Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Đề tài phương pháp luận sử học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.36 KB, 17 trang )

Nguyễn Thị Dung
học

Phương pháp luận sử

MỞ ĐẦU
Phương pháp luận sử học là một môn khoa học đã thu hút sự quan tâm của
rất nhiều nhà khoa học từ trước đến nay. Dù theo quan điểm sử học tư sản hay sử
học mácxit thì các nhà khoa học đều tập trung giải quyết các vấn đề trọng tâm của
bộ môn phương pháp luận như: Nguồn gốc, đối tượng, chức năng, nhiệm vụ,
phương pháp…để từ đó có được nhận thức đúng đắn về bộ môn này.
Nội dung phương pháp luận và thuật ngữ “phương pháp luận” đã có từ lâu.
Nó được ra đời cùng với sự xuất hiện của bản thân khoa học, tức là khi xã hội đã
có sự phân chia giai cấp và nhà nước. Do đó sự phát triển của bộ môn này chịu sự
tác động, chi phối, ảnh hưởng từ những quan điểm, lập trường và tư tưởng của mỗi
giai cấp nhất định, nhằm sử dụng những thành tựu của khoa học vào cuộc đấu
tranh cho quyền lợi của giai cấp mình.
Bên cạnh việc đi sâu giải quyết những vấn đề trọng tâm của bộ môn như đã
trình bày ở trên thì do sự phát triển của lịch sử, xã hội và bản thân khoa học mà
nhiều vấn đề mới của phương pháp luận khoa học cũng được đặt ra như sử dụng
những vấn đề của khoa học tự nhiên, kỹ thuật vào việc nghiên cứu khoa học xã hội
và nhân văn, việc xử lý tính dân tộc, tính giai cấp…Do đó trong việc nghiên cứu
phương pháp luận nói chung và phương pháp luận sử học nói riêng thường diễn ra
cuộc đấu tranh về nhiều quan điểm
Trong khuôn khổ một bài tiểu luận em xin được trình bày một số nhận thức
của bản thân về phương pháp luận lịch sử, đồng thời qua đó đưa ra phương pháp
nhận thức lịch sử mà bản thân thấy cần thiết trong quá trình học tập và nghiên cứu
lịch sử.

1



Nguyễn Thị Dung
học

Phương pháp luận sử

NỘI DUNG
I. NHẬN THỨC VỀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN SỬ HỌC
Khái niệm phương pháp luận đã được đề cập và tìm hiểu từ lâu theo nhiều
quan điểm. Để hiểu rõ nội hàm khái niệm này chúng ta cần xác định đúng đắn các
khái niệm “phương pháp”, “phương pháp luận”, để từ đó rút ra khái niệm “phương
pháp luận sử học” và “phương pháp luận sử học mácxit”
“Phương pháp” tiếng Hi lạp là Methodos, có nghĩa là con đường nghiên
cứu, con đường nhận thức lý luận, học thuyết, là hình thức tìm hiểu thấu đáo về
mặt lý luận thực tiễn hiện thực khách quan, xuất phát từ những quy luật vận động
của khách thể được nghiên cứu. Phương pháp là một hệ thống các nguyên tắc điều
khiển hoạt động cải tạo hiện thực hay hoạt động nhận thức lý luận của con người.
Vậy “nhận thức luận” là gì? Đó là một ngành khoa học riêng có liên quan đến triết
học, nó thể hiện quan điểm của con người về thế giới. Con người là một bộ phận
của tự nhiên, được hình thành một cách lâu dài. Đến một bước phát triển trong một
điều kiện nhất định thì Vượn cổ sẽ tiến hóa thành Người tối cổ. Thời điểm đánh
dấu sự chuyển biến từ Vượn cổ sang Người tối cổ là khi con người biết chế tạo và
sử dụng công cụ lao động. Ngay khi con người xuất hiện thì xã hội cũng xuất hiện.
Theo như lời nhận xét của Enghen thì: “Trong một ý nghĩ nhất định chính lao
động, nhờ lao động và thông qua lao động thì con người và xã hội loài người ra
đời”, đồng thời ông cũng khẳng định: Con người bắt đầu từ đâu thì tư duy cũng
xuất hiện từ đó. Tư duy là sản phẩm của một quá trình mà con người thích ứng với
thiên nhiên, tác động vào thiên nhiên và cải tạo đời sống. Con người biết nhận thức
thế giới xung quanh và biết cách lấy những cái có sẵn trong thiên nhiên để chế tạo
những cái không có trong thiên nhiên, do đó con người vừa là chủ thể của nhận

thức lại vừa là đối tượng của nhận thức. Vì vậy không thể có con ngưới đứng ngoài
thời đại bởi họ bị ràng buộc bởi gia đình, xã hội và loài người. Sự nhận thức của

