Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Nghiên cứu so sánh tôn giáo việt nam và hàn quốc những nhận xét bước đầu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.7 KB, 6 trang )

Nghiên cứu khoa học
Văn hóa

Nghiên cứu so sánh tôn giáo việt nam và hàn quốc:
Những nhận xét b-ớc đầu
Phạm hồng thái*

Túm tt: Bi vit nờu nhng nhn xột bc u t nhng nghiờn cu so sỏnh tụn giỏo
Vit Nam v Hn Quc trong thi gian va qua. Din mo cỏc tụn giỏo chớnh, c im
giao lu v tip thu vn húa truyn thng, hon cnh sinh tn v ngun gc chng tc ca
c dõn mi nc l nhng khớa cnh c chỳ ý trong vic phõn tớch lớ gii nhng im
tng ng v khỏc bit trong tụn giỏo mi nc. Bi vit cng nờu nhng vn trc
mt trong nghiờn cu thuc mng ti ny nhm gúp phn tng cng s hiu bit vn
húa ln nhau gia Vit Nam v Hn Quc.
T khúa: Tụn giỏo Vit Nam, Tụn giỏo Hn Quc, Tng ng, D bit
rong nghiờn cu so sỏnh vn húa Vit
Nam v Hn Quc hin nay, nghiờn
cu tụn giỏo l mt lnh vc cú ý ngha rt
quan trng. T xa xa, tụn giỏo ó tr thnh
mt b phn khụng th thiu trong i sng
vn húa tinh thn ca hai dõn tc. Tụn giỏo
l lnh vc ca nim tin, tõm linh nhng
cng l ni th hin khỏt vng nhn thc th
gii, khỏt vng v s hon thin i sng cỏ
nhõn v xó hi, l ni kt t nhng giỏ tr
o c v nhõn sinh trong lch s lao ng
v u tranh ca mi cng ng.* Ngy nay,
tụn giỏo cng l lnh vc ang t nhiu vn
phc tp v nhy cm khụng ch gii hn
trong phm vi vn húa m cũn liờn quan mt
thit i sng chớnh tr, an ninh ca mi


quc gia. Cng do vy, vic nghiờn cu so
sỏnh tụn giỏo Vit Nam v Hn Quc l
mt trong nhng ch cun hỳt chỳng tụi
trong quỏ trỡnh tỡm hiu Hn Quc.

T

*

T nm 2006, c s ti tr ca Qu
Giao lu Quc t Hn Quc (The Korea
Foundation), mt nhúm cỏc nh nghiờn cu
m ch cht l t Trung tõm Nghiờn cu
Hn Quc ca Vin Nghiờn cu ụng Bc
thuc Vin Khoa hc xó hi Vit Nam ó
tin hnh nghiờn cu ti v so sỏnh tụn
giỏo Vit Nam v Hn Quc. Cho n nay,
mng ti ny vn tip tc c kho sỏt
sõu hn, nht l nhng nghiờn cu so sỏnh
v tớn ngng dõn gian, v s phỏt trin ca
o Tin Lnh mi quc gia trong thi k
cn - hin i. Mc dự õy l mt cụng vic
khụng d dng, cũn ũi hi nhiu thi gian
v s n lc, song sau mt thi gian nghiờn
cu, chỳng tụi ó cú c nhng nhn xột
bc u. Trong bi vit ny, xin gii thiu
vn tt mt s kt qu nghiờn cu chớnh v
ch trờn, hy vng gúp phn no trong
vic nõng cao nhn thc ln nhau v vn húa
ca hai nc.


TS, Vin Nghiờn cu ụng Bc

Nghiên cứu đông bắc á, số 12(142) 12-2012

53


Nghiªn cøu khoa häc
Trong quá trình nghiên cứu, cùng với việc
tuân thủ những nguyên tắc tiếp cận truyền
thống, chúng tôi đặc biệt chú ý tới bốn khía
cạnh được cho là quan trọng trong phân tích
so sánh văn hóa nói chung và so sánh tôn
giáo của Việt Nam và Hàn Quốc nói riêng.
Thứ nhất là phân tích đối tượng từ góc độ
địa văn hóa. Cụ thể, chúng tôi lưu ý tới sự
giống và khác nhau về điều kiện địa lý, khí
hậu và điều kiện sống truyền thống mà quan
trọng nhất là nền tảng sản suất vật chất của
người Hàn và người Việt trong tiến trình lịch
sử phát triển.
Thứ hai là phân tích nguồn gốc chủng tộc.
Đây là một yếu tố không thể bỏ qua trong
quá trình nghiên cứu, vì thực tế tại khu vực
Đông Bắc Á và nhất là tại Hàn Quốc, cộng
đồng dân cư ở đây là kết quả di cư của
những cộng đồng có nguồn gốc khác nhau
trong lịch sử tạo nên. Điều mà chúng tôi
quan tâm chính là cội nguồn chủng tộc đó sẽ

mang theo những ảnh hưởng như thế nào
đến việc hình thành hệ giá trị văn hóa nói
chung và các giá trị tín ngưỡng truyền thống
nói riêng. Đây cũng là một căn cứ để lí giải
sự tương đồng và khác biệt trong các tín
ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam và Hàn
Quốc.
Thứ ba là phân tích những nét đặc thù của
quá trình giao lưu văn hóa. Sự tiếp nhận
những ảnh hưởng của văn hóa nước ngoài
đóng vai trò quan trọng đến sự phát triển của
văn hóa bản địa và chi phối quá trình hình
thành những nét đặc trưng của văn hóa dân
tộc. Những tác động của văn hóa truyền
thống Trung Hoa từ thời cổ đại, của văn hóa
phương Tây từ thời cận đại là những yếu tố
được chú trọng. Cũng từ quá trình tiếp biến
văn hóa này có thể thấy được tính dị biệt và
tương đồng của đời sống tín ngưỡng của cư
dân hai nước Việt Nam và Hàn Quốc.
Thứ tư là nghiên cứu văn hóa tôn giáo
trong giai đoạn hiện đại, chúng tôi rất quan

