỷ ghi chép về quá trình Nho học truyền

qua Triều Tiên rồi vào Nhật Bản cũng cho biết rằng, vua PecChê sai Ajikki (A
Trực Kỳ) sang Nhật Bản dâng hai con ngựa quý. Thiên Hoàng của Nhật Bản
nhận thấy Ajikki "tinh thông kinh điển" nên mời làm thày dạy cho thái tử.
Ajikki lại tiến cử WangIn với Thiên Hoàng bởi lý do WangIn thông tỏ kinh
điển hơn mình. Mùa xuân năm 285, WangIn đợc mời sang Nhật Bản, ông
dâng lên Thiên Hoàng Thiên tự văn 1 quyển và Luận ngữ 10 quyển rồi dạy
Thái tử học. Nh vậy, có thể suy đoán, từ trớc năm 285, việc dạy và học chữ
Hán cũng nh Nho học đã xuất hiện trên bán đảo này. Song, có lẽ công việc
đó cha đợc qui củ. Bởi thế, bộ sử cổ nhất của Triều Tiên là Tam quốc sử ký,
phần viết về Koguryo ghi chép rằng, vào năm thứ hai đời vua SoSuRim (371 384), tức năm 372, một số sách kinh điển Nho gia đã đợc nhập vào và nhà
Thái học đợc xây dựng để dạy chữ Hán cho học trò.
Chúng tôi cho rằng, nhà Thái học mà các t liệu Hàn Quốc ghi chép có
lẽ là một ngôi trờng nhỏ đầu tiên đợc dựng lên để dạy chữ Hán cho học trò,
nhng bởi nó có ý nghĩa đánh dấu sự khởi đầu cho sự truyền bá Nho học nên
đợc nho sĩ Hàn đời sau đặt tên nh vậy. Nhà thái học còn đợc gọi là Minh
luân đờng tới thời Koryo năm 958 mới chính thức đợc xây dựng cùng với
Văn Miếu theo mẫu Trung Hoa và chế độ khoa cử Nho giáo ở Hàn Quốc đợc
bắt đầu. Điều này, từ chính sử tới các sách giáo khoa Hàn Quốc đều ghi rõ và
khẳng định nh vậy.
Cũng gần tơng tự nh Việt Nam, trớc thế kỷ X, Nho học, Nho giáo
Hàn Quốc cha có chỗ đứng trong xã hội. Phật giáo phát triển mạnh và chiếm
vị trí chính yếu, s sãi đợc coi trọng và có tri thức cao. Chẳng hạn nh Uôn
Chức (Viên Trắc: 613 - 696), Uôn Hyo (Nguyên Hiểu: 617 - 686) là những vị
cao tăng đợc đông đảo Phật tử tôn kính, dân chúng ngỡng mộ, đã cùng một


17

số nhà s khác giải nghĩa kinh Phật, diễn ra văn vần để các đệ tử dễ học, dễ
nhớ. Tác phẩm của nhà s Uôn Chức đợc ghi chép tổng cộng là 108 quyển