2


Nguyễn Thị Dung
học

Phương pháp luận sử

con người là một quá trình trong lao động và chiến đấu. Đó là sự sáng tạo của con
người
Từ đây chúng ta có thể khẳng định phương pháp chính là con đường để đi đến kết
quả nhận thức đúng đắn. Phương pháp nhận thức đó phụ thuộc vào giai cấp và thời
đại vì con người chính là sản phẩm của một giai cấp và thời đại
Phương pháp có ảnh hưởng rất lớn đến công tác nghiên cứu, giảng dạy và học tập.
Ví dụ trong quá trình học tập của sinh viên tại các trường đại học: Cùng một điều
kiện học tập, với một khối lượng kiến thức như nhau nhưng lại có sinh viên đạt
loại giỏi, loại khá, loại trung bình, loại yếu kém khác nhau. Đó chính là sự phản
ánh những phương pháp học tập khác nhau của mỗi sinh viên
Một ví dụ điển hình khác trong lịch sử đó là trong cùng hoàn cảnh đất nước đang
chịu ách xâm lược của thực dân pháp cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, có rất nhiều
các nhà yêu nước của Việt Nam đã ra đi tìm đường cứu nước như Phan Bội Châu,
Phan Châu Trinh song chỉ duy nhất có Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh là tìm ra
được con đường cứu nước cho nhân dân Việt Nam. Nguyên nhân chính là do
Người đã có phương pháp đúng đắn và phù hợp. Từ đó chúng ta thấy tầm quan
trọng của phương pháp trong học tập, nghiên cứu và trong cuộc sống.
Phương pháp đúng được xuất phát từ khoa học chính xác, được thực tiễn kiểm
nghiệm, phương pháp chỉ có tính khoa học khi nào nó phản ánh đúng các quy luật

khách quan của thế giới, được xác định bởi các đặc điểm của đối tượng nghiên
cứu, bởi các quy luật của đối tượng ấy, bởi bản chất của nó….
Phương pháp thống nhất với lý luận, được thực tiễn xác nhận. Trong quá trình
nhận thức và cải tạo tự nhiên, xã hội, con người bao giờ cũng sử dụng những
phương pháp nhất định và qua thực tiễn mà phương pháp được kiểm nghiệm là
đúng hay sai. Như lời nhận xét của R.Đềcac, nhà triết học Pháp thế kỷ XVIII đã
khẳng định: “Thiếu phương pháp thì người tài cũng có thể không đạt kết quả. Có

3


Nguyễn Thị Dung
học

Phương pháp luận sử

phương pháp thì người tầm thường cũng làm được việc phi thường”. Các Mác
cũng rất đề cao vai trò của phương pháp, vì theo ông “Toàn bộ triết học được thâu
tóm vào phương pháp” và “Phương pháp là sức mạnh tuyệt đối, duy nhất, cao nhất,
vô cùng tận, không có vật nào có thể cưỡng lại nổi…”
“Phương pháp luận” là khái niệm được dịch từ thuật ngữ “Methodology”
của ngôn ngữ nhiều nước Châu Âu. Xung quanh khái niệm này có rất nhiều quan
điểm khác nhau. Theo K.G.Petơralep (Liên xô cũ) định nghĩa: Phương pháp luận là
một hệ thống những dạng bản chất của thế giới quan và lý luận (hay một loạt lý
luận) quy định các nguyên tắc nghiên cứu khoa học lịch sử
Theo lý luận của các nhà tư sản thì phương pháp luận là toàn bộ những cách,
những biện pháp, những nguyên tắc tổ chức của việc nghiên cứu, những tiêu chuẩn
đúng để lựa chọn những thủ tục và kỹ thuật nghiên cứu
Theo các tác giả “Bách khoa toàn thư triết học Liên xô cũ” thì phương pháp luận là
một học thuyết triết học về các phương pháp luận nhận thức và cải tạo hiện thực, là

sự vận dụng những nguyên lý của thế giới quan vào quá trình nhận thức, vào sự
sáng tạo tinh thần nói chung và vào thực tiễn”
Như vậy có thể thấy phương pháp ra đời trong xã hội có giai cấp. Đó chính là lý
luận về con đường nhận thức, tuy nhiên con đường này bao giờ cũng phải dựa vào
thế giới quan của một giai cấp nhất định ví dụ phương pháp luận chiếm hữu nô lệ,
phong kiến, tư bản chủ nghĩa, xã hội chủ nghĩa..
Phương pháp luận sử học là một hệ thống các quan điểm thế giới quan chỉ
đạo việc nghiên cứu đồng thời lựa chọn phương pháp nghiên cứu. Trong nghiên
cứu lịch sử, phương pháp luận sử học có vai trò to lớn trong việc hướng dẫn nghiên
cứu lịch sử cũng như phương pháp dạy học lịch sử. Không nắm được phương pháp
luận sử học các nhà nghiên cứu sẽ mất phương hướng hoạt động, không có khả
năng giải quyết các vấn đề lịch sử đặt ra. Vì vậy có thể nói, đối với người làm công

