Tải bản đầy đủ (.docx) (59 trang)

Khoá luận tốt nghiệp ý thức nữ quyền trong văn xuôi y ban

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (359.18 KB, 59 trang )

NGUYÊN THỊ HUYÈN TRANG

Ý THỨC NỮ QƯYÈN TRONG
VĂN XUÔI Y
TRƯỜNG ĐẠI HỌC su PHẠM HÀ NỘI
BAN

2
KHOA NGỮ VĂN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lý luận văn học

NGUYÊN THỊ HUYÈN TRANG

Ý THỨC NỮ QUYÈN TRONG VĂN XUÔI Y BAN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC


• • •

Chuyên ngành: Lý luận văn học

Ngưòi hưóng dẫn khoa học: ThS. Nguyễn Thị Vân Anh


TRƯỜNG ĐẠI HỌC su PHẠM HÀ NỘI
2
KHOA NGỮ VĂN



Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và lòng biết ơn sâu sắc tới ThS. Nguyễn Thị Vân

Anh - người trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận tình giúp tôi hoàn thành khóa luận này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới tất cả các thầy cô giáo trong khoa Ngữ Văn, đặc biệt là
thầy cô trong tố Lý luận văn học và các bạn sinh viên đã giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi đê
tôi hoàn thành khóa luận.
Tôi xin chân thành cảm ơn ỉ
Hà Nội, ngày 21 tháng 05 năm 2015 Sinh viên

LỜI CẢM ƠN

Khóa luận được thực hiện và hoàn thành dưới sự hướng dẫn trực tiếp của ThS.

Nguyễn Thị Vân Anh. Tôi xin cam đoan rằng:
Khóa luận là kết quả tìm tòi, nghiên cứu của riêng tôi.
Những tư liệu được trích dẫn trong khóa luận là trung thực.
Ket quả nghiên cún này không hề trùng khít với bất cứ công trình nghiên cún nào
từng công bố.
Neu sai, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Hà Nội, ngày 21 thảng 05 năm 2015 Sinh viên


MỤC LỤC

TÀI LIỆU THAM KHẢO

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Trong xã hội Việt Nam xưa, người phụ nữ ít được quan tâm đúng mực, các tác
phẩm văn chương phản ánh về người phụ nữ lại càng hiếm hoi, ý thức nữ quyền tồn tại
trong các tác phẩm văn chương lúc đó khá mờ nhạt.
Khi đất nước bước vào thời kì đổi mới, điều kiện kinh tế xã hội có nhiều biến đổi,
văn học cũng có những chuyển biến tích cực trong đó tiêu biểu là sự xuất hiện của
dòng văn chương mang âm hưởng nữ quyền do chính các tác giả nữ sáng tác. Vương
Trí Nhàn trong bài Phụ nữ và sảng tác văn chương đã nhận xét: “hình như do sự

nhạy cảm của riêng mình, phải nữ bắt mạch thời đại nhanh hơn nam giới”. Phải
chăng đây là nguyên nhân giúp hàng loạt các cây bút nữ nhận được sự ái mộ của độc
giả, trong đó phải kê tới nhà văn nữ Y Ban.
Cùng với các nhà văn, nhà thơ nữ đương thời: Lê Minh Khuê, Võ Thị Hảo, Lý
Lan, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh,... Y Ban là cây bút thể hiện rõ những
cảm nhận, trải nghiệm táo bạo, tể nhị về giới mình trong các sáng tác văn học. Các tiểu
thuyết, truyện ngắn của Y Ban viết về những điều nhà văn suy ngẫm. Y Ban luôn đứng
về phía những người phụ nữ chịu đau khố, thiệt thòi. Bằng tài năng của mình nhà văn
đã mang tiếng nói của giới mình đến đông đảo công chúng, đồng thời thê hiện tiếng
nói đòi bình đăng giới của tác giả trong xã hội hiện nay.
Có thể nói, âm hưởng nữ quyền được thể hiện đậm đặc trong các sáng tác của nhà
văn Y Ban. Ý thức nữ quyền trở thành sợi chỉ đỏ, định hướng và xuyên suốt quá trình
sáng tác của chị. Với số lượng tác phẩm lớn, chủ yếu là tiểu thuyết và truyện ngắn, Y
Ban đã bộc lộ cảm quan riêng của mình về người phụ nữ đồng thời góp thêm một tiếng


nói vào cuộc đấu tranh bình đẳng giới đã và đang phát triển trong văn học Việt Nam
những năm gần đây.
Trang văn của Y Ban cất lên để ca ngợi, khắng định vẻ đẹp, vai trò, thiên


chức của người phụ nữ, cũng như khẳng định những khát vọng sống mãnh liệt của

người phụ nữ trong tình yêu, hôn nhân dù là những người phụ nữ xấu xí nhất, bất hạnh
nhất. Y Ban muốn tạo cho mình và văn mình một giọng điệu, một bản sắc riêng.
Với việc lựa chọn đề tài “Ý thức nữ quyền trong văn xuôi Y Ban”, người viết
muốn khai thác những biểu hiện của ý thức nữ quyền trong sáng tác văn xuôi của cây
bút nữ này, đồng thời chỉ ra những đóng góp riêng biệt của Y Ban trong việc diễn đạt
tinh thần thời đại cũng như sự khẳng định chỗ đứng của tác giả trong tiến trình vận
động của văn xuôi Việt Nam hiện đại.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Các bài viết về sáng tác của Y Ban trên các báo và tạp chỉ
Y Ban được bạn đọc và giới phê bình chú ý khi Bức thư gửi mẹ Ẩu Cơ đạt giải
nhất cuộc thi truyện ngắn của Tạp chí Văn nghệ Quân đội (1989 - 1990). Trong bài Một

giọng nữ trầm trong văn chương nhà nghiên cứu phê bình Bùi Việt Thắng đã nhận
định: “Y Ban có lối viết riêng của mình, chị chú ý khai thác nhiều tâm trạng điến hình
của nhân vật trong những tình huống tiêu biểu”. Ông cho rằng: “Truyện của Y Ban có
thể được xếp vào dạng truyện tâm tình - không đặc sắc về cốt truyện và tình tiết song lại
có khả năng lắng đọng trong người đọc bởi chiều sâu tâm lí của tính cách da diết của
tình đời, tình người”. Ồng đưa ra nhận xét: “Y Ban là một người phụ nữ viết văn đầy
nhạy cảm và chị cảm nhận được những biến thái tinh vi trong tâm hồn con người”.
Ngoài ra, Xuân Cang trên Báo Văn nghệ số 25 ngày 5/7/2003 có bài Y Ban và những

thân phận đàn bà. Ồng viết: “Y Ban là nhà văn viết rất nhạy cảm, chị cảm nhận được
những biến thái tinh vi trong tâm hồn con người, thậm chí chị còn cảm nhận sự vật, sự
việc bằng nhiều giác quan. Đây có lẽ là bản nãng của một người phụ nữ, cũng vì vậy
mà nhân vật nữ trong truyện ngắn của chị chủ yếu là những người phụ nữ luôn đau đáu
nỗi niềm tâm trạng” [14]. Trên báo Nông nghiệp số 5, năm 2006, bài viết Phụ nữ là