54

tâm những đặc trưng về đời sống chính trị xã hội đặc thù của mỗi dân tộc. Trong thực
tiễn lịch sử, tôn giáo là lĩnh vực không chỉ
có liên quan đến sinh hoạt văn hóa tâm linh
của các cộng đồng mà còn có những liên hệ
đến đời sống chính trị và tác động nhiều mặt

đến đời sống sinh hoạt xã hội ở mỗi một giai
đoạn lịch sử với những mức độ khác nhau.
Hơn nữa, sự phát triển hay lụi tàn của một
tôn giáo nào đó, đôi khi có liên quan ít nhiều
đến một hoàn cảnh chính trị - xã hội đặc thù
nhất định.
Về kết quả nghiên cứu, chúng tôi có được
một số nhận xét sơ bộ về sự tương đồng và
dị biệt của tôn giáo ở Việt Nam và Hàn
Quốc cũng như những cơ sở văn hóa, xã hội
của chúng như sau:
1) Việt Nam và Hàn Quốc có nhiều điểm
tương đồng về cơ sở kinh tế xã hội truyền
thống với tư cách là nền tảng văn hóa nói
chung và đời sống tín ngưỡng nói riêng.
Tuy không gần kề về địa lý, nhưng các
giá trị văn hóa truyền thống của hai nước,
trong đó có văn hóa tín ngưỡng, đều có quá
trình hình thành lâu dài trong trong những
điều kiện kinh tế, xã hội có nhiều đặc điểm
tương đối giống nhau. Đó là văn hóa của
những xã hội trải qua hàng nghìn năm với cơ
sở kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp canh
tác lúa nước. Nghề nông nghiệp xuất hiện
đầu tiên ở Bán đảo Choson vào khoảng 3000
năm trước công nguyên ở phần phía bắc,
phần phía nam xuất hiện muộn hơn1. Tại
Việt Nam, cách đây khoảng 6000 năm đến
5000 năm, các bộ lạc đã bắt đầu đi vào giai
đoạn nông nghiệp trồng lúa nước2. Ngày

nay, Hàn Quốc là một nước có nền kinh tế
công nghiệp phát triển, nhưng cho đến đầu
những năm 1970, nơi đây vẫn là một nước
1

James Huntley Grayson, Korea – A Religion History,
Routledge Curzon Press, 2002, tr.13.
2
Trương Hữu Quýnh (Chủ biên), Đại cương lịch sử Việt
Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội – 2005, tr. 20.

Nghiªn cøu ®«ng b¾c ¸, sè 12(142) 12-2012


Nghiªn cøu khoa häc
nông nghiệp lạc hậu. Còn Việt Nam hiện nay
đang bước vào thời kỳ công nghiệp hóa,
song vẫn là một nước nông nghiệp với lượng
lao động chiếm khoảng 60% tổng số lao
động cả nước.
Về địa hình, cả hai nước đều có bờ biển
dài là môi trường sinh tồn của một bộ phận
cư dân. Cũng vì thế, trong hệ giá trị văn hóa
của hai dân tộc còn bao gồm những giá trị
văn hóa tâm linh của những cư dân sống
bằng nghề biển. Đây là cơ sở hình thành
những tín ngưỡng truyền thống, nhất là cơ sở
của những tín ngưỡng đa thần vốn là hằng số
chung của những cư dân nông nghiệp, ngư
nghiệp.

2) Mặc dù thực tiễn lịch sử của mỗi nước
có những khác biệt đặc thù, nhưng điểm
chung của hai dân tộc Việt và Hàn là đều
được hình thành trong quá trình đấu tranh
dựng nước và giữ nước rất gian khổ, lâu dài;
luôn phải đương đầu với nạn ngoại xâm để
bảo vệ nền độc lập dân tộc. Đặc điểm này
ghi dấu ấn và hình thành những đặc trưng
trong các tín ngưỡng, điển hình là sự tôn thờ
tổ tiên, sùng bái các vị anh hùng dân tộc có
công dựng nước và giữ nước.
3) Trong đời sống tín ngưỡng dân gian, cả
người Việt và người Hàn đều có những tín
ngưỡng bản địa mang tính đa thần, phản ánh
khát vọng và tư duy của những cư dân trồng
lúa nước và đánh cá. Shaman giáo Hàn
Quốc, có nhiều nét độc đáo, phản ánh sự tích
hợp nhuần nhuyễn của văn hóa tín ngưỡng
các dân tộc Bắc Á với tín ngưỡng của những
cư dân nông nghiệp Nam Á. Shaman giáo
Hàn Quốc ngày nay là một ví điển hình về
loại hình tín ngưỡng Shaman còn tồn tại trên
thế giới, song điểm độc đáo là Shaman giáo
đã trở thành một nét văn hóa độc đáo của
Hàn Quốc và được các nhà nghiên cứu lưu ý,
bảo tồn để làm phong phú đời sống văn hóa
tinh thần của người Hàn Quốc. Tín ngưỡng
dân gian Việt Nam cũng mang đậm tính đa

Nghiªn cøu ®«ng b¾c ¸, sè 12(142) 12-2012


thần và có không ít sắc thái riêng. Đạo Mẫu,
một tín ngưỡng độc đáo của những cư dân
canh tác nông nghiệp Nam Á cũng như tín
ngưỡng thờ cúng Tổ tiên tuy mang nhiều ảnh
hưởng của