Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Sức mạnh mềm văn hóa của trung quốc ở nhật bản và hàn quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (543.09 KB, 9 trang )

Nghiên cứu khoa học
Văn hóa
sức mạnh mềm văn hóa của trung quốc
ở nhật bản và hàn quốc*
PHạM HồNG THáI**

Túm tt: Trong nhng nm gn õy, Chớnh ph Trung Quc c bit quan tõm tng
cng sc mnh mm vn húa v coi ú nh mt b phn cu thnh sc mnh tng hp
quc gia. Cng do vy, vic u t phỏt trin v qung bỏ sc mnh mm vn húa ra hi
ngoi to nờn n tng tt p v Trung Quc c coi l mt trong nhng chin lc trng
tõm phỏt trin t nc. Trờn thc t nhiu nm qua, sc mnh mm vn húa ca Trung
Quc hi ngoi ó thu c nhng kt qu nht nh, song cng ang ng trc khụng ớt
thỏch thc, khú khn. Bi vit phõn tớch v tỏc ng ca sc mnh mm vn húa ca Trung
Quc ti hai quc gia lỏng ging l Hn Quc v Nht Bn.
T khúa: Trung Quc, Hn Quc, Nht Bn, Sc mnh mm vn húa
rong thp niờn gn õy, Chớnh ph
Trung Quc ngy cng chỳ trng gia
tng sc mnh mm vn húa TrungQuc
hi ngoi. Thụng*qua chớnh sỏch chn hng
vn húa, y mnh phỏt trin cụng nghip
vn húa trong nc, xỳc tin truyn bỏ vn
húa ra*nc ngoi, Trung**Quc mun
truyn ti ra th gii thụng ip v hỡnh nh
mt t nc Trung Quc thõn thin, ỏt i
ni lo v "mi e da Trung Quc", ang
dy lờn trong d lun quc t. Kt hp sc
mnh mm, nht l sc mnh vn húa vi
sc mnh cng v kinh t v quõn s, Trung
Quc mun kin to sc mnh tng hp
vn lờn mnh m trong th k XXI vi t
th cng quc hng u th gii. Trờn thc


t, t i hi ng Cng sn Trung Quc
ln th 17 (10/2007), Trung Quc ó coi sc
mnh mm vn húa l mt b phn cu
thnh sc mnh tng hp quc gia v ch
ng u t xõy dng, qung bỏ ra hi ngoi,

coi õy l mt trong nhng trng tõm chin
lc phỏt trin1.
Ti Nht Bn v Hn Quc hai quc gia
lỏng ging cú liờn h gn gi c bit vi
Trung Quc v lch s vn húa, sc mnh
mm vn húa ca Trung Quc ó phn no
phỏt huy tỏc dng trong vic nõng cao thin
cm v Trung Quc. Tuy nhiờn, s qung bỏ
sc mnh mm vn húa ca Trung Quc ti
hai quc gia ny cng ang i mt vi
nhiu thỏch thc. Da trờn nhng kt qu
nghiờn cu ó t c, trong phm vi bi
vit ngn ny, chỳng tụi nờu v phõn tớch
mt s kt qu bc u v nhng tr ngi
ca Trung Quc trong quỏ trỡnh thc hin
chin lc gia tng sc mnh mm ti Nht
Bn v Hn Quc
1. Nhng kt qu bc u
Cú th thy, vi s phỏt trin ngon mc
ca kinh t cựng nhng n lc qung bỏ vn
húa, hỡnh nh ca Trung Quc ó dn c
ci thin Nht Bn v Hn Quc trong hn

*


1

T

Nghiờn cu ny c ti tr bi Qu Nghiờn cu khoa
hc c bn (NAFOSTED), Mó s: V1.2-2010.01
**
PGS, TS, Vin Nghiờn cu ụng Bc

Nghiên cứu đông bắc á, số 12(154) 12-2013

, ,
www.mofa.go.jp/mofaj/press/pr/gaikou/vol3/pdfs/gaikou_
vol3_10.pdf

45


Nghiªn cøu khoa häc
hai thập niên vừa qua, tuy có lúc biến động
thăng trầm.
Trái với xu hướng giảm sút rõ rệt của lưu
học sinh Nhật Bản đến Mỹ học tập2, số học
sinh Nhật Bản tìm đến học tập tại Trung
Quốc từ những năm cuối thập niên 1990 đến
nay lại có chiều hướng gia tăng. Theo số liệu
của Hội đồng Giáo dục Nhật Bản, số học
sinh Nhật Bản đến học tại Trung Quốc năm
1994 mới ở mức 5.055 người, chiếm 9,2%