đàn bà đã đưa ra nhận xét về một vài tác phẩm của Y Ban: “Ngay ở tên tác phẩm các
tác giả đã muốn lưu ỷ với độc giả rằng họ đang viết về phụ nữ: Đàn bà xấu thì không có



quà (Y Ban),...” hay “Văn học cách mạng không thể có phụ nữ ngoại tình vì đã là người
nữ anh hùng không thể có hành vi phi đạo đức. Ngược lại, các nhà văn hôm nay rất sính
nói chuyện đàn bà ngoại tình, ngoại tình công khai, ngoại tình nén lút, ngoại tình xác
thịt hay ngoại tình bằng những giấc mơ (Người đàn bà và những giấc mơ - Y Ban)”
[15]. Xoay quanh vấn đề truyện ngắn và ý thức phái tính trong văn xuôi Y Ban còn có
những bài viết như: Nhà vãn Y Ban và đàn bà xấu, Nhà văn Y Ban: Phụ nữ ...đến

cái tuổi này thì mọi cải đều dễ giải tỏa,... Đáng chú ý là các bài viết của các tác giả:
Lê Thị Hương Thủy, Vũ Thị Oanh, Phong Lê. Tuy nhiên những bài viết về sáng tác của
Y Ban trên các báo và tạp chí chưa thực sự phong phú về số lượng và khảo sát chưa sâu.
Các tác giả chỉ dừng lại tìm hiêu một số tác phấm tiêu biêu, nhận diện tác giả mà chưa
nghiên cún cụ thế các bình diện của tác phẩm hoặc hệ thống hóa tác phẩm. Nhưng trên
các báo mạng và các diễn đàn văn nghệ ta sẽ thấy một không khí sôi nổi, thang thắn, tự
do khi trao đồi về những tập truyện ngắn của Y Ban.
2.2. Các bài viết, trao đổi về sáng tác của Y Ban trên các diễn đàn và báo mạng
Trong bài phỏng vấn do Hoàng Thu Phố thực hiện khi cuốn Hành trình của tờ

tiền giả ra mắt, Y Ban bày tỏ việc chị “đánh giá cao độc giả hơn các nhà phê bình văn
học” là “điều hiển nhiên”. Vì chị cho rằng: “Bạn đọc là người thông minh nhất” và chị
“hoàn toàn tôn trọng ý kiến của độc giả”. Bài viết “Y Ban — hành trình đến tận cùng
thế tục” trên www.vỉetimes, tác giả Hoàng Tố Mai đã hệ thống lại những sự kiện đặc
biệt của truyện ngắn cẩm cù và đưa ra những chiêm nghiệm cùng tác giả Y Ban. Cũng
trên trang này Xuân Anh có bài viết về nhà văn Y Ban có tựa đề “Buồn ơi! Y Ban chào
mi!”. Có thể nói tập truyện I am đàn bà đã tạo nên một làn sóng tranh luận trên các
diễn đàn. Trong đó có những lời khen và cả những phản hồi trái chiều. Những ý kiến
trái chiều cũng có lý lẽ của họ nhưng nên chăng họ cần đặt nó trong hệ thống những sự
kiện khác đê thấy được toàn bộ giá trị của tác phâm đê tránh cái nhìn chủ quan, phiến
diện theo khía cạnh dung tục tầm thường. Ngoài ra, khi tác phẩm Xuân Từ Chiều của
Y Ban được xuất bản (6/2008 của NXB Phụ Nữ) trên báo mạng đã liên tục có nhiều bài

viết về tác phấm này, chang hạn: trang WWW, moinsavmotcuonsach. com, vn, Minh


Văn Chất có bài “Xuân Từ Chiều một “lát cắt” mới về cuộc sống người phụ nữ”, hay
trang www.antd.vn, tác giả Trần Thanh Hà có bài “Xuân Từ Chiều - chua xót vì nỗi con
người”. Bên cạnh những bài viết nói trên, các bài nhà văn Y Ban trả lời phỏng vấn của
các phóng viên trên các báo cũng gợi mở cho chúng tôi rất nhiều trong quá trình thực
hiện khóa luận này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Nắm vững kiến thức về lý thuyết phê bình nữ quyền.
- Vận dụng lý thuyết phê bình nữ quyền vào tìm hiểu tiểu thuyết và truyện ngắn Y
Ban nhằm làm nổi bật giá trị nội dung tư tưởng và giá trị nghệ thuật các tác phẩm của
chị.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm ra những phương diện the hiện ý thức nữ quyền trong tiểu thuyết và truyện
ngắn của Y Ban.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Trong khóa luận này, chúng tôi tập trung nghiên cứu ý thức nữ quyền trong văn
xuôi Y Ban.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của khóa luận là khảo sát và phân tích các tác phẩm tiểu
thuyết và truyện ngắn của nhà văn Y Ban.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện khóa luận này, chúng tôi vận dụng một số phương pháp
nghiên cứu cơ bản sau:
-

Phương pháp hệ thống



-

Phương pháp thống kê

-

Phương pháp so sánh

-

Phương pháp phân tích tổng hợp

6. Đóng góp của khóa luận
Trên cơ sở những khái niệm được xác lập,

khóa luậnđi sâu tìm

hiểu sự

biểu hiện ý thức nữ quyền trong văn xuôi của Y Ban, từ đó chỉ ra giá trị của ý thức nữ
quyền trong việc biểu đạt quan niệm thẩm mỹ của nhà văn. Với khóa luận này, chúng
tôi hy vọng góp phần làm rõ những nét độc đáo trong ý thức nữ quyền của Y Ban nói
riêng, đồng thời khẳng

định sức mạnh và ưu thế của

dòng văn học nữ Việt Nam hiện đại nói chung.
7. Cấu trúc của khóa luận

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung khóa luận được
cấu trúc theo 3 chương:
Chương 1: Khái quát về chủ nghĩa nữ quyền và phê bình nữ quyền
Chương 2: Nhũng dấu hiệu biểu hiện ý thức nữ quyền trong văn xuôi Y Ban
Chương 3: Phương thức thể hiện ý thức nữ quyền trong văn xuôi Y Ban