4


Nguyễn Thị Dung
học

Phương pháp luận sử

tác sử học thì việc nắm chắc phương pháp luận là một vấn đề rất quan trọng. Nó
đáp ứng yêu cầu nghiên cứu, học tập và giảng dạy lịch sử đồng thời trang bị những
lý luận cơ bản để chống lại phương pháp luận sử học tư sản. Cho nên để bảo vệ
chủ nghĩa Mác-Lênin, cơ sở của phương pháp luận sử học Mácxít Lêninnit, chúng
ta cần đi sâu nghiên cứu và vận dụng sáng tạo những nguyên lý của triết học MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về lịch sử.
Vấn đề phương pháp luận nói chung và phương pháp luận sử học nói riêng gắn
chặt với quan điểm, tư tưởng, lợi ích của mỗi giai cấp, nó thể hiện rõ tính đảng, nó
xâm nhập, chi phối mọi hoạt động của nhà nghiên cứu. Do đó muốn học tập
phương pháp luận sử học Mác xít phải nắm vững triết học Mác-Lênin, quan điểm,

đường lối của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh có liên quan đến nội dung của nó.
Ngoài cơ sở triết học, quan điểm của Đảng, cần hiểu rõ những kiến thức cụ thể,
chính xác, bởi vì không nắm vững được những kiến thức lịch sử cụ thể, chính xác
thì chỉ nắm các vấn đề phương pháp luận một cách chung chung. Đặc biệt việc học
tập các kiến thức lịch sử bao giờ cũng phải gắn liền với thực tế bởi như vậy chúng
ta mới có thể hiểu lịch sử một cách chân thực, chính xác, tránh được tình trạng hiện
đại hóa lịch sử.
II. TÍNH ĐẢNG VÀ TÍNH KHOA HỌC TRONG SỬ HỌC MÁC XÍT
Một trong những nội dung quan trong của phương pháp luận sử học là xác
định đúng đắn tính đảng và tính khoa học. Nắm chắc hai phạm trù này sẽ góp phần
quan trọng giúp nhà nghiên cứu lịch sử có cái nhìn đúng đắn, chính xác và khách
quan về hiện thực lịch sử
Vấn đề tính khoa học và tính đảng cũng như mối liên hệ giữa chúng trong nghiên
cứu lịch sử là chủ đề của rất nhiều các cuộc thảo luận, những cuộc đấu tranh gay
gắt. Có nhiều ý kiến trái ngược nhau về vấn đề này: Nhiều người nêu lên sự mâu

5


Nguyễn Thị Dung
học

Phương pháp luận sử

thuẫn giũa tính đảng và tính khoa học, người lại nêu lên mối liên hệ giữa hai phạm
trù này nhưng lại đặt tính đảng lên trên.
Vậy tính đảng là gì và tính khoa học là gì? Mối quan hệ giữa hai phạm trù
này như thế nào?
1. Khái niệm tính đảng và tính khoa học trong nghiên cứu lịch sử
Tính khoa học là kết quả của quá trình nhận thức đúng hiện thực khách

quan, thể hiện kết quả nghiên cứu sự vật, hiện tượng đạt đến độ chân lý và rút ra
những khái quát, lý luận. Nếu không đạt được khái quát lý luận thì chưa thể hoàn
thành công việc nghiên cứu khoa học. Khi nhà nghiên cứu đạt tới trình độ khái
quát lý luận mới có thể nắm vững mối liên hệ quy định bản chất của các sự vật,
hiện tượng trong thế giới tự nhiên và xã hội một cách chính xác, có hệ thống.
Chúng ta có thể thấy rõ điều này trong lịch sử loài người. Ngay từ khi con
người xuất hiện, họ đã có nhận thức về thế giới khách quan tuy nhiên những nhận
thức đó mới chỉ là những hiểu biết đơn giản của con người chứ chưa có sự khái
quát để trở thành khoa học, ví dụ ở các quốc gia cổ đại phương đông (Ai Cập,
Lưỡng Hà, ấn Độ, Trung Quốc), cư dân ở đây đã biết đến toán học cụ thể là người
Ai Cập rất giỏi về hình học, người Lưỡng Hà lại giỏi về số học… tuy nhiên những
hiểu biết về toán học này của cư dân phương đông chưa trở thành khoa học mà
phải đến thiên niên kỷ I TCN khi cư dân ở các quốc gia cổ đại phương tây: Hi Lạp,
Rô ma khái quát những hiểu biết về toán học này thành những định lý, định đề như
định lý Pitago, tiên đề Ơclit…thì những hiểu biết khoa học mới thực sự trở thành
khoa học. Điều đó cho thấy nhận thức của con người chỉ trở thành khoa học khi nó
được khái quát hóa, trìu tượng hóa, đạt đến chân lý.
Tuy nhiên, trong xã hội có giai cấp, việc nghiên cứu khoa học, nhất là khoa
học xã hội và nhân văn bao giờ cũng gắn với những vấn đề lợi ích của giai cấp,
quan hệ giữa các giai cấp. Đó chính là tính đảng trong nghiên cứu lịch sử