tổng số học sinh Nhật Bản lưu học ở hải
ngoại. Thế nhưng đến năm 2006, lượng lưu
học sinh Nhật Bản tại Trung Quốc đã tăng
lên mức 18.363 người, chiếm 24% tổng số
lưu học sinh Nhật Bản ở hải ngoại. Nhân
dân Nhật Báo bản tiếng Nhật (人民網) cũng
cho biết, trong năm tài khóa 2010, Chính
phủ Trung Quốc còn dành hơn 140 xuất học
bổng cho lưu học sinh Nhật Bản tại nước
này 3 . Sự gia tăng số lượng học sinh Nhật
Bản đến Trung Quốc học tập không còn là
hiện tượng cá biệt mà là phổ biến, phản ánh
hình ảnh Trung Quốc đã được cải thiện đáng
kể trên trường quốc tế. Theo số liệu thống kê
của Bộ Giáo dục Trung Quốc, năm 2001
mới có khoảng 6 vạn lưu học sinh các nước
học tập tại Trung Quốc; đến năm 2011 con
số này lên đến 29 vạn, tăng 10% so với năm
20104.
Về du lịch, trong hai thập kỷ vừa qua,
khách Nhật Bản đến thăm quan Trung Quốc
2

Theo thống kê của Hội đồng thanh tra thuộc Bộ Văn hóa,
Khoa học và Công nghệ Nhật Bản thì số học sinh Nhật
Bản đến Mỹ để học tập năm 1994 là 42.843 người, chiếm
78% lưu học sinh Nhật Bản. Tuy nhiên đến năm 2006, con
số này chỉ còn 35.282 người tỉ lệ giảm xuống còn 46%.
Theo báo cáo của Viện Giáo dục Quốc tế Mỹ năm 2009,
số lưu học sinh Nhật Bản tại Mỹ có 29.264 người trong

niên khóa 2008-2009, giảm 13,9% so với cùng kỳ năm
trước.
人民網日本語版」2010 年 8 月 26 日.
在中留学生を利用、ソフトパワー強化を図る中国
―海外メディア:2013 年 6 月 2 日 21 時 46 分,
=72871.
3
4

46

với số lượng rất đông. Theo thống kê của
China Travel Agency, lượng khách du lịch
Nhật Bản đến Trung Quốc từ năm 2007 đến
nay luôn đứng vị trí thứ hai sau Hàn Quốc
(có năm vươn lên vị trí thứ nhất) với số
lượng khá ổn định, khoảng hơn 3 triệu lượt
(năm 2011 là 3.658.200 lượt). Trong lúc đó,
lượng khách du lịch từ Trung Quốc đến Nhật
Bản cũng gia tăng và luôn giữ vị trí thứ 3
sau Hàn Quốc và Đài Loan5. Khách du lịch
Nhật Bản tại Trung Quốc rất thích những địa
danh văn hóa lịch sử như Vạn lí trường
thành, các di tích cung điện và những cảnh
quan thiên nhiên, những di tích văn hóa nổi
tiếng có bề dày lịch sử hàng nghìn năm của
Trung Quốc. Điều này có chút khác biệt với
việc họ thích tham quan những nơi đóng các
bộ phim nổi tiếng khi đến Hàn Quốc.
Ở Hàn Quốc năm 2004, có 130 trường đại

học Trung Quốc và 120 trường đại học Hàn
Quốc kí kết hợp tác đào tạo, nghiên cứu, trao
đổi giáo sư và sinh viên. Năm 2006, đã có
54.000 lưu học sinh Hàn Quốc tại Trung
Quốc, chiếm 38% tổng số lưu học sinh tại
Trung Quốc và giữ vị trí một trong những
nước có số lưu học sinh đông nhất. Năm
2009, con số lưu học sinh Hàn Quốc tại
Trung Quốc tăng lên đến 66.800 người 6 .
Cùng với số sinh viên, ngay từ năm 2006 đã
có khoảng 400.000 người Hàn sống thường
xuyên tại Trung Quốc để làm các công việc
kinh doanh. Hàng tuần có tới 670 chuyến
bay nối liền 6 thành phố của Hàn Quốc và

5

Năm 2012, lượng khách du lịch tại Nhật Bản đến từ
Trung Quốc là 1.429.855 người, đến từ Hàn Quốc là
2.049.244 người, đến từ Đài Loan là 1.466.688 người
chiếm 58% tổng lượng du khách quốc tế đến Nhật Bản.
/>6
Yonhap New Agency, Chinese Students Rides Korean
Waves to S.Korea, />_feature/2010/09/15/22/4901000000AEN2010091500940
0315F.HTML.
Nghiªn cøu ®«ng b¾c ¸, sè 12(154) 12-2013