NỘI DƯNG Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ CHỦ NGHĨA NỮ QUYỀN VÀ PHÊ BÌNH NỮ QƯYÈN
1.1. Chủ nghĩa nữ quyền, nguồn gốc phát sinh và quá trình phát triển
Loài người mở đầu lịch sử của mình bằng chế độ mẫu hệ. Nhưng chế độ này tồn
tại không được bao lâu, sau đó nó được thay thế dần bằng chế độ phụ hệ. Người đàn
ông trở thành trụ cột trong gia đình và có quyền quyết định mọi vấn đề liên quan tới gia
đình, dòng tộc, duy trì sự tồn tại của loài người. Người đàn ông nắm quyền hành vừa
đem đến những lợi ích quan trọng trong quá trình phát triển của xã hội nhưng đồng thời
cũng đem đến sự thống trị hà khắc trong cuộc sống của người phụ nữ. Bởi vậy cuộc đấu
tranh đòi bình đẳng giới giữa nam và nữ không ngừng diễn ra trong nhiều thời kì và đến


nay vẫn chưa kết thúc. Đen cách mạng tư sản Pháp thời cận đại, phong trào đấu tranh
đòi quyền lợi của người phụ nữ phát triển rầm rộ với tên gọi là Chủ nghĩa nữ quyền
(Feminies). Đen nay, nhu cầu đấu tranh và khẳng định vị trí của người phụ nữ diễn ra
trên nhiều mặt của đời sống xã hội.
Hiếu theo nghĩa tù’ nguyên “nữ quyền” là quyền lợi của người phụ nữ. Ý thức nữ
quyền là ý thức về quyền lợi của người phụ nữ.
Nói một cách khái quát, khái niệm nữ quyền chỉ quyền lợi về chính trị và xã hội
của người phụ nữ. Thông qua những hoạt động đấu tranh chính trị và xã hội, giới nữ đòi
lại những lợi ích chính đáng của mình để đạt đến sự bình đang với nam giới. Ớ phương
Tây, nơi khai sinh ra phong trào nữ quyền, phụ nữ đặt mình trong thế đối lập với nam
giới đê đấu tranh giành quyền bình đang và dấy lên những hoạt động chính trị - xã hội
mang tính nữ quyền thuần túy. Trong khi đó, ở phương Đông, đặc biệt là ở Trung Quốc

và Việt Nam, phong trào nữ quyền gắn liền với phong trào cứu quốc và nữ giới sát cánh
cùng nam giới có tư tưởng tiến bộ để vừa đấu tranh giải phóng dân tộc, vừa cởi trói cho
giới của mình khỏi những ràng buộc cũ của xã hội. Chính vì vậy, trào lưu nữ quyền ở
phương Đông không diễn ra một cách mạnh mẽ, độc lập và có tính đối kháng với nam
giới quyết liệt như ở phương Tây. Đây không phải là cuộc đấu tranh của một giới phản
kháng lại một giới mà là cuộc đấu tranh chung của một cộng đồng xã hội có tư tưởng
cấp tiến về giới chống lại những hệ tư tưởng cổ hủ áp bức người phụ nữ.
Đây là một khái niệm khá quen thuộc với con người thời hiện đại, có mức độ phô
biến rộng trong phạm vi xã hội. Tuy nhiên, với nội hàm và ngoại diện của nó, khái niệm
này lại gây nên những phản ứng khác nhau. Do đặc thù lịch sử, văn hóa, chính trị, xã
hội... vấn đề nữ quyền ở mồi quốc gia, mỗi dân tộc lại khác nhau.
Chủ nghĩa nữ quyền là một hiện tượng hết sức phức tạp, mang tính lịch sử, dân
tộc. Nó bao gồm nhiều xu hướng và giai đoạn đấu tranh khác nhau. Theo các nhà
nghiên cứu chủ nghĩa nữ quyền thì quá trình phát triên của chủ nghĩa nữ quyền có thể
được khái quát thành ba xu hướng tương ứng với ba làn sóng nữ quyền, đó là:


Làn sóng nữ quyền thứ nhất (The First Wave of feminism) diễn ra vào cuối thể kỉ
XIX. Ở giai đoạn này, phụ nữ đấu tranh chủ yểu đòi các quyền lợi như: đòi trả lương
ngang bằng với nam giới, đòi tăng lương và giảm giờ làm, quyền được bầu cử, quyền
được mở rộng ngành nghề đối với phụ nữ...

Làn sóng nữ quyền thứ hai (The Second Wave of
feminism) diễn ra tù’ năm 1918 đến 1968. Người khởi
xướng của làn sóng nữ quyền giai đoạn này là nữ văn sỹ
Pháp Simone de Beauvoir (1908 - 1986) cùng với tác
phẩm nổi tiếng Giới tỉnh thứ hai (1949). Đây là công trình
đặt nền móng cho việc nghiên cứu phụ nữ từ góc nhìn
giới (gender). Nó đưa đến một



phong trào đấu tranh chống lại những áp chế phi lý của nền văn hóa phụ quyền
bấy lâu đối với phụ nữ. Theo Simone de Beauvoir, sự bất bình đắng này không xuất
phát từ nét khác biệt sinh học giữa cơ thể nam và nữ mà chính là do những nguyên tắc
văn hóa - xã hội nam quyền buộc người phụ nữ rơi vào tình thế "tòng thuộc".
Làn sóng nừ quyền thứ ba (The Third Wave of feminism) diễn ra từ thập niên
1990 đến nay.
1.2. Phê bình nữ quyền
Ý thức nữ quyền hay chủ nghĩa nữ quyền biểu hiện ở rất nhiều lĩnh vực khác
nhau, ở các mặt: chính trị, văn hóa, tư tưởng... Trong lĩnh vực văn học nghệ thuật, ý
thức nừ quyền được biểu hiện trước hết ở phương diện phê bình văn học. Phê bình nữ
quyền đã sớm được hình thành và phát triên thành một trào lưu có sức ảnh hưởng rộng
rãi. Điều này làm cho thực tiễn lịch sử văn học buộc phải công nhận nó như một trường
phái phê bình chính thống, có lý luận riêng, phương pháp riêng.
Phê bình nữ quyền luận bắt đầu thịnh hành từ cuối thập niên 1960 và đầu thập
niên 1970, một mặt, như một nỗ lực lý thuyết hoá các phong trào tranh đấu cho nữ
quyền rầm rộ trong xã hội Tây phương lúc bấy giờ; mặt khác, như một bước phát triến
mới những phát hiện táo bạo của hai nhà văn nừ nổi tiếng khá lâu trước đó: Virginia
Woolf và Simone de Beauvoir. Trong cuốn Le deuxième sexe, xuất bản lần đầu năm
1949, Beauvoir phê phán gay gắt nền văn hoá phụ hệ đã đẩy phụ nữ ra vị trí ngoài lề
của xã hội cũng như của văn học nghệ thuật. Trong văn hoá ấy, nam giới đồng nghĩa với
nhân loại, đồng nhất với lịch sử, còn phụ nữ thì bị nhìn như một “cái khác” (Other), lúc
nào cũng ở vị thế phụ thuộc, phải dựa vào nam giới mới có thế tự định nghĩa được
chính mình.
Các nhà nữ quyền luận sau này xuất phát từ rất nhiều góc độ khác nhau, với những
phương pháp luận có khi khác hẳn nhau, đều cùng chia sẻ một số niềm tin chung. Một,
tất cả những cái gọi là chủ thê tính, bản ngã và bản sắc, bao gồm cả bản sắc của nữ giới
- thường được gọi là nữ tính - không phải là những gì tất định và bất biến, hay nói như