(hiện chỉ còn 17 quyển)... Nhng, học thuyết của nhà Phật không phải là học
thuyết chính trị xã hội. Khi xã hội phát triển thì nó bộc lộ những điểm yếu và
cần có sự kết hợp với tôn giáo khác, học thuyết chính trị khác để quản lý xã
hội. Nho giáo, Đạo giáo có cơ sở để sinh sôi và hội nhập với Phật giáo. Nhà s
không chỉ khuôn lại với kinh Phật mà mở rộng tri thức sang các vấn đề xã hội;
nhà nho cũng tìm hiểu Phật giáo và kết bạn với nhà s; Đạo giáo vốn gần gũi
với Saman giáo, tôn giáo bản địa cũng phát triển mạnh trong giai đoạn giao
thời này và thời gian ngay trớc thế kỷ X đợc coi là thích hợp nhất cho sự hội
nhập tam giáo.
Sự kiện WangKon (Vơng Kiến) dựng triều đại mới, triều đại Koryo,
lập Văn Miếu - Quốc tử giám, thực hiện chế độ khoa cử vào năm 958 đã thực
sự khẳng định chỗ đứng của Nho giáo ở Hàn Quốc.
ở Việt Nam, dới thời Tiền Lê (980-1009), Lý (1009-1225), Nho học
không phát triển bằng Phật giáo. Sử sách còn lại thờng ghi chép việc nhà vua
cho xây dựng chùa chiền, đúc các pho tợng lớn, tổ chức rớc Phật ở các
chùa... Một số nhà s thời Tiền Lê, Lý tham gia hoạt động chính trị, làm cố
vấn, là quốc s cho các vị vua. Ngô Chân Lu, Đỗ Pháp Thuận, Vạn Hạnh... là
những vị cao tăng đợc đảm đơng các chức vụ của triều đình. Song, nh vừa
nêu trên, hoạt động chính trị vốn không phải là công việc của nhà s, nên họ
phải vận dụng t tởng của nhà nho. Nho học, Nho giáo ở Việt Nam dần phát
triển đi lên và chính thức có chỗ đứng trong xã hội với sự kiện dựng Văn Miếu
năm 1070, lập Quốc tử giám năm 1076 dới triều nhà Lý. Xét về thời gian,
Văn Miếu ở Việt Nam đợc lập muộn so với Hàn Quốc hơn 100 năm.
Chữ Hán và Nho học, Nho giáo vốn sản sinh từ Trung Quốc. Trung
Quốc là nớc lớn trong khu vực hiểu theo mọi góc độ: đất rộng, ngời đông,
văn hoá văn minh phát triển sớm, lực lợng quân đội hùng mạnh... Bởi thế,


18


việc nô dịch các nớc nhỏ xung quanh bằng nhiều biện pháp là việc làm cố
hữu từ ngàn xa. Sự truyền bá chữ Hán và Nho học không chỉ mang tính giao
lu mà còn là sự áp đặt, cỡng bức. Song, xét ở mặt khác, giao lu văn hoá là
một hiện tợng bình thờng trong xã hội loài ngời. Việt Nam và Hàn Quốc là
những quốc gia văn hiến, thuở ban đầu tiếp nhận chữ Hán và Nho học không
đợc mặn mà, thậm chí chống lại, đánh đồng sự xâm lợc, nô dịch văn hoá
với giao lu văn hoá. Song, nhận thức đó dần thay đổi và hai dân tộc Việt Hàn đã biết tiếp thu chữ Hán và Nho học một cách sáng tạo, biến nó trở thành
công cụ tăng sức mạnh cho dân tộc.
Từ cơ sở nhận thức đó, chữ Hán và Nho học ở Việt Nam - Hàn Quốc
sau khi có chỗ đứng thì ngày càng phát triển song hành với Trung Quốc. Thế
kỷ XV, Nho học, Nho giáo không chỉ phát triển mạnh riêng chỉ ở Trung Quốc
mà ở cả Việt Nam, Hàn Quốc, cũng phát triển thịnh vợng. Nho học, Nho
giáo sau khi đợc du nhập vào hai nớc tuy đều đợc bản địa hoá, mang màu
sắc riêng nhng xét ở tổng thể, đều có dấu ấn đậm của Nho giáo Trung Hoa.
Nh vậy, du nhập chữ Hán và Nho học có thể đợc coi là cơ sở quan
trọng đầu tiên tạo nên văn hóa đồng văn trong khu vực nói chung, Việt Nam
và Hàn Quốc nói riêng.
1.1.2. Văn học chữ Hán Việt và Hán Hàn cùng chịu ảnh hởng của
văn học Trung Quốc.
Từ khi hai nớc Việt - Hàn thực hiện chế độ khoa cử, tuyển chọn nhân
tài (khoa thi đầu tiên ở Việt Nam vào năm 1075, đời Lý Nhân Tông. Khoa thi
đầu tiên ở Hàn Quốc vào năm 958, thời Koryo), có thể nói đã mở ra một thời
kỳ mới trong sự phát triển văn học chữ Hán. Đã là nho sinh dùi mài đèn sách
đi thi đều phải học Tứ th, Ngũ kinh, tức là những sách kinh điển của Trung
Quốc. Nhiều câu, chữ, truyện... trong những sách đó đã trở thành điển tích,
điển cố văn học chung của các nớc sử dụng chữ Hán. Hơn nữa, các thể loại
văn học, từ thi ca đến văn xuôi của Trung Quốc cũng đợc du nhập sang các