Nghiên cứu khoa học
30 thnh ph ca Trung Quc 7 .Cỏc cuc

giao lu gia cỏc t chc thanh thiu niờn
hai nc cng c t chc sụi ni. Chớnh
ph Trung Quc cho phộp cỏc on du lch
Hn Quc c t do vo Trung Quc tham
quan. So vi nm 1992, s ngi Hn Quc
sang Trung Quc trong nm 2005 t hn
4,2 triu ngi, gp 47 ln. n nm 2010,
s ngi Hn Quc ó tng n Trung Quc
lờn ti 6.000.000. Cựng vi s phỏt trin ca
mng li Hc vin Khng T, tro lu hc
ting Trung Quc cng ó xut hin ti Hn
Quc. Nm 2008, cú hn 300 ngn ngi
Hn Quc ang hc ting Trung, 131 trng
i hc cú khoa hoc ngnh Trung Quc hc,
hn 1.000 trng ph thụng trung hc ging
dy ting Trung Quc vi t cỏch l ngoi
ng 2. Mi nm, vo thỏng 3, 9, 11, cú 3
cuc thi Nng lc ting Trung c t chc
Hn Quc. Nm 2006, trong tng s 162
nghỡn thớ sinh thi nng lc ting Trung Quc
trờn ton th gii, thớ sinh ngi Hn Quc
chim ti 61%.
Cú th thy, trong nhng nm u th k
XXI, sc mnh mm ca Trung Quc ti
Hn Quc v Nht Bn ó cú nhng tỏc
ng tớch cc rừ nột. Mt cuc thm dũ ý
kin do C quan Nghiờn cu ca B Ngoi
giao M tin hnh vo thỏng 7 v thỏng
8/2003 cho thy vo giai on ny hỡnh nh
ca Trung Quc nhỡn chung l tớch cc

Nht Bn v Hn Quc. a s nhng ngi
c hi ý kin - 54% Nht Bn v 68%
Hn Quc - hon ton cú thin chớ vi Trung
Quc. Ngi Nht Bn v Hn Quc coi
Trung Quc l nc cú nh hng nht
trong 5 n 10 nm ti. 2/3 (67%) ngi
Hn Quc coi s phỏt trin kinh t ca
Trung Quc cú tỏc ng tớch cc n nn
7

China.org.cn by Li Xiaohua, November 22, 2006.

Nghiên cứu đông bắc á, số 12(154) 12-2013

kinh t ca nc mỡnh. Cụng chỳng Nht
Bn tuy b chia r v vn ny, nhng c
Hn Quc v Nht Bn u coi Trung Quc
l gúp phn vo n nh v hũa bỡnh khu
vc ụng 8.
Nm 2011, trc thm ha ng t, súng
thn v s c ht nhõn Nht Bn, Trung
Quc l nc u tiờn gi i cu h cp
quc gia n tr giỳp cỏc nn nhõn cựng vi
nhng n lc chia s v cm thụng nhng
khú khn ca ngi dõn vựng b nn v iu
ny ó to nờn nhng n tng tt p v
Trung Quc i vi ngi dõn Nht Bn.
ỏng chỳ ý l s hỡnh thnh v lan ta
sc mnh mm ca Trung Quc Hn Quc
v Nht Bn cng nh Chõu trong thi

gian va qua xut phỏt khụng ch t nhng
giỏ tr vn húa, t tng truyn thng ca
Trung Quc. Nhng thnh tu phỏt trin
kinh t ngon mc ca nc ny k t khi
tin hnh cụng cuc ci cỏch m ca t nm
1978 n nay cú vai trũ c bit quan trng
trong vic to nờn nhng ngun cm hng
sõu sc i vi Trung Quc. Ch qua hn 3
thp niờn, t mt nn kinh t trỡ tr, m yu,
c vn hnh theo mụ hỡnh ch huy quan
liờu bao cp, Trung Quc ó mnh m
chuyn i sang nn kinh t th trng di
s lónh o ca ng Cng sn. Liờn tc t
ú n nay, kinh t Trung Quc tng trng
ngon mc vi tc tng GDP trung bỡnh
trờn 9%/nm; cú nm tc tng trng t
2 con s - mt hin tng tng t nh quỏ
trỡnh phỏt trin thn k m Nht Bn ó t
c trong nhng thp niờn 60, 70 ca th
k trc. iu n tng hn c l n nm
2010, Trung Quc ó vt qua Nht Bn
tr thnh nn kinh t th 2 th gii. Cỏc nh
phõn tớch cũn d oỏn, Trung Quc rt cú
th s thay th M tr thnh nn kinh t s 1
8 Thụng tn xó Vit Nam, Trung Quc phỏt trin quyn
lc mm v tỏc ng i vi chớnh sỏch ca M chõu
, Tin tham kho ch nht ngy 07/03/2005.