6


Nguyễn Thị Dung
học

Phương pháp luận sử

Tính đảng thể hiện hình thái ý thức, hệ tư tưởng của một giai cấp nhất định

trong xã hội và đó chính là giai cấp thống trị trong xã hội bởi vì bất kỳ một ngành
khoa học nào ra đời cũng nhằm phục vụ cho một giai cấp nhất định do đó khoa học
bao giờ cũng mang tính giai cấp và trong xã hội có giai cấp thì không có khoa học
xã hội vô tư. Ví dụ trong xã hội chiếm hữu nô lệ, khoa học sẽ phục vụ cho giai cấp
chiếm nô nên nó sẽ mang quan điểm, lập trường của giai cấp chiếm nô; trong xã
hội tư bản, khoa học thể hiện quan điểm của giai cấp tư sản, trong xã hội xã hội
chủ nghĩa hiện nay, chúng ta lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm
kim chỉ nam cho mọi hoạt động thực tiễn của mình
Trong quá trình nghiên cứu lịch sử, tính đảng và tính khoa học có mối liên
hệ mật thiết với nhau. Chú trọng tính khoa học sẽ là cơ sở vững chắc cho việc nhận
thức và thực hiện lý tưởng của bản thân, ngược lại khi nắm vững tính đảng mới đạt
được khoa học thực sự. Đối với sử học Mácxít muốn đạt tới tính khoa học, nhất
định phải dựa trên cơ sở một hệ thống triết học đúng đắn, khoa học. Triết học MácLênin không chỉ thể hiện lý tưởng, ngọn cờ chiến đấu của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động, mà trước hết nó là một học thuyết khoa học, làm cơ sở phương
pháp luận cho các khoa học, đặc biệt là khoa học xã hội, trong đó có sử học. Triết
học Mác-Lênin giúp nhà nghiên cứu xác định tính đảng đúng đắn trong nhận thức
lịch sử xã hội loài người và dân tộc. Nhờ vậy trong nghiên cứu lịch sử chúng ta
mới đạt được tính khoa học khách quan.
2. Nguyên tắc tính đảng và tính khoa học trong nghiên cứu lịch sử
2.1 Yêu cầu của việc xác định tính khoa học và tính đảng trong nghiên cứu
sử học
Trong cuốn Toàn tập Lênin đã viết: trong xã hội có giai cấp thì không có
một khoa học xã hội vô tư. Điều đó có nghĩa là việc nghiên cứu khoa học xã hội
phải phù hợp với quan điểm, lập trường của một giai cấp, một đảng nhất định, bởi

7


Nguyễn Thị Dung
học


Phương pháp luận sử

vì khoa học không thuộc một thượng tầng kiến trúc của một cơ sở nào sản sinh ra
nó và những quan hệ mật thiết với nó mà là sản phẩm tinh thần của toàn bộ sự phát
triển của xã hội. Nhưng mặt khác, khoa học lại phát triển trong một thời đại lịch sử
nhất định nên tư duy lý luận của mỗi thời đại ở các thời đại khác nhau có những
hình thức cũng như nội dung rất khác nhau.
Tuy không phải là một bộ phận của thượng tầng kiến trúc, nhưng sự phát
triển của khoa học có liên quan mật thiết đến các hiện tượng xã hội và phục vụ các
tầng lớp, một giai cấp nhất định. Việc khoa học cố gắng phản ánh chính xác những
quy luật của thế giới khách quan, đề ra chân lý khách quan cũng nhằm giúp ích cho
con người hoạt động xã hội. Vì vậy trong xã hội có giai cấp, khoa học không thể
không chịu ảnh hưởng của giai cấp đang nắm quyền thống trị. Bất cứ nội dung của
khoa học nào cũng đều chịu ảnh hưởng của thế giới quan, quan điểm và lợi ích của
giai cấp mà nó phụ thuộc. Nhà khoa học thuộc giai cấp nào thường phục vụ cho
giai cấp ấy
Tài liệu của mỗi một khoa học đều được kiểm nghiệm trong thực tiễn khách
quan, dựa vào những tài liệu này mà rút ra các quy luật. Tuy nhiên mỗi nhà khoa
học lại có cách nhìn khác nhau về các vấn đề của tự nhiên, xã hội, tư duy và mối
quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Trong xã hội có giai cấp, cách nhìn
này không thể phản ánh lợi ích của một giai cấp nhất định trong xã hội và mang
tính chất của thượng tầng kiến trúc.
Tóm lại, tuy khoa học là một hình thái của ý thức xã hội, nhưng nó không phải là
một bộ phận của thượng tầng kiến trúc thuộc một cơ sở kinh tế; phạm vi hoạt động
của nó rộng lớn hơn bất cứ phạm vi hoạt động của một thượng tầng kiến trúc nào
khác. Tuy nhiên nó lại mang những yếu tố thượng tầng kiến trúc, những yếu tố này
càng nhiều bao nhiêu thì việc nghiên cứu khoa học càng gắn với lợi ích giai cấp,
càng phục vụ cho lợi ích của giai cấp bấy nhiêu. Tuy nhiên chúng ta cần phân biệt