Beauvoir, “người ta không sinh ra là phụ nữ, người ta trở thành phụ nữ”. Hai, cơ chế
tiêu biểu nhất trong việc đàn áp phụ nữ chính là nền văn hoá phụ quyền, hay thỉnh
thoảng, với một số nhà nữ quyền, còn được gọi là nền văn hoá duy dương vật
(phallocentric culture). Và ba, nhiệm vụ của các cây bút nữ không phải chỉ là chống lại
mọi hình thức áp chế của nam giới mà còn phải cố gắng xác định một thứ mỹ học riêng
của nữ giới, tù' đó, thiết lập nên những điển phạm riêng, và cuối cùng, xây dựng những
tiêu chí riêng trong việc cảm thụ và đánh giá các hiện tượng văn học.
Nói đến những khác biệt giữa giới tính nam và nữ, người ta thường căn cứ trên
năm yếu tố chính: sinh lý, kinh nghiệm, vô thức, các điều kiện kinh tế, xã hội và diễn
ngôn. Ngày xưa (và hiện nay vẫn còn, ở một số nơi nào đó trên thể giới), người ta căn
cứ chủ yếu vào yểu tố sinh lý để chứng minh phụ nữ là những “người đàn ông bất toàn”
(imperfect men), là những kẻ không có gì cả, trừ... tử cung (tota mulier in utero /
woman is nothing but a womb); sau, dưới ảnh hưởng của Freud, người ta xem phụ nữ là
những kẻ không có cu và không lúc nào không bị day dứt bởi mặc cảm bị thiến
(castration complex). Một số nhà nữ quyền luận muốn chứng minh ngược lại: chính nhờ
một số đặc điêm riêng biệt về sinh lý, như việc có kinh, có thai, có sữa và sinh đẻ,
người phụ nữ có quan hệ gần gũi và mật thiết với thế giới vật lý và với hiện thực nói
chung hơn hẳn đàn ông. Những phân tích này dẫn một số nhà nữ quyền luận đến với
phân tâm học: trong khi nam giới, khi chớm có ý thức, đã phải tách ra khỏi mẹ của
mình để nhập vào thế giới phụ quyền của bố, phụ nữ, ngược lại, ở mãi với mẹ, xây
dựng bản sắc của mình bên cạnh mẹ. Những chọn lựa ban đầu này hằn trong vô thức
của hai giới những dấu ấn không dễ gì phai nhạt:
nam giới hay nghĩ đến quyền, nữ giới hay nghĩ đến trách nhiệm; nam giới thích
những sự thay đối, nữ giới thích sự ôn định; nam giới thích thứ trật tự phân cap
(hierarchical orders), nữ giới thích sự hài hoà. Các nhà Mác-xít tìm cách giải thích
những khác biệt và nhất là cách biệt giữa nam và nữ ở các điều kiện kinh tế và xã


hội, từ hệ thống giáo dục đến cách phân công lao động và cách tổ chức gia đình, vốn
có truyền thống nằm trong tay nam giới và ưu tiến dành hăn cho nam giới.


Năm 1968, trong cuốn Sex and Gender: On the Development of
Masculinity and Femininity, Robert Stoller phân biệt hai khái
niệm giống (sex) và giới tính (gender): trong khi
giống gắn liền với đặc điểm sinh lý, giới tính là yếu
tố do văn hoá quy định, gồm toàn bộ những phản hồi
được điều kiện hoá đối với cách nhìn của xã hội về
tính cách của nam và nữ. Đây là một trong những nền
tảng tư tưởng của các nhà nữ quyền luận thuộc thế hệ
thứ hai: trong khi những khác biệt về sinh lý là những
điều không thế tránh khỏi, họ tập trung vào những sự
bất bình đẳng xuất phát từ văn hoá, gắn liền với những
phạm trù giới tính như “nam tính” (masculinity) và “nữ
tính” (femininity). Từ cuối thập niên 1980, dưới ảnh
hưởng của hậu cấu trúc luận và chủ nghĩa hậu hiện đại,
các nhà nữ quyền thuộc thế hệ thứ ba cho vấn đề giới
tính thực chất là vấn đề thể hiện (representation),
một hệ thống biểu trưng hay hệ thống ý nghĩa nối liền
các giống với những nội dung văn hoá tương ứng với
những giá trị và đẳng cấp xã hội tương ứng. Theo
Barbara Johnson, vấn đề giới tính thực chất là vấn đề
ngôn ngữ; theo Dale Spender, cái ngôn ngữ chúng ta
đang sử dụng hiện nay vốn là ngôn ngữ do nam giới tạo
ra: bà gọi đó là “man-made language”; theo Judith
Butler, cả giống lẫn giới tính đều có tính chất trình
diễn (performance), sản phẩm của một ma trận tính dục
dị giới (heterosexual matrix); và theo Hélène Cixous,
khái niệm “Từ tâm luận” (logocentrism), vốn được xem
là nền tảng của văn minh Tây phương, gắn liền chặt chẽ
với chủ nghĩa duy dương vật (phallocentrism), ở đó,

nam giới luôn


luôn đóng vai trò thống trị.
Trong lĩnh vực văn học, Annis Pratt cho phê bình nữ quyền luận nhắm đến bốn
mục tiêu chính: một, cố gắng phát hiện và tái phát hiện các tác phẩm văn học của phụ
nữ; hai, phân tích và đánh giá các khía cạnh hình thức văn bản của các tác phẩm ấy; ba,
tìm hiểu xem những tác phẩm ấy đã phản ánh quan hệ nam nữ ra sao; và bốn, mô tả
những sự phát triển của các yếu tố liên quan đến huyền thoại và tâm lý liên quan đến
người phụ nữ trong văn học. Tuy nhiên, không phải ai cũng đồng ý với những mục tiêu
này. Lillian s. Robinson lý luận là bốn mục tiêu ấy xác lập trên cơ sở bốn cách tiếp cận
quen thuộc dựa trên: thư mục, văn bản, chu cảnh (hay xã hội học) và phê bình theo
khuynh hướng cố mẫu (archetypal criticism), và cả bốn đều là sản phâm của nam giới.
Bởi vậy, nhiệm vụ của các nhà phê bình nữ quyền luận là phải xa lánh thay vì đi theo
các cách tiếp cận ấy. Elaine Showalter cổ xuý cho sự ra đời của cái bà gọi là “nữ phê
bình gia” (gynocritics), bên cạnh loại phê bình nữ quyền (feminist critique) đã có, ở đó,
phụ nữ chỉ tham dự với tư cách người đọc. “Nữ phê bình gia” có nhiệm vụ xác lập cái
khung lý thuyết và mỹ học riêng đê phân tích các tác phâm văn học của phụ nữ, đê phát
triên những mô hình phê bình dựa trên kinh nghiệm riêng của phụ nừ hơn là chỉ tiếp
nhận những mô hình và lý thuyết do nam giới dựng nên. Trên thực tế, tham vọng thoát
ra ngoài các lý thuyết được xem là mang dấu ấn phụ quyền đã có không phải là điều dễ.
Bản thân cách tiếp cận dựa trên văn bản của Showalter cũng chỉ là một sự thừa kế muộn
màng của Phê bình mới vốn thịnh hành mấy thập niên trước đó mà thôi. Hầu hết các
nhà phê bình nữ quyền luận khác đều nằm trong những cái khung quen thuộc khác:
hoặc phân tâm học hoặc hậu cấu trúc luận hoặc Mác-xít (còn được gọi là chủ nghĩa nữ
quyền duy vật, materialist feminism). Một lý thuyết và một phương pháp luận thực sự
riêng biệt dành cho nữ giới hình như vẫn còn là một hoài bão.
Như vậy, trong phê bình văn học, ý thức nữ quyền thể hiện qua phong trào phê
bình nữ quyền, các nhà phê bình thuộc trường phái này chủ trương, dù là nam hay nữ