47



Nghiªn cøu khoa häc
thế giới trong khoảng 3 - 5 năm tới9. Càng
ấn tượng hơn khi sự phát triển của Trung
Quốc diễn ra trong bối cảnh kinh tế toàn cầu
lâm vào khủng hoảng trầm trọng kéo dài, kể
cả các cường quốc kinh tế hàng đầu thế giới
như Mỹ, Nhật Bản, EU. Sự tăng trưởng kinh
tế ngoạn mục của Trung Quốc đóng vai trò
tích cực to lớn đối với nền kinh tế Nhật Bản
và Hàn Quốc, vốn phụ thuộc rất nhiều vào
thị trưởng quốc tế, đã tạo nhiều công ăn việc
làm cho người Nhật và người Hàn trên cơ sở
hợp tác đầu tư thương mại với Trung Quốc;
hàng hóa Made in China ngày càng chiếm
lĩnh thị trường 2 quốc gia láng giềng với giá
rẻ, chất lượng từng bước được nâng cao và
mẫu mã hấp dẫn. Cũng nhờ đó, ấn tượng
Trung Quốc đang đi vào từng gia đình người
dân Nhật Bản và Hàn Quốc khiến cho sự
hình dung về một đất nước Trung Quốc
được cải thiện so với trước đây.
2. Những trở ngại, thách thức
Ngày 14/10/2011, Nhật Báo Trung Quốc
(bản tiếng Anh) đã cho công bố kết quả điều
tra định kỳ về hình ảnh quốc gia do công ty
Anholt - GFK Roper tiến hành định kỳ ở 50
nước trên thế giới. Cuộc điều tra này đã đưa
ra bảng xếp hạng các nước theo thương hiệu
quốc gia dựa trên kết quả điều tra 6 hạng

mục là: Xuất khẩu (chế phẩm, dịch vụ),
Chính phủ (tính hiệu quả, công bằng và dân
chủ...), Văn hóa (nghệ thuật, thể thao, giải
trí..), Tư chất quốc dân (giáo dục, thẩm
quyền..), Du lịch (tự nhiên và sức cuốn hút
của các vật phẩm chế tác..), Đầu tư (sức hấp
dẫn của đầu tư, tình trạng chính trị xã hội...).
Trong cuộc điều tra này, Trung Quốc xếp vị
trí thứ 22, tăng lên 4 bậc so với kết quả điều
tra năm 2008 (vị trí 26). Đối với Trung Quốc,
9

David Gardner, The Age of America Ends in 2016:IMF
Predicts the Year China’s Economy will surpass U.S,
/>
48

điểm đánh giá cao nhất là văn hóa, điểm
thấp nhất là chính trị. Có 5 quốc gia được
xếp hạng cao nhất theo trình tự là Mỹ, Đức,
Anh, Pháp và Nhật Bản. Tuy nhiên, những
kết quả điều tra trong những năm gần đây
như vừa đề cập trên lại không phản ánh đúng
thực trạng tác động của sức mạnh mềm của
Trung Quốc tại 2 quốc gia mà chúng ta đang
đánh giá. Sự ngưỡng mộ của người dân Hàn
Quốc, nhất là người dân Nhật Bản đối với
Trung Quốc không tăng mà có chiều hướng
giảm đi. Vậy nguyên nhân nào dẫn đến sự
thâm nhập khó khăn, thậm chí xuất hiện xu

hướng giảm sút lòng yêu mến, sự ngưỡng
mộ Trung Quốc tại hai quốc gia láng giềng
gần này?
Trước hết là sự chênh lệch về phát triển
xã hội. Phân tích ảnh hưởng của sức mạnh
mềm văn hóa của Trung Quốc tại Hàn Quốc
và Trung Quốc ta thấy tồn tại nhiều mặt hạn
chế. Trước hết, đó là sự chênh lệch còn lớn
về phát triển xã hội giữa Trung Quốc với
Hàn Quốc và Nhật Bản. Ngày nay, mặc dù
Trung Quốc là một cường quốc kinh tế số 2
thế giới, song xét về thu nhập bình quân tính
theo đầu người, Trung Quốc còn cách khá xa
so với Hàn Quốc và Nhật Bản. Theo số liệu
thống kê năm 2012, thu nhập bình quân đầu
người của Trung Quốc là 5.813 USD, trong
khi con số này của Nhật Bản là 47.244 USD,
của Hàn Quốc là 23.113 USD. Như vậy, thu
nhập bình quân đầu người của Trung Quốc
còn kém Hàn Quốc 4,459 lần, kém Nhật Bản
9,115 lần. Mặc dù chỉ số thu nhập bình quân
đầu người không đồng nhất với chất lượng
sống, nhưng là chỉ số quan trọng phản ánh
chất lượng sống.
Xét về chỉ số phát triển con người (HDI),
Trung Quốc cũng còn là nước đang phát
triển và có nhiều mặt thua kém Nhât Bản và
Hàn Quốc. Năm 2012, chỉ số phát triển con
người của Nhật Bản là 0,912, của Hàn Quốc
là 0,909, còn của Trung Quốc là 0,699.