8


Nguyễn Thị Dung
học

Phương pháp luận sử

sự khác nhau giữa khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Khoa học xã hội không
trực tiếp liên hệ với sản xuất vật chất nhưng lại liên quan mật thiết với cơ sở và
giai cấp trong xã hội. Khoa học xã hội là một công cụ đấu tranh giai cấp, phục vụ
cho lợi ích của một giai cấp, ví dụ chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là
vũ khí lý luận sắc bén của giai cấp công nhân và nhân dân lao động nhằm đấu
tranh chống lại những quan điểm phi mácxít của giai cấp tư sản, đấu tranh chống
lại sự nô dịch và bóc lột của giai cấp tư sản đối với quần chúng nhân dân lao động
Bên cạnh việc xác định đúng đắn tính khoa học thì trong nghiên cứu lịch sử
nhà nghiên cứu cần nắm vững tính đảng, tức là đứng trên lập trường của một giai
cấp nhất định. Đối với sử học mácxít, nhà nghiên cứu cấn đứng trên lập trường của
giai cấp vô sản, giai cấp tiến bộ nhất trong xã hội, đại diện chân chính nhất cho
quyền lợi, nguyện vọng của toàn thể nhân dân lao động để có thể phản ánh đúng
hiện thực khách quan, nhận thức đúng quá trình phát triển của lịch sử, qua đó bảo
vệ quyền lợi của những người bị bóc lột và thực hiện mục đích cuối cùng của giai
cấp công nhân là xây dựng thành công chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới, đồng
thời đấu tranh chống âm mưu “diễn biến hòa bình”, của chủ nghĩa đế quốc.
Như vậy tính khoa học trong nghiên cứu lịch sử thể hiện chân lý mà chúng
ta phải đạt đến trong nghiên cứu hiện thực khách quan, còn tính đảng là biểu hiện
tự giác, hoàn chỉnh và cao nhất về nhận thức những quan điểm, lợi ích của một giai
cấp nhất định (ở đây là giai cấp vô sản trong nghiên cứu khoa học). Tính đảng
được thể hiện trong cuộc đấu tranh trên nhiều lĩnh vực khác nhau để hiểu biết chân
lý, phục vụ lợi ích của giai cấp vô sản một cách có ý thức. Tính đảng được thể hiên

công khai ở việc bảo vệ lợi ích của quần chúng nhân dân lao động. Tính đảng
mácxít là bản chất của phương pháp luận của nhà nghiên cứu khoa học xã hội,
trong đó có nhà sử học, giúp các nhà nghiên cứu phân tích lịch sử một cách sâu
sắc.

9


Nguyễn Thị Dung
học

Phương pháp luận sử

2.2 Nội dung của tính khoa học và tính đảng cộng sản trong sử học mácxít
Nội dung của tính khoa học là đạt được chân lý trong nhận thức về hiện thực
khách quan. Nội dung này rất phong phú bao gồm những vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất, đứng trên lập trường của giai cấp vô sản. Do vị trí, sứ mệnh lịch
sử và bản chất của giai cấp công nhân là giai cấp tiến bộ nhất, đại biểu cho quyền
lợi của nhân dân lao động, nắm vai trò lãnh đạo cách mạng trong cuộc đấu tranh
chống mọi hình thức áp bức, bóc lột, xây dựng xã hội ấm no, hạnh phúc cho nhân
dân. Việc đứng vững trên lập trường của giai cấp vô sản để nghiên cứu lịch sử đòi
hỏi chúng ta phải nhận thức đúng lập trường, quan điểm, mục tiêu đấu tranh của
giai cấp công nhân; trung thành với lý tưởng cộng sản chủ nghĩa; đấu tranh chống
mọi biểu hiện, xu hướng, những cuộc tấn công vào quyền lợi của giai cấp công
nhân thông qua việc xuyên tạc, bóp méo lịch sử. Viếc đứng vững trên lập trường
của giai cấp công nhân không hề làm lu mờ, hạ thấp tinh thần, ý thức dân tộc của
việc nghiên cứu lịch sử. Bởi vì, giai cấp công nhân là một bộ phận, người lãnh đạo
nhân dân thực hiện mọi quyền lợi, nguyện vọng chính đáng của dân tộc.
Thứ hai, nhận thức và vận dụng đúng, linh hoạt, sáng tạo chủ nghĩa MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào nghiên cứu lịch sử. Đây là cơ sở tư tưởng, kim
chỉ nam hành động của các nhà sử học. Việc vận dụng đúng chủ nghĩa Mác-Lênin