hãy lấy thân phận của người phụ nữ đê đọc tác phấm thì mới thấy hết được những vấn
đề tiềm ẩn cả hai mặt văn học và chính trị.
1.3. Văn học nữ quyền
Văn học là tấm gương phán ánh cuộc sống, bất kì cuộc đấu tranh xã hội, giai cấp
nào cũng được phản ánh trung thực trong văn học, trong đó cuộc đấu tranh vì quyền
bình đang, vì tự do, hạnh phúc của người phụ nữ đã được nhiều tác giả văn học, thuộc
nhiều quốc gia khác nhau lấy làm nguồn cảm hứng. Sự cộng hưởng rầm rộ này đã góp
phần hình thành và phát triển dòng văn học nữ quyền trên thế giới. Vậy văn học nữ
quyền là gì? Đã có nhiều cách giải thích, các quan niệm khác nhau về nội hàm khái
niệm này. Có người hiểu đó là văn học do các nhà văn nữ sáng tạo ra. Nhiều người khác
lại cho rằng, văn học nữ quyền là những tác phâm viết về người phụ nữ, đấu tranh cho
quyền bình đắng của phụ nữ. Ớ góc nhìn hẹp hơn, một số khác hiểu văn học nữ quyền
chỉ đơn giản là những tác phẩm của nhà văn nữ viết về sex... Trên cơ sở tham chiếu các
quan niệm kể trên, đồng thời xuất phát từ chính thực tiễn sáng tác của bộ phận văn học
này, chúng tôi hiểu: Văn học nữ quyền ỉà các tác phâm vãn học cỏ thê do tác giả

nam hoặc tác giả nữ sảng tạo ra nhằm bộc lộ tư tưởng đẩu tranh vì sự tự do,
bình đăng và quyền lợi của phụ nữ trên tất cả mọi lĩnh vực đời sổng của xã hội.
Văn học nữ quyền đứng về phía giới nữ, thê hiện những nghĩ suy, khát vọng
bình quyền của phụ nữ đồng thời đó cỏn là cái nhìn "giải thiết trự' đối với nền
văn hóa phụ quyền đã trói buộc và biến người phụ nữ thành kẻ lệ thuộc, thậm
chỉ thành nô lệ trong suốt trường kì lịch sử nhân loại.
Các tác phâm thuộc dòng văn học nữ quyền xoay quanh các vấn đề: Lấy người
phụ nữ làm trung tâm của tác phẩm văn học, đòi quyền sống, quyền được hưởng hạnh
phúc tự do cho người phụ nữ, tôn vinh vẻ đẹp thân xác và
tâm hồn, trân trọng những khát vọng của người phụ nữ...


1.4. Một số đặc điếm cơ bán về tư tưởng nu’ quyền trong văn xuôi Việt Nam

đương đại
Ở Việt Nam, tinh thần nữ quyền lên ngôi và dần trở thành một khuynh hướng văn
học nổi bật kể từ sau 1986, đặc biệt là tù’ đầu thế kỉ XXI. Đây cũng là một xu thế tất
yếu của thời đại khi phụ nữ trở thành “chủ thể ngôn từ, chủ thê trải nghiêm, chủ

thê tư duy, chủ thê thâm mỹ' [21].
Văn học nữ quyền ở Việt Nam không phát triên thành một chủ lưu trong dòng
chảy chung của văn học hiện đại như ở Pháp, Mĩ (những nơi phong trào bình đắng giới
diễn ra mạnh mẽ). Tuy vậy, với nhu cầu “nhận thức lại”, hướng đến giải phóng phụ nữ
trên nhiều phương diện, nhiều cây bút nữ Việt Nam đã phần nào khẳng định quyền của
phụ nữ thông qua văn chương.
Ý thức nữ quyền trong văn xuôi Việt Nam hiện đại bắt đầu được thế hiện mạnh mẽ
với truyện ngắn của Y Ban (Bức thư gửi mẹ Âu Cơ, Người đàn bà có ma lực), Võ
Thị Hảo (Hành trang người đàn bà Âu Lạc, Người sót lại của rừng cười), Nguyễn
Thị Thu Huệ (Hoàng hôn màu cỏ ủa, Người đàn bà ảm khói), Dạ Ngân (Con chó

và vụ li hôn)... Song phải đến đầu thế kỉ XXI, cùng với sự trỗi dậy của các cây bút nữ,
văn học nừ và bộ phận văn học mang tinh thần nữ quyền (ở cả thơ và văn xuôi) mới thật
sự trở thành một dòng văn học có chỗ đứng riêng. Ở thể văn xuôi khuynh hướng văn
học nữ quyền gắn với tác phâm của Y Ban (Xuân Từ Chiều, Trò chơi hủy diệt cảm

xúc...), Dạ Ngân (Gia đình bé mọn), Đoàn Lê (Tiền định), Lý Lan (Tiêu thuyết đàn
bà), Thuận (Phố Tàu, Paris 11 tháng 8), Đoàn Minh Phượng (Mưa ở kiếp sau), Võ
Thị Xuân Hà (Trong nước giá lạnh) và đậm nhạt ở tác phâm của một số tác giả khác
như Thùy Dương, Phong Điệp, Đỗ Bích Thúy, Linda Lê...
Chưong 2
NHỮNG DẤU HIỆU BIỂU HIỆN Ý THỨC NỮ QUYỀN TRONG VĂN XUÔI Y
BAN
2.1. Ngưòi phụ nữ và khát vọng giải phóng



Người phụ nữ từ lâu đã trở thành đề tài muôn thuở của thi ca, nhạc, hoạ. Từ khi
nền văn học viết ra đời, người phụ nữ trở thành đề tài lớn được tập trung khắc họa ở
nhiều khía cạnh, phương diện gắn liền với quá trình đi lên và phát triển của văn học. Do
ảnh hưởng của thời đại, dưới xã hội phong kiến Việt Nam, người phụ nữ phải chịu
nhiều bi kịch cay đắng, xót xa với số kiếp bị lệ thuộc, không làm chủ được cuộc đời. Ta
bắt gặp nhiều mảnh đời, số phận người phụ nữ trong các sáng tác thuộc văn học trung
đại như: Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ, Cung oán Ngâm (Nguyễn Gia Thiều),