Nghiªn cøu ®«ng b¾c ¸, sè 12(154) 12-2013


Nghiªn cøu khoa häc
Trong khi Nhật Bản được xếp thứ 12, Hàn
Quốc thứ 15 trong danh sách top 50 nước có
chỉ số phát triển con người cao nhất năm
2011 thì Trung Quốc chưa có tên trong
nhóm này.
Chỉ số phát triển con người là chỉ số so
sánh, định lượng về mức thu nhập, tỷ lệ biết
chữ, tuổi thọ và một số nhân tố khác của các
quốc gia trên thế giới. HDI giúp tạo ra một
cái nhìn tổng quát về sự phát triển của một
quốc gia. Phát triển con người chính là sự
phát triển mang tính nhân văn. Quan điểm
phát triển con người nhằm mục tiêu mở rộng
cơ hội lựa chọn cho người dân và tạo điều
kiện để họ thực hiện sự lựa chọn đó. Trong
khi đó theo kết quả điều tra của Pew Global
Attitude Project công bố năm 2013, có tới
68% người Hàn Quốc và 88% người Nhật
Bản được hỏi cho rằng chính quyền Trung
Quốc không tôn trọng quyền tự do cá nhân
của công dân nước họ10. Như vậy, mức độ
còn thấp về chỉ số con người của Trung
Quốc so với Nhật Bản và Hàn Quốc cũng
cho thấy sự hạn chế về sức mạnh mềm của
quốc gia này.
Xã hội Trung Quốc hiện đại, bên cạnh

những thành tựu nổi bật về phát triển kinh tế,
cũng còn nhiều khuyết tật của nó, điển hình
là nạn tham nhũng, sự cách biệt giàu nghèo
quá mức, tệ hàng giả, hàng nhái bất chấp cả
sự an toàn sinh mệnh của người tiêu dùng…
Một xã hội như vậy thật khó có thể tạo nên
được sự kính nể, khâm phục của người dân
Nhật Bản và Hàn Quốc – một dân tộc có kỷ
cương, trật tự, đã trải qua thời kỳ phát triển
dân chủ.
Sự trỗi dậy đáng lo ngại của chủ nghĩa
dân tộc và sự gia tăng thái độ cứng rắn của
Trung Quốc trong những yêu sách về chủ
quyền lãnh thổ đối với các nước láng giềng
10

/>
Nghiªn cøu ®«ng b¾c ¸, sè 12(154) 12-2013

đang làm tổn hại nghiêm trọng đến tình cảm
của người Nhật Bản và Hàn Quốc. Năm
2008, kết quả cuộc điều tra dư luận xã hội về
sức mạnh mềm do The Chicago Council on
Global Affairs kết hợp với Viện Nghiên cứu
Đông Á của Mỹ thực hiện cho biết: 55%
người Nhật được hỏi tin rằng Trung Quốc sẽ
trở thành nước dẫn đầu Châu Á, nhưng cũng
có tới 74% lo lắng về mối đe dọa quân sự
của nước này trong tương lai11. Tâm trạng lo
lắng về sức mạnh cứng của Trung Quốc

trong tương lai còn thấy tương tự ở các quốc
gia láng giềng khác 12 . Đáng lưu ý là cảm
tình của người dân Nhật Bản đối với Trung
Quốc trong những năm gần đây có xu thế
suy giảm rõ rệt. Theo kết quả điều tra dư
luận xã hội năm 2008 của Trung tâm Nghiên
cứu PEW (PEW Research Center) của Mỹ,
chỉ có 14% số người Nhật được hỏi tỏ thái
độ thiện cảm với Trung Quốc, trong khi 21%
người Trung Quốc được hỏi tỏ thiện cảm với
Nhật Bản. Tháng 8 năm 2010, Nhân dân
Nhật báo hải ngoại cũng cho biết số liệu
tương tự: chỉ có 27,3% người dân Nhật Bản
được hỏi tỏ thái độ thiện cảm với Trung
Quốc. Đặc biệt trong những năm gần đây,
hãng truyền thông NHK của Nhật Bản đã kết
hợp với các cơ quan báo chí nhà nước Trung
Quốc hàng năm tiến hành các cuộc điều tra
xã hội học về đánh giá của dư luận các mặt
về quan hệ Trung – Nhật. Theo kết quả điều
tra xã hội học do hãng NHK Nhật Bản công
bố ngày 20/6/2012 thì mặc dù có đến 80,3%
người Nhật và 78,4% người Trung Quốc
được hỏi đều khẳng định quan hệ Trung
Quốc – Nhật Bản là mối quan hệ có tầm
quan trọng đối với hai nước, nhưng về mặt
11