19


nớc trong khu vực. Nho sĩ hai nớc Việt - Hàn tiếp nhận, học tập và sáng tác
theo mô hình và thể loại đó trên cơ sở chất liệu thơ văn của đất nớc mình.
Dới đây, chúng tôi chỉ xét riêng ở góc độ sáng tác thơ theo thể Đờng
luật và tiểu thuyết truyền kỳ chữ Hán.
1. Thơ Đờng luật là thể loại thơ đợc đặt ra từ đời nhà Đờng, (618 917) Trung Quốc theo một luật lệ nhất định. Theo số câu trong bài, thơ Đờng
luật chia ra làm hai lối: tứ tuyệt và bát cú. Trong hai lối ấy, bát cú là chính và
làm thơ phải tuân thủ cách gieo vần, đối, niêm luật. [13, tr.29-30].
Thơ Đờng lại có hai thể: Thể thơ ngũ ngôn và thể thơ thất ngôn. Thực
ra, hai thể thơ này không phải đến đời nhà Đờng mới xuất hiện. Theo giới
nghiên cứu thể thơ ở Trung Quốc cho biết, hai thể thơ này chính thức xuất
hiện từ đời nhà Hán, không phải do một nhà thơ tiêu biểu nào sáng tạo ra mà
nảy sinh từ dân gian, từng bớc phát triển và hớng tới hoàn thiện. Sự phát
triển hớng tới hoàn thiện của hai thể thơ này đã tạo nên sự chú ý của thi nhân
đơng thời và cá biệt một số ngời đã học theo, mô phỏng và đa vào thi đàn.
Tác gia đầu tiên đa thể thơ mới này vào thi đàn là Ban Cố. Ông có bài Vịnh
sử, làm theo thể ngũ ngôn, nội dung viết về câu chuyện xảy ra vào thời Hán
Văn Đế, có một cô gái hiếu thảo sẵn sàng xin bán thân làm nô tì để chuộc tội
cho cha. Có điều, về mặt nghệ thuật lại bị coi là vụng về, cứng nhắc, thiếu chất
thơ. Từ đó trở đi, hai thể thơ này dần đợc phổ biến rộng rãi, đồng thời, nghệ
thuật cũng không ngừng đợc nâng cao. Đến đời Đờng, hai thể thơ này thực
sự mới phát triển đến đỉnh cao nhờ có sự sáng tạo tuyệt vời của hàng loạt
những nhà thơ nổi tiếng, tiêu biểu nh Lý Bạch, Đỗ Phủ, Sầm Tham, Bạch C
Dị... Sự hoàn thiện, hoàn mỹ của hai thể thơ này đã đợc thể hiện một cách
hoàn chỉnh vào đời Đờng đã khiến cho ngời đời sau ngỡng vọng và cứ ngỡ
là thể thơ này đến đời Đờng mới đợc các thi nhân sáng tạo ra.
Suốt chiều dài lịch sử văn học chữ Hán, thể thơ Đờng luật đợc nho sĩ
- thi nhân hai nớc rất trân trọng và sáng tác rất nhiều. Việc thống kê đầy đủ