Chinh phụ Ngâm (Đặng Trần Côn), Truyện Kiều (Nguyễn Du), trong các sáng tác của
Bà Huyện Thanh Quan, Hồ Xuân Hương... Tuy nhiên, có thể thấy trong giai đoạn hiện
nay, người phụ nữ hiện lên không phải là một hình tượng - biểu tượng, mà là hình tượng
- bộc lộ, độc lập, trung tâm. Đen với văn học đương đại, cùng với những bước phát triển
của lịch sử loài người, trải qua các cuộc đấu tranh bình đẳng giới không ngừng nghỉ, nữ
giới đã vươn lên tự giải phóng bản thân, dành được quyền tụ’ chủ, khắng định vị thế là
“một nửa thế giới” của mình. Điêu này được khăng định rất rõ trên nhiều lĩnh vực, nhât
là trong văn học.
Các tác giả văn học đương đại nhanh chóng đưa hình tượng người phụ nữ thành
nhân vật trung tâm trong tác phẩm của mình, đào sâu khám phá, phát hiện góc khuất,
chiều sâu tâm lí người phụ nữ. Điểm đặc biệt của trào lưu văn học nữ quyền là không
chỉ các tác giả nam viết về người phụ nữ mà người phụ nữ với những rung động, trải
nghiệm của chính mình, họ lên tiếng viết về phái họ. Nhà văn nữ Y Ban được coi là tác
giả tiêu biểu cho
dòng văn học nữ quyền.
Y Ban là người đàn bà từng trải, chị sống sâu sắc, mạnh bạo và dám thách thức. Chị là
một nhà văn nữ giàu nội lực với vốn sống phong phú. Thế mạnh của Y Ban là viết về
nỗi đau, thân phận đàn bà. Chị luôn đòi quyền bình đang cho phụ nữ bởi chị cho rằng:

“Người phụ nữ Việt Nam hôm nay vẫn bị giằng xẻ giữa cải tam tòng tứ đức và
cái quyền con người, quyền của người phụ nữ hiện đại. Vĩ vậy mà trong hoàn



cảnh này nhân vật của tôi vin vào tam tòng tứ đức, trong hoàn cảnh khác lại vin
vào cái quyền con người hiện đại, và tôi nghiêng về bên người phụ nữ phải sống
như cải quyển họ được sổng”[ 15]. Với quan niệm như vậy, nhân vật nữ trong tác
phẩm của Y Ban được xây dựng dựa trên ý thức nữ quyền sâu đậm, sắc sảo trong con
người Y Ban. Khảo sát các tác phấm văn xuôi Y Ban, ta thấy người phụ nữ trở thành
trung tâm tác phẩm của chị và là những đứa con Y Ban gửi gắm tiếng nói đòi các quyền
bình đẳng như đàn ông của nữ giới.
2.1.1.

Người phụ nữ với khát vọng hạnh phúc đời thường
Có thể thấy rõ chưa bao giờ hình tượng người phụ nữ lại được đặt ở vị trí trung

tâm và trọng tâm trong những trang viết của các nhà văn như hiện nay, đặc biệt là trong
sáng tác của các tác giả nữ. Có lẽ chính cuộc sống hiện đại “bộn bề bóng tối và ánh
sáng” khiến người ta không khỏi thấp thỏm, lo lắng về số phận con người, nhất là thân
phận đàn bà. Hơn ai hết, những người phụ nữ chính là những người cần một cuộc sống
bình yến thực sự, bình yên trong tâm hồn và trong cả những khát khao hạnh phúc
thường nhật.
Thấu hiểu điều này, ngòi bút của Y Ban đã hướng vào khai thác chủ đề khát vọng
làm giàu và cuộc sống no đủ về vật chất của người phụ nữ. Điều này được thê hiện
trong nhiều tác phâm của Y Ban. Ước mơ của người phụ nữ trong ỉ am đàn bà là mơ
ước đổi đời, mơ ước một ngôi nhà không bị dột nát, mơ những đứa con được ăn ngon
mặc đẹp... Nhiều tác phấm của nhà văn
Y Ban đã đặt nhân vật nữ của mình vào thời kì đất nước thời hậu chiến còn bao khó
khăn, vất vả khi mà cuộc sống mưu sinh, cơm áo gạo tiền đè nặng trên đôi vai của các
bà, các mẹ. Đe nhân vật của mình trong những hoàn cảnh như vậy, Y Ban thắng thắn
nói lên những khát vọng bình dị của người phụ nữ, tôn vinh vẻ đẹp tâm hồn họ.
Truyện ngắn Danh dự ra đời vào năm 2007, nhưng bối cảnh trong tác phẩm lại là

không gian của đất nước mới hòa bình, thống nhất. Nhà nước duy trì chế độ tem phiếu
của thời bao cấp. Người mẹ của nhân vật tôi trong tác phâm đã bất chấp danh dự của


một con người, bất chấp sự coi thường, khinh bỉ của những người xung quanh đế ăn
trộm “một đoạn dải thăn dài chừng 10cm, rồi nhanh tay nhét luôn vào cạp quần” [8,
Tr.5] trong cuộc thi mậu dịch viên giỏi cấp thành phố nhân kỉ niệm ngày giải phóng Thủ
Đô 10-10. Vậy điều gì khiến người mẹ làm như vậy? Có lẽ xuất phát tù’ tình yêu
thương mà người mẹ dành cho bốn đứa con, hạnh phúc của bà là được thấy các con no
đủ, không bị thiểu ăn, thiếu mặc trong thời buối mà miếng thịt lợn thật hiếm và quý biết
chừng nào. Người mẹ sẵn sàng đánh đổi danh dự của mình để thấy các con được ăn một
bữa cơm ngon lành, được sống hạnh phúc trong no đủ mà chẳng hề ân hận, hay tủi
nhục: “Mẹ ơi, con không ân hận gì đâu. Nhìn lũ con của con khổ quá con mới làm thể.
Mẹ hay dạy con về danh dự mẹ ạ. Con đã ê chề vì đánh mất danh dự mà mẹ đã nuôi
dưỡng và vun đắp cho con. Con đau đớn đã bất hiếu với mẹ. Nhưng mẹ ơi, 4 đứa con
của con chúng thèm thịt lắm mẹ ạ. Mẹ tha thứ cho con... Mẹ ơi! Mẹ còn nhó' hồi con
còn bé lắm, mẹ bảo con là có thực mới vực được đạo mẹ nhỉ” [8, Tr.12]. Tình yêu
thương con, sự hy sinh cao cả của người phụ nữ thật thiêng liêng. Dù nhân vật người
mẹ trong tác phấm nhận được kết cục không có hậu, nhưng câu trả lời cho câu hỏi của
con trẻ: “với đàn bà, danh dự lớn hơn hay miếng thịt lợn cho con lớn hơn” [8, Tr. 13] đã
có lời giải đáp.
Qua những câu chuyện về cơm áo gạo tiền, Y Ban đã lên tiếng khẳng định vai trò
quan trọng trong cuộc sống gia đình của người phụ nữ không kém gì nam giới.
Đen với văn xuôi Y Ban, người đọc còn bắt gặp hình tượng những người phụ nữ
dù có vẻ ngoài xinh đẹp hay khiếm khuyết, dù sống ở thành thị hay nông thôn, dù thuộc
tầng lớp trí thức hay những người lao động bình thường đều mang trong mình khao
khát có được một người đàn ông, một người chồng để dựa dẫm, chia sẻ niềm vui, nỗi
buồn trong cuộc đời.

Chị Quy trong tác phẩm cùng tên là một người như thế.