Christopher B.Whitney, David Shambaugh, Soft Power
in Asia: Results os a 2008 Multinational Survey of Public

Opinion, The Chicago Council on Global Affairs.
12
Cuộc điều tra của The Chicago Council on Global
Affairs trong năm 2008 còn cho biết tâm trạng lo lắng về
mối đe dọa quân sự của Trung Quốc trong tương lai là
74% ở Hàn Quốc, 47% ở Indonesia ….

49


Nghiªn cøu khoa häc
tình cảm, có đến 84,3% số người Nhật được
hỏi cho rằng có ấn tượng không tốt đối với
Trung Quốc (đây là lần đầu tiên trong 7 năm
điều tra liên tục, con số đã vượt qua ngưỡng
80%), còn phía Trung Quốc, có tới 64,5% số
người được hỏi trả lời có ấn tượng không tốt
đối với Nhật Bản (con số này của cuộc điều
tra năm trước là 65,9%). Tỉ lệ khá giống
nhau của các cuộc điều tra nói trên đã cho
thấy sơ bộ những rào cản tâm lí đối với quá
trình thâm nhập của sức mạnh mềm văn hóa
Trung Quốc tại Nhật Bản.
Với Hàn Quốc, mặc dù lãnh đạo Trung
Quốc và Hàn Quốc rất nỗ lực trong việc cải
thiện vào tạo dựng quan hệ tốt đẹp giữa hai
nước nhưng với chiều hướng phát triển của
chủ nghĩa dân tộc ở mỗi nước, diễn biến tình
cảm của người dân Hàn Quốc và Trung
Quốc vẫn còn nhiều phức tạp. Những vấn đề


trở ngại trong lịch sử quan hệ Trung – Hàn
như những khác biệt về nhận thức lịch sử,
những tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ..
luôn là những yếu tố kích thích sự bùng phát
của chủ nghĩa dân tộc và tinh thần yêu nước
cực đoan ở mỗi quốc gia và trở thành yếu tố
cản trở ảnh hưởng mềm của Trung Quốc tại
Hàn Quốc.
Người ta vẫn chưa thể quên hình ảnh vụ
đụng độ xảy ra trong dịp Lễ đốt đuốc trong
Thế vận hội Olympic tổ chức tại Seoul vào
27/4/2008 được truyền đi rộng rãi trên các
phương tiện thông tin đại chúng. Xung đột
xảy ra giữa sinh viên Trung Quốc và những
người biểu tình ủng hộ Tây Tạng và nhóm
công dân Hàn Quốc phản đối chính sách của
Chính phủ Trung Quốc đối với những người
tị nạn Bắc Triều Tiên.

Nguồn: 言論 NPO, 第8回日中共同世論調査 結果, ron- npo.net/world/genre/cat
119/2012-a.html

Một biểu hiện xung đột của chủ nghĩa dân
tộc giữa người dân Hàn Quốc và Trung
Quốc đáng chú ý khác liên quan đến việc tổ
chức Thế vận hội Olympic Bắc Kinh. Cộng
đồng mạng Trung Quốc trong lúc thể hiện

50


sự tức giận đối với thái độ của những người
phương Tây trong việc phản đối Olympic
Bắc Kinh đã kết tội những người Hàn Quốc
cũng đứng về phe phương Tây đề chống phá
họ. Rất nhiều người Hàn Quốc đã tỏ ra vô
Nghiªn cøu ®«ng b¾c ¸, sè 12(154) 12-2013