20

số bài thơ Đờng luật của nho sĩ - thi nhân hai nớc sáng tác là điều khó có
thể thực hiện đợc. Nhng, chỉ cần xem những tập thơ văn đã đợc giới thiệu,
công bố thì có lẽ, cũng giống nh mọi ngời đều thừa nhận, chúng tôi nghĩ
rằng, thơ chữ Hán thể Đờng luật chiếm u thế. Về thể loại thơ này, thế kỷ
XV là thế kỷ phát triển rực rỡ. Cùng với sự thịnh vợng của hai triều đại
phong kiến Việt Nam - Hàn Quốc ở giai đoạn này, thơ văn chữ Hán phát triển
mạnh và thơ Đờng luật đợc a dùng. ở Việt Nam cuối thế kỷ XV, vua Lê
Thánh Tông còn tập hợp các văn thần lập ra Hội Tao đàn (?) mà nhà vua là
Chánh nguyên suý, thơ của nhà vua và Hội Tao đàn nhị thập bát tú làm ra chủ
yếu là thể thơ Đờng luật. ở Hàn Quốc cũng tơng tự nh vậy, phong cách
thơ Đờng hầu nh chiếm lĩnh thi đàn và phát triển đến đỉnh cao không chỉ ở
thế kỷ XV mà còn kéo dài suốt thời trung đại. Sau khi các nho sĩ - thi nhân
thời kỳ đầu triều đại ChoSon nhận chân đợc Tống từ phát triển ở cuối thời kỳ
Koryo không thích hợp với ChoSon nên đã lại chuyển sang làm thơ theo thể
Đờng luật. Từ thời trung kỳ ChoSon (thế kỷ XVII) trở đi, phong trào "văn
Tần Hán, thơ Thịnh Đờng" đã có sức ảnh hởng rất mạnh đến văn học Hàn
Quốc trung đại.
Trong số các bài thơ xớng hoạ giữa sứ thần hai nớc Việt - Hàn sáng
tác ở Bắc Kinh Trung Quốc, ta thấy hầu hết đều đợc sáng tác theo thể này,
duy chỉ có hai bài đợc làm theo thể cổ phong là của Phùng Khắc Khoan và
Lý Chi Phong. Điều đó cũng cho thấy, thể thơ Đờng luật trở thành thể thơ
phổ biến của hai nớc.
2 - Tiểu thuyết truyền kỳ chữ Hán ở hai nớc đều xuất hiện hơi muộn
(cuối thế kỷ XV ở Hàn Quốc với Kim Ngao tân thoại và vào đầu thế kỷ XVI ở
Việt Nam, với Truyền kỳ mạn lục). Các nhà nghiên cứu so sánh văn học
truyền kỳ của Việt Nam, Đài Loan, Hàn Quốc tới nay đều xác nhận rằng,
Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ (Việt Nam) và Kim Ngao tân thoại của
Kim Thời Tập (Hàn Quốc) đều chịu ảnh hởng của tác phẩm Tiễn đăng tân



21

thoại của Cù Hựu đời Minh Trung Quốc. Tuy nhiên, một số ít truyện trong đó
đợc Nguyễn Dữ và Kim Thời Tập chỉ vay mợn cốt truyện hoặc mô típ để
sáng tác trên cơ sở hiện thực ở đất nớc mình, còn đại đa số truyện đều do hai
tác giả sáng tạo trên cơ sở truyện dân gian của hai dân tộc. Nói nh vậy cũng
tức là hai tác phẩm có nét giống nhau khá đặc biệt. Nổi bật trong các công
trình nghiên cứu so sánh Kim Ngao tân thoại với Truyền kỳ mạn lục là Luận
án tiến sĩ của Jeon Hye Kyung (Hàn Quốc). Công trình này đã đợc dịch sang
tiếng Việt và xuất bản thành sách, mang tên Nghiên cứu so sánh tiểu thuyết
truyền kỳ Hàn Quốc - Trung Quốc - Việt Nam do Nhà xuất bản Đại học Quốc
gia Hà Nội ấn hành năm 2004. Theo tác giả, Truyền kỳ mạn lục và Kim Ngao
tân thoại có nhiều chỗ đợc coi là chứng cứ chịu ảnh hởng của Tiễn đăng tân
thoại. Nhng Truyền kỳ mạn lục có thể đợc coi là chịu ảnh hởng toàn diện
về nhiều mặt của Tiễn đăng tân thoại. Còn Kim Ngao tân thoại đã mô phỏng
nhiều phần các mô típ của các truyện cá biệt trong Tiễn đăng tân thoại"
(tr.189).
So sánh về thời gian chịu ảnh hởng của Tiễn đăng tân thoại ở phần kết
luận, tác giả nêu rõ: "Qua xem xét sự ảnh hởng và du nhập của Tiễn đăng tân
thoại vào Hàn Quốc và Việt Nam, ta thấy Tiễn đăng tân thoại gây ảnh hởng
cho sự xuất hiện tác phẩm Kim Ngao tân thoại của Hàn Quốc sớm hơn Truyền
kỳ mạn lục của Việt Nam." (tr.181)
Về mặt phơng thức sáng tác, "có thể nói, Truyền kỳ chịu ảnh hởng
nhiều mặt của Tiễn đăng; Kim Ngao thì mang tính cách sáng tạo cao về mặt
phơng pháp sáng tác nh nêu ngụ ý ý đồ sáng tác của tác giả, đa tính hiện
thực vào yếu tố phi hiện thực" (tr.183)
Sự ảnh hởng của Tiễn đăng tân thoại đối với Kim Ngao tân thoại và
Truyền kỳ mạn lục nhiều hay ít, toàn diện về nhiều mặt hay chỉ ở một vài góc