Quy được Huy lấy về làm vợ nhưng với mục đích là đê cô
chăm sóc cho mẹ già ở quê cho “trọn vẹn với gia đình
mà thôi chứ anh Huy thì lờ dở cả” [8, Tr.47]. Chị Quy
khi về nhà chồng vốn là một cô gái 17 tuôi, trẻ trung
và có nhan sắc nhưng được mẹ chồng lấy làm dâu chứ


trong mắt anh Huy không hề coi Quy là một người vợ
đích thực, thậm chí có những lúc: “Anh Huy nhìn cái
mặt của chị Quy mà phát ghét. Anh ghét cái bộ mặt cam
chịu. Anh ghét cái bộ mặt cứ cúi nhìn xuống. Anh ghét
cái bộ mặt lúc nào cũng bẽn lẽn trước anh. Anh chỉ
muốn đánh đuổi đi” [8, Tr.50]. Cũng như bao người phụ
nữ khác, về nhà chồng Quy tháo vát thu vén công việc
nhà chồng, và là một người phụ nữ đẹp người đẹp nết.
Nhưng cuộc hôn nhân không đến bằng tình yêu đã khiến
Quy nhanh chóng rơi vào bi kịch không có được tình yêu
của chồng. Anh Huy công tác trên thành phố nên lấy một
người vợ khác và có một đứa con. Ngày anh đưa con về
ra mắt họ hàng và đòi bỏ Quy cũng là ngày chị đối mặt
với bi kịch tan võ' hạnh phúc gia đình. Nhưng nhò' mẹ
chồng, Quy cuối cùng cũng được người chồng cho làm đàn
bà đúng nghĩa. Quy mang bầu, sinh con gái. Khi đứa con
được 13 tuổi và khi anh Huy đã đi gần nửa đời người,
chị Quy mới nhận được sự yêu thương, cảm nhận được
tình yêu mà một người đàn ông dành cho một người đàn
bà. Neu câu chuyện dừng lại ở đây, thì đó được xem là
một cái kết có hậu, đúng như tâm thức dân gian “ở hiền
ắt gặp lành” nhưng Y Ban đã đẩy câu chuyện đến một cái
kết khác, làm cho bạn đọc cảm



thấy chua xót, đáng thương cho một kiếp đàn bà. Ngày đầu tiên được sống trong
niềm hạnh phúc viên mãn của tình dục, tình yêu thì cũng là ngày chị bước sang thế giới
bên kia. Qua tác phẩm, Y Ban đề cập tới bi kịch tinh thần đau đớn của một người phụ
nữ, được lấy chồng, được mặc áo cưới nhưng cả đời chỉ duy nhất một lần cảm nhận
được sự che chở, tình yêu của chồng. Qua đây, Y Ban thể hiện thái độ trân trọng những
khát khao giản dị, đời thường cũng như lòng hy sinh, vị tha, bao dung của người phụ
nữ.
Khác với chị Quy, nhân vật Nấm trong tác phẩm Đàn bà xấu thì không có quà
lại là một cô gái kém nhan sắc. Tác giả không né tránh, vòng vo mà nói thắng vào nỗi
bất hạnh của những người phụ nữ chẳng may ông trời bắt xấu qua câu chuyện về nàng
Nấm, nhân vật chính trong truyện. Nấm xấu một cách "đặc biệt" bởi đôi chân ngắn chỉ
bằng nửa thân người: “Tạo hóa thật trớ trêu đã cho nàng là thân gái với nước da trắng
nõn, khuôn mặt trái xoan. Thiên hạ kháo nhau: mặt trái xoan da trắng mẹ mắng cũng
mua. Nhưng ai dám mua nàng Nấm với đôi chân ngắn cũn chỉ bằng nửa mình trên” [4,
Tr.5]. Nấm lùn nhưng nghị lực và trí tuệ không lùn. Vượt qua những ánh mắt khinh bỉ,
giễu cợt của người đời, Nấm tốt nghiệp đại học, vào làm nhân viên đánh máy của một
tòa soạn báo. Cô còn có tài viết truyện ngắn và đoạt giải nhất trong một cuộc thi văn
học. Nấm sống an phận và mơ những giấc mơ giản dị: Nấm mơ ước trở thành một nhà
báo, nàng ước được một chàng trai bình thường yêu, tặng quà, một người chồng với
diện mạo: “Nó có một gương mặt sáng sủa của nam diễn viên Hàn Quốc... Và một thân
hình tựa tựa anh rể, một cặp đùi rắn chắc thò ra dưới quần đùi. Người đàn ông của nàng
là một người đàn ông lương thiện, có một nghề nghiệp trung bình và là một người đàn
ông chưa có gia đình” [4, Tr.45] và khao khát tiến tới hôn nhân, sinh những đứa con bụ
bẫm, dễ thương. Neu Nấm có một gia đình như thế thì tối đến Nấm sẽ đọc sách cho mọi
người nghe. Với đứa con, Nấm sẽ đọc chuyện cổ tích, còn ông chồng Nấm sẽ đọc
những câu chuyện tình lãng mạn. Thể nhưng, đến tận 28 tuổi, Nấm vẫn chưa được bất
cứ người đàn ông nào tặng quà chỉ vì cô xấu. Sự thật đau lòng đó được Y Ban khoét sâu



qua những chi tiết trần trụi: khi Nấm sống cùng nhà với chị gái, ánh mắt ngưỡng mộ
của cô dành cho anh rê đã khiến anh ta hoảng sợ: “Nhưng mà anh sợ, em có hiếu không.
Em đã bao giờ nhìn thấy ánh mắt da diết của con thú bị xích, khao khát tự do chưa. Anh
đã nhìn thấy ánh mắt đó trong cái nhìn của Nấm” [4, Tr.9], sau đó kiếm cớ đuổi cô đi;
ngay cả người đồng nghiệp già trong lúc say rượu cũng kịp dừng lại ham muốn với
Nấm vì chê cô xấu. Đỉnh điêm là khi một người đàn ông ở nước ngoài yêu Nấm qua
những lần chat trên mạng, khi về nước gặp Nấm đã nhanh chóng rút lui... Bằng lối viết
nhẹ nhàng, tình cảm, đi sâu vào nội tâm nhân vật, Y Ban đã khiến độc giả đồng điệu
cùng từng nhịp tim của Nấm, bay bống cùng những giấc mơ hạnh phúc và rồi vỡ òa
cùng những đau đớn, xót xa, thất vọng... Xen lẫn với chuyện đời của Nấm là những tác
phẩm mà cô viết ra trong đau khổ. Những truyện ngắn ấy là nơi để Nấm giải tỏa những
ức chế, khát khao về tình yêu, tình cảm gia đình, bạn bè. Với Nấm, cô luôn chuẩn bị
tinh thần cho những tình huống xấu nhất xảy ra, vì thế, khi những hy vọng trở thành
thất vọng, tuy đau đớn nhưng cô vẫn tỉnh táo chấp nhận sự thật. Mỗi lần trải qua một cú
sốc tình cảm, Nấm càng thêm vững vàng và những tác phẩm của cô càng hay hơn. Khắc
họa nhân vật Nấm gắn với bi kịch tinh thần, Y Ban dường như đã khắc nghiệt với nhân
vật của mình. Nhưng ở trang văn Y Ban, nhân vật càng nghiệt ngã bao nhiêu, người phụ
nữ càng thiệt thòi và chịu bất hạnh bao nhiêu thì tiếng nói phản kháng, tố cáo lại những
định kiến xã hội dành cho người phụ nữ lại càng lớn bấy nhiêu. Nấm xấu nhưng tâm
hồn chị luôn đẹp đẽ và đầy niềm tin, khao khát về một tình yêu hạnh phúc... Tạo hoá đã
“say rượu” khi nặn ra Nấm nhưng người phụ nữ ấy cuối cùng vẫn phải bước đi giữa
cuộc đời bằng cả những mong mỏi và hy vọng. Vượt lên trên tất cả, Nấm vẫn không
ngừng tin vào sự thần kỳ của cuộc đời.
Trong các tác phẩm của mình, Y Ban còn viết về khát vọng bản năng được làm mẹ
của người phụ nữ. Trong I am đàn bà, người đàn bà chất phác, khi nhìn thấy một đứa
trẻ sơ sinh bị bỏ rơi trong rừng lúc đầu thị đã hoảng sợ, nhưng ngay sau đó là sự đau
đớn phả ra từ bản năng làm mẹ của thị. Bản năng làm mẹ đã mách bảo thị phải làm gì