Nghiªn cøu khoa häc
cùng phẫn nộ với việc hàng nghìn sinh viên
Trung Quốc vác cờ đỏ của Trung Quốc tràn
xuống thủ đô Seoul. Giới truyền thông Hàn
Quốc đã đưa tin rộng rãi những xung đột thô
bạo giữa sinh viên Trung Quốc và những
người Hàn Quốc phản đối...
Rõ rằng, vẫn còn những trở ngại ngầm có
thể bùng phát trong những hoàn cảnh nhất
định và đây là một nhân tố khiến sức mạnh
mềm văn hóa của Trung Quốc tại Hàn Quốc
gặp trở ngại trong quá trình triển khai.
Một trở ngại khác trong quá trình triển
khai sức mạnh mềm văn hóa của Trung
Quốc tại Nhật Bản và Hàn Quốc là Chiến
lược phát triển văn hóa của Trung Quốc
hứa hẹn đem lại sức sống mới cho nền văn
hóa Trung Quốc hiện đại, nhưng còn đứng
trước nhiều thử thách. Sự phát triển văn hóa,
đặc biệt là sức hấp dẫn về văn hóa là sức
mạnh mang tính tổng thể. Ở đó không chỉ có

sự phong phú của kho tàng văn hóa truyền
thống mà còn có vị trí quan trọng của các
giá trị văn hóa hiện đại được hình thành trên
cơ sở xã hội văn minh. Sức hút, sự lan tỏa
của văn hóa các nước phương Tây hiện nay
- cái tạo nên sức mạnh mềm của các quốc
gia này trên thế giới mà chúng ta đang
chứng kiến đều có cơ sở vững chắc của các
giá trị mang tính hiện đại. Đây lại chính là
điều mà Trung Quốc vẫn đang tìm tòi hướng
đi và còn phải vượt qua rất nhiều thử thách.
Để tăng cường sức mạnh mềm văn hóa của
Trung Quốc ở hải ngoại, Trung Quốc không
thể không tăng cường sự phồn vinh văn hóa
Trung Quốc. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XVII Đảng Cộng sản Trung Quốc
khai mạc vào tháng 10 năm 2007, Tổng bí
thư, Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào đã kêu gọi
sự cần thiết của việc phát triển rộng rãi văn
hóa Trung Quốc và nêu lên 4 điểm với tư
cách là phương châm làm phồn vinh văn hóa
Trung Quốc. Đó là: (1) Tăng cường sức hấp
dẫn và cố kết của hệ tư tưởng xã hội chủ
nghĩa trên cơ sở củng cố hệ thống giá trị cốt

Nghiªn cøu ®«ng b¾c ¸, sè 12(154) 12-2013

lõi xã hội chủ nghĩa; (2) Xác lập văn hóa hài
hòa, nuôi dưỡng phẩm cách văn minh; (3)
Đề cao văn hóa Trung Hoa, kiến tạo thế giới

tinh thần cộng đồng dân tộc Trung Hoa; (4)
Xúc tiến sáng tạo văn hóa, tăng cường hoạt
lực văn hóa. Việc xúc tiến văn hóa xã hội
chủ nghĩa và xác lập hệ thống giá trị xã hội
chủ nghĩa như cốt lõi của nền văn hóa là
điều tất yếu trong chính sách phát triển văn
hóa của Trung Quốc hiện nay. Tuy nhiên,
làm thế nào để các giá trị văn hóa phản ánh
tư tưởng cốt lõi này tạo được sức thuyết
phục, hấp dẫn đối với nhân dân thế giới,
nhất là đối với nhân dân Nhật Bản và Hàn
Quốc còn là một mục tiêu đầy thử thách.
Những hạn chế về internet, về báo chí, tuyên
truyền của Trung Quốc đang là những thách
thức không nhỏ đối với việc sáng tạo văn
hóa hiện đại với mục tiêu tạo ra những giá
trị lôi cuốn công chúng hải ngoại. Người ta
còn tranh luận nhiều về sức mạnh của những
giá trị văn hóa hiện đại của Nhật Bản và
Hàn Quốc, nhưng không thể không thấy
rằng những thành tựu văn hóa đại chúng
hiện nay của hai nước này như điện ảnh,
nhạc Pop, manga, phim hoạt hình, thời
trang... đang có sức lan tỏa khắp thế giới
trong đó có cả Trung Quốc. Ngược lại,
những thành tựu văn hóa hiện đại Trung
Quốc cho đến nay vẫn còn rất nhiều hạn chế,
không ít sản phẩm văn hóa hiện đại của
Trung Quốc vẫn còn trong quá trình học tập,
sao chép của nước ngoài.