và tư tưởng Hồ Chí Minh đòi hỏi chúng ta nắm vững những vấn đề cơ bản, có tính
nguyên lý, học thuyết khoa học để soi sáng những hiện tượng, sự kiện đa dạng,
phức tạp của các lĩnh vực lịch sử cần nghiên cứu. Cái chủ yếu trong việc học tập
chủ nghĩa Mác-Lênin là thấm nhuần phương pháp của nó. Đó là phương pháp duy
vật biện chứng tức là nhìn sự vật hiện tượng trong quá trình vận động biện chứng
với nhau và trong mối tương quan đa dạng, phức tạp. Ví dụ lý giải tại sao cuối thế
kỷ XIX, đầu thế kỷ XX rất nhiều nhà yêu nước Việt Nam đã ra đi tìm đường cứu
nước như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Aí

10


Nguyễn Thị Dung
học

Phương pháp luận sử

Quốc-Hồ Chí Minh, song chỉ duy nhất có Nguyễn Ái Quốc là tìm ra được con
đường cứu nước cho dân tộc? Để lý giải câu hỏi này, chúng ta cần phân tích về quê
hương, gia đình đặc biệt là bản thân Nguyễn Ái Quốc lúc đó. Qúa trình ra đi tìm
đường cứu nước của Người có nhiều điểm khác so với các bậc tiền bối lúc đó,
trước hết là về hướng đi: nếu các bậc tiền bối tìm đường sang phương đông để
nhận sự giúp đỡ thì Nguyễn Ái Quốc lại tìm đường sang phương tây để xem các
nước ấy đã làm như thế nào mà hùng mạnh rồi về nước giúp đồng bào mình; ngoài
ra phương pháp của Người trong quá trình ra đi tìm đường cứu nước là phương
pháp tự vô sản hóa, tức là Người tự hòa mình vào trong quần chúng nhân dân, tự
lao động để kiếm sống để từ đó hiểu được nguyện vọng của quần chúng nhân dân
như thế nào. Trên cơ sở phân tích như vậy chúng ta sẽ có một cách lý giải đúng
đắn sâu sắc về quá trình ra đi tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh.
2.3 Nhận thức, nắm vững quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, nhà

nước để vận dụng vào việc nghiên cứu lịch sử
Quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, nhà nước là sự cụ thể hóa, sự
vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào tình hình,
nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong những thời kỳ, giai đoạn lịch sử, theo
mục tiêu chung được xác định. Vì vậy việc nắm vững quan điểm, đường lối, chính
sách của Đảng và nhà nước trong nghiên cứu lịch sử không chỉ là việc nhận thức
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để hiểu lịch sử Đảng, lịch sử dân tộc
mà còn giúp chúng ta hiểu sâu sắc, phong phú hơn các vấn đề lịch sử có liên quan
về một tài liệu, sự kiện, khái quát lý luận từ thời cổ đại đến nay. Ví dụ ngay trong
Chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt của Nguyễn Ái Quốc đề ra trong Hội nghị
hợp nhất Đảng năm 1930 đã xác định con đường đi lên của cách mạng Việt Nam
ngay sau khi cách mạng thành công là tiến lên xã hội chủ nghĩa, bỏ qua giai đoạn
tư bản chủ nghĩa. Đây là sự vận dụng một cách linh hoạt chủ nghĩa Mác-Lênin vào

11


Nguyễn Thị Dung
học

Phương pháp luận sử

hoàn cảnh cụ thể của nước ta, và trong thời kỳ hiện nay Đảng ta vẫn xác định
chúng ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
2.4 Tính chiến đấu của khoa học lịch sử mácxít-lêninnít
Đây là một trong những biểu hiện cao nhất của tính đảng cộng sản chủ
nghĩa. Điều này do tính giai cấp của khoa học lịch sử, tính chiến đấu của nó. Bởi vì
không có một môn khoa học nào nằm ngoài giai cấp, không phục vụ cho một giai
cấp nhất định. Trong xã hội có giai cấp, không chỉ giai cấp thống trị sử dụng lịch
sử như một công cụ áp bức, một vũ khí đấu tranh chống nhân dân lao động mà