để kiểm tra thằng bé còn sống hay chết, làm thế nào để thằng bé được ấm áp. Rồi thị
mang đến sự sống cho thằng bé, thị mang nó về nuôi. Đó là Xuân trong tiểu thuyết

Xuân Từ Chiều - một người vợ hiền, đảm nhưng không có con. Đó còn là người con
trong Bức thư gửi mẹ Âu Cơ mang nỗi đau riêng khi phải bỏ đi đứa con của mình với
người đàn ông mình yêu, trước sự ép buộc của mẹ.
Như vậy, chủ đề lặp lại trong sáng tác của Y Ban là những khát vọng gia đình,
được yêu, được làm mẹ của những người phụ nữ. Mỗi người đàn bà dù ở hoàn cảnh
khác nhau, mồi cuộc đời khác nhau nhưng cuối cùng tất cả họ chung một mong ước
một khát vọng đó là tình yêu và những đứa con. Y Ban thấu hiểu một cách sâu sắc mặt
này ở người phụ nữ và lý do khiến chị khắc sâu hình ảnh họ với những khát vọng bản
năng chính là để cho chúng ta hiểu về họ hơn, biết trân trọng họ hơn.
2.1.2.

Người phụ nữ luôn trong thế chủ động
Điếm góp phần làm nên tiếng nói nữ quyền mạnh mẽ trong trang viết của Y Ban

là nhà văn luôn đặt người phụ nữ trong thế chủ động. Chủ động trong hành động, trong
nhận thức. Khá nhiều nhân vật nữ của Y Ban chủ động chinh phục những cuộc yêu
đương hoan lạc trong hôn nhân, tình yêu. Với tâm thể đó, người phụ nữ giờ đây mang
vị thế độc lập, không còn lệ thuộc vào người đàn ông. Bằng giọng kế tự nhiên, không
một chút mặc cảm, xấu hố của người phụ nữ, Y Ban đã đế các nhân vật nữ tự bộc bạch
mọi cảm giác trong tình yêu, hôn nhân. Điều này làm nên âm hưởng nữ quyền rõ nét
trong mỗi tác phẩm của chị.
Với I am đàn bà, Y Ban đã miêu tả chân thực thế chủ động trong tình dục của
nhân vật người phụ nữ giúp việc. Ớ nơi đất khách quê người, với công việc là làm “ô
sin”, chị bị nhốt vào một căn nhà như một hoang đảo - nơi chỉ có chị và người đàn ông
bị liệt và câm. Ngôn ngữ bất đồng, không tiếp xúc với xã hội, thế giới của chị chỉ còn
lại là hết lòng chăm sóc người xa lạ bằng nghĩa vụ của kẻ làm thuế và đặc biệt là bằng
thiến chức làm mẹ, làm chị thuần khiết. Bằng tấm lòng, sự chăm sóc tận tình của chị:

thị thủ thỉ nói chuyện, thị hát, thị bóp đầu, xoa bóp chân tay, tắm rửa,... đã khiến ông


chủ dần dần hồi phục bản năng người. Không những thế, bằng cảm giác, bản năng vốn
có của một người phụ nữ đã có chồng, thị từng ngày nhận ra sự trỗi dậy, hồi sinh bản
năng đàn ông của ông chủ. Thị dần vượt qua những ngại ngùng, kéo gần khoảng cách
giữa người giúp việc và ông chủ đế làm người đàn ông chiến thắng bệnh tật. Thị chủ
động trong việc chăm sóc ông chủ, nhất là tác động đến bộ phận sinh dục tưởng chừng
đã chết. Thị quan tâm ông chủ như quan tâm những đứa con trai của mình bằng tình
mẫu tò. Ngày này qua ngày khác, ông chủ cũng làm sống dậy khao khát yêu đương bản
năng trong chị. Thị chủ động dành những hành động “yêu” cho ông chủ như với người
chồng ở quê của mình. Chị mộng mị trong những giấc mơ tình. Và một lần, trong cơn
mộng mị, thị tìm đến phòng ông chủ để thỏa mãn nhu cầu bản năng. Dù nhiều lần người
phụ nữ ấy đã phải đấu tranh giữa lý trí và tình cảm, nhưng xuất phát từ nguyện vọng tự
nhiên của người đàn bà nhân vật người giúp việc đã từng bước, chủ động giải thoát ẩn
ức đó. Điều này làm cho tác phẩm I am đàn bà thể hiện đúng tuyên ngôn của nó rằng:
tôi là người đàn bà. Phụ nữ có quyền chủ động tìm kiếm và giải thoát những ẩn ức về
tình cảm, đặc biệt là tính dục bản năng trong con người.
Người phụ nữ trong truyện ngắn Tự là một người quyết đoán, thẳng thắn trong
hôn nhân. Chị ta chủ động giải thoát bản thân để giải phóng ẩn ức tính dục. Người
chồng thứ nhất là người đầu tiên và duy nhất mang đến cho chị cảm giác yêu đương thật
sự. Chị đã có những ngày tháng thật hạnh phúc, được thỏa mãn cả tình yêu và tình dục.
Thể nhưng niềm hạnh phúc của gia đình trẻ nhanh chóng tan võ' khi người đàn ông trở
thành một người bất lực trong những lần “yêu”. Anh ta cảm thấy có lồi với người vợ
của mình và bỏ nhà ra đi. Trước sự ra đi đó của chồng, người phụ nữ đã không thế sống
trong sự cô đon, chị đã làm quen và tiếp tục có nhũng cuộc yêu hoan lạc với người đàn
ông thứ 2, thứ 3.
Hay nàng trong tác phẩm Nhân tình đã “nổi loạn” vì những nụ hôn cháy bỏng của
nhân tình. Nàng chủ động quyết định cuộc sống của mình với triết lý: “cái gỉ cũng có


giá của nó. Tôi không muốn sổng trong cuộc sổng gia đình tù túng thì tôi sổng


×