cạnh đã đợc các nhà nghiên cứu so sánh chuyên sâu phân tích, đánh giá. Còn


22

ý kiến của chúng tôi là Tiễn đăng tân thoại có ảnh hởng tới Kim Ngao tân
thoại của Hàn Quốc và Truyền kỳ mạn lục của Việt Nam, chí ít là về mặt thể
loại. Chúng tôi chỉ dừng lại ở đó và cũng đi đến nhận định rằng các thể loại
của văn học Trung Quốc đã không ít thì nhiều ảnh hởng sang hai nớc nói
riêng, khu vực Hán hoá nói chung.
Trớc khi đề tài nghiên cứu so sánh tiểu thuyết truyền kỳ của Trần ích
Nguyên (Đài Loan) với đầu đề "Nghiên cứu so sánh Tiễn đăng tân thoại và
Truyền kỳ mạn lục" đợc dịch sang tiếng Việt, xuất bản năm 2000 và cuốn
sách của Jeon Hye Kyung nêu trên xuất bản năm 2004 thì có lẽ ở Việt Nam,
cha có một công trình nghiên cứu so sánh nào tơng tự nh vậy. Nhng, một
số nhà nghiên cứu Việt Nam đã tiếp cận vấn đề này và từ nhiều góc độ khác
nhau đã nêu ý kiến của mình. Chẳng hạn nh nhà nghiên cứu lão thành Bùi
Duy Tân chỉ rõ: "Thể loại trong văn học Trung Quốc thời trung đại cực nhiều.
Để làm văn, ông cha ta chỉ tiếp nhận một số. Số ấy thờng đợc Việt hoá để
thích dụng khi thể hiện đất nớc Việt, con ngời Việt, văn hoá Việt." [ 37, tập
II, tr.139 ]
Trong tập sách này [37], từ mục 6 đến mục 9 (tức từ trang 83 đến trang
139), Bùi Duy Tân đã luận bàn sâu sắc về vấn đề thể loại văn học trung đại
Việt Nam. ở đây, chúng tôi đặc biệt quan tâm tới mục 9 - Mối quan hệ về thể
loại giữa văn học Trung Quốc và văn học Việt Nam thời trung đại: Tiếp nhận
- Cách tân - Sáng tạo. Tác giả chỉ ra rằng, từ thế kỷ XVI, văn học thông tục,
dân dã, mang tính đô thị... nh các thể loại tạp kịch, ký kịch, tiểu thuyết đã
vào Việt Nam và tác gia của văn học các thế kỷ này đã sử dụng các loại văn:
tuỳ bút, ký, lục, truyền kỳ, chế, truyện... nh Truyền kỳ mạn lục, Truyền kỳ
tân phả, Thợng kinh ký sự, Công d tiệp ký, Nam triều công nghiệp diễn chí,

Hoàng Lê nhất thống chí... để thể hiện phản ánh, ghi chép những vấn đề của


×