nhân dân bị áp bức cũng dùng lịch sử làm vũ khí chống giai cấp thống trị. Do đó sử
học bao giờ cũng thể hiện tính chiến đấu của nó trong cuộc đấu tranh chung của
giai cấp và dân tộc mình. Tính chiến đấu của sử học mácxít thể hiện ở những điểm
sau:
Thứ nhất cần nắm vững nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm của Đảng ta để nghiên cứu tìm ra chân lý lịch sử, chống mọi hình
thức xuyên tạc lịch sử
Thứ hai, đẩy mạnh cuộc tranh luận khoa học để khắc phục sai lầm, thiếu sót của
mình để đạt được hiệu quả cao.
Thứ ba, đem kết quả nghiên cứu phục vụ trực tiếp cho sự nghiệp cách mạng, trong
công cuộc dựng nước và giữ nước.
Ví dụ hiện nay để bồi dưỡng, nâng cao ý thức dân tộc, tinh thần trách nhiệm đối
với quê hương đất nước rất nhiều nước đã chú trọng đưa bộ môn lịch sử thành môn
học chính trong nhà trường ở các cấp học ví dụ như Mỹ, Nhật Bản. Học sinh ngay
từ bé đã biết lịch sử của dân tộc mình như thế nào, điều đó có tác động rất lớn
trong quá trình phát triển nhân cách của các em. Trong công cuộc xây dựng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, chúng ta cũng rất chú trọng đến công tác sử học
trong nước, điều này không chỉ góp phần làm sáng tỏ thêm lịch sử quá khứ của dân

12


Nguyễn Thị Dung
học

Phương pháp luận sử

tộc mà trên cơ sở đó sẽ góp phần bồi dưỡng lòng tự hào dân tộc cho các em, giáo
dục lòng yêu nước…
2.5 Có tinh thần sáng tạo

Tính chiến đấu của nhà sử học mácxít không hề ngăn cản việc tiếp thu, kế thừa
những di sản văn hóa tiến bộ của nhân loại, những tư tưởng, truyền thống tốt đẹp
của ông cha ta. Tính chiến đấu thể hiện ở việc lựa chọn, kế thừa những cái hay, cái
đẹp, phê phán và gạt bỏ những cái dở, chống rập khuôn, giáo điều, công thức trong
nghiên cứu lịch sử. Tinh thần sáng tạo trong nghiên cứu lịch sử thể hiện ở chỗ dựa
trên cơ sở, sự kiện cụ thể, bối cảnh, điều kiện đã nảy sinh ra nó được giải thích
theo quan điểm Mácxít-Lêninnít và tư tưởng Hồ Chí Minh để hiểu rõ những vấn đề
của lịch sử mỗi nước trong sự phát triển chung, hợp quy luật như phân lỳ lịch sử,
nguyên nhân phát sinh một sự kiện. Tính sáng tạo đòi hỏi phải có tư duy độc lập tự
chủ để tiếp cận với sự thật lịch sử, phục vụ tốt nhất cho cuộc đấu tranh giành độc
lập dân tộc, chủ nghĩa xã hội
Ví dụ khi tìm hiểu nguyên nhân bùng nổ cách mạng tư sản Pháp năm 1789, chúng
ta phải đi sâu tìm hiểu cả nguyên nhân sâu xa và trực tiếp của cách mạng. Nguyên
nhân sâu xa chính là những tiền đề của nước Pháp trước cách mạng như thế nào?
Bao gồm các tiền đề về kinh tế, chính trị, xã hội, tư tưởng. Đồng thời phải tìm ra
được đâu là điểm khác biệt trong những tiền đề của cách mạng tư sản Pháp so với
các cuộc cách mạng khác như Anh, Hà Lan, Mỹ. Đó chính là sự chuẩn bị về tư
tưởng của trào lưu triết học ánh sáng, để từ đó kết thúc bài học giáo viên có thể
hướng dẫn học sinh lý giải được tại sao cách mạng tư sản Pháp lại là cuộc cách
mạng điển hình và triệt để nhất trong các cuộc cách mạng tư sản…
2.6 Có ý thức tổ chức kỷ luật
Đảng của giai cấp vô sản là tổ chức tiên tiến nhất nên nó là tổ chức được kỷ
luật chặt chẽ nhất. Kỷ luật tăng them sức mạnh cho tổ chức để nhận thức khoa học