Sự quảng bá sức mạnh mềm văn hóa của
Trung Quốc tại Nhật Bản và Hàn Quốc đang
chịu sự canh tranh mạnh mẽ với sức mạnh
mềm của văn hóa bản địa tại hai quốc gia
này. Mặc dù không có sẵn những di sản văn
hóa truyền thống đa dạng và đồ sộ như
Trung Quốc, nhưng Nhật Bản và Hàn Quốc
lại rất thành công trong quá trình sáng tạo
những giá trị văn hóa mới, mang tính đại
chúng hiện đại trên cơ sở gìn giữ và phát huy
kho tàng văn hóa truyền thống một cách có

51


Nghiªn cøu khoa häc
bài bản. Điều đáng chú ý là cả Nhật Bản và
Hàn Quốc từ rất sớm đã gắn được quá trình
sáng tạo văn hóa với sự phát triển kinh tế
theo cơ chế thị trường. Ngành công nghiệp
văn hóa của hai quốc gia này đã đóng vai trò
quan trọng không chỉ ở món lợi nhuận
khổng lồ hàng năm đóng góp cho nền kinh tế
mà còn ở chỗ là động lực quan trọng quảng
bá các sản phẩm văn hóa đại chúng đến đông
đảo người tiêu dùng văn hóa trong nước và
hải ngoại.
Trong khi công nghiệp văn hóa của Hàn
Quốc và Nhật Bản đã ở vào giai đoạn khá
thuần thục, ngành công nghiệp này của

Trung Quốc mới đang ở giai đoạn triển khai
chính sách. Mặc dù đã có được những kết
quả khá ấn tượng nhưng trong nhiều lĩnh vực,
công nghiệp văn hóa Trung Quốc vẫn còn
dừng ở mức học hỏi và sao chép những sản
phẩm cùng loại của chính hai quốc gia này,
nhất là những ngành mũi nhọn như phim
hoạt hình, game, pop... Cũng vì vậy, trong
cuộc cạnh tranh với những sản phẩm công
nghiệp văn hóa của Nhật Bản và Hàn Quốc
thì Trung Quốc cũng phải gồng mình chống
đỡ lại các đối thủ ngay trên chính mảnh đất
của mình.
*
* *
Gần đây, Joseph Nye - cha đẻ của lí
thuyết sức mạnh mềm đã có nhận xét rất
đáng lưu ý về Trung Quốc: Sức mạnh mềm
của Trung Quốc chỉ hấp dẫn những chính
phủ độc tài như Venezuela hay Zimbabwe.
Những quốc gia này ngưỡng mộ Trung Quốc
chủ yếu bởi sự tăng trưởng ngoạn mục về
kinh tế của Trung Quốc trong suốt 3 thập kỷ
vừa qua, thứ đến là sự hấp dẫn bởi khả năng
tiếp cận một thị trường đang phát triển và
rộng lớn 13 . Cũng trong bài báo này, Nye
khẳng định thêm, Trung Quốc có một nền

văn hóa truyền thống rất hấp dẫn, song ngày
nay nhân loại đang sống trong một nền văn

hóa đại chúng có tính toàn cầu. Nye cho
rằng, sức mạnh mềm văn hóa của Trung
Quốc là có giới hạn. Sự đánh giá về khả
năng tác động của sức mạnh mềm văn hóa
của Trung Quốc hiện nay trên trường quốc tế
tuy còn nhiều ý kiến khác nhau, song có một
thực tế rõ ràng là việc triển khai nó tại Nhật
Bản và Hàn Quốc vẫn còn quá nhiều chông
gai phía trước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Thắm, Sức mạnh mềm văn
hóa của Trung Quốc tại Hàn Quốc: Thực trạng
và triển vọng, Tham luận hội thảo đề tài
NAFOSTED mã số: V1.2-2010.01.
2. Christopher B.Whitney, David Shambaugh,
Soft Power in Asia: Results os a 2008
Multinational Survey of Public Opinion, The
Chicago Council on Global Affaires
3. Chin-Hao Huang, China’s Soft Power in
East Asia: A Quest for Status and Influence?,
The National Bureau of Asian Research, Special
Report 42 | January 2013.
4. Pew Research, Globle Attitudes Priject,
/>5. 鎌 田文 彦、中国のソフト。パウー
戦戦略 ―その理念想的側面を中心として
(Chiến lược sức mạnh mềm của Trung Quốc –
Tiếp cận từ phương diện tư tưởng)、レフエレ
ン2010.9
6. 童倩, 中国のソフトパワー戦略の強み
と弱み, (Sức mạnh mềm Trung Quốc - Điển

mạnh và điểm yếu của chiến lược)
www.mofa.go.jp/mofaj/press/pr/gaikou/vol3/pdf
s/gaikou_vol3_10.pdf

13

Joseph Nye, “American and Chinese Soft Power after
the Financial Cricis”, The Washington Quaterly, October
2010.

52

Nghiªn cøu ®«ng b¾c ¸, sè 12(154) 12-2013


Nghiªn cøu khoa häc

Nghiªn cøu ®«ng b¾c ¸, sè 9(151) 9-2013

53



×