13


Nguyễn Thị Dung
học


Phương pháp luận sử

tốt nhất. Kỷ luật cao nhất đối với nhà sử học là luôn luôn trung thành với sự nghiệp
cách mạng của dân tộc, giai caps vô sản, phấn đấu phục vụ có kết quả cuộc đấu
tranh trong cương vị và trách nhiệm của mình. Vì vậy tuyệt đối phục vụ lợi ích của
dân tộc, giai cấp, nhân loại tiến bộ là tiêu chuẩn đánh giá phẩm chất nhà sử học.
Ý thức tổ chức kỷ luật, thuộc tính của việc nghiên cứu khoa học, không hề
ngăn cản việc nghiên cứu tự phát mà củng cố hơn sự giác ngộ chính trị trong công
tác khoa học.
3. Sự thống nhất giữa tính đảng và tính khoa học trong sử học mácxít
Bản chất của sử học tư sản được quy định bởi tính chất của giai cấp tư sản,
do đó trong sử học tư sản nhất là thời kỳ mà giai cấp tư sản không còn tiến bộ nữa,
không có sự thống nhất giữa tính khoa học và tính đảng
Trong sử học mácxít lêninnít, do bản chất, sứ mệnh của giai cấp vô sản nên
có sự thống nhất giữa tính đảng và tính khoa học. Việc nhận thức được hay không
nhận thức được chân lý khách quan không phải ở chỗ khoa học có tính đảng hay
không mà ở chỗ tính đảng ấy thuộc về giai cấp nào; bởi vì trong xã hội có giai cấp
thì không thể có khoa học xã hội không có tính đảng. Sự thống nhất giữa tính đảng
và tính khoa học trong sử học mácxít lêninnít là sự thống nhất biện chứng chứ
không phải là sự đồng nhất của tính khoa học thuộc hình thái ý thức xã hội, với
tính đảng thuộc hệ tư tưởng. Ý thức xã hội bao gồm tất cả các hình thức phản ánh
thế giới hiện thực vào trong tư duy của con người như chính trị, pháp quyền, tôn
giáo, đạo đức, khoa học tự nhiên…). Hệ tư tưởng là toàn bộ những quan điểm phản
ánh lợi ích căn bản của một giai cấp xã hội nhất định
Trong mối quan hệ giữa tính đảng và tính khoa học trong sử học mácxít
lêninnít thì khoa học thể hiện việc đạt tới chân lý khách quan, còn tính đảng cộng
sản là cái bản chất, tư tưởng, chính trị, chỉ đạo phương hướng, bảo đảm cho khoa
học đạt đến chân lý phục vụ lợi ích của dân tộc và giai cấp vô sản. Do đó trong

14



Nguyễn Thị Dung
học

Phương pháp luận sử

hoạt động thực tiễn và trong nhận thức chúng ta không nên đề cao bất kỳ một lĩnh
vực nào cả bởi vì cả hai phạm trù này đều có vai trò riêng, tác động qua lại lẫn
nhau

15


Nguyễn Thị Dung
học

Phương pháp luận sử

KẾT LUẬN
Đối với nhà nghiên cứu lịch sử việc nhận thức và vận dụng đúng đắn
phương pháp luận sử học trong quá trình nghiên cứu cũng như trong cuộc sống là
một việc hết sức cần thiết. Tuy nhiên trong quá trình vận dụng các quan điểm,
nguyên tắc, phương pháp luận sử học, nhà nghiên cứu cần không ngừng đấu tranh
chống lại những nhận thức không đúng của bản thân về lịch sử, đặc biệt là chống
lại các luận điểm không khoa học, phản động của các nhà sử học cố ý hay vô tình
trong việc bảo vệ quan điểm tư sản không đúng và tấn công phủ nhận chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về lịch sử
Trong những nội dung của phương pháp luận sử học thì việc đảm bảo sự
thống nhất giữa tính đảng và tính khoa học trong quá trinh nghiên cứu là nội dung

quan trọng và cần thiết nhất đối với nhà nghiên cứu lịch sử vì khi đó chúng ta mới
nắm được bản chất của sự vật, hiện tượng và xem xét sự vật trong mối quan hệ
biện chứng, không tách rời riêng lẻ trên cơ sở đó tìm đến được chân lý khách quan.

16


Nguyễn Thị Dung
học

Phương pháp luận sử

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phan Ngọc Liên (Chủ biên), Đổi mới phương pháp dạy học lịch sử ở trường
phổ thông, NXBĐHSP, 2005
2. Phan Ngọc Liên (Chủ biên), Lịch sử sử học Việt Nam, NXBĐHSP, 2003
3. Phan Ngọc Liên (Chủ biên), Phương pháp luận sử học, NXBĐHSP, 2003
4. Phan Ngọc Liên (Chủ biên), Phương pháp dạy học lịch sử, tập 1,
NXBĐHSP, 2002
5. Phan Ngọc Liên (Chủ biên), Phương pháp dạy học lịch sử, tập 2,
NXBĐHSP, 2002
6. Viện sử học: Mấy vấn đề phương pháp luận sử học, NXB Khoa học xã hội,
ĐHSPHN, 1982

17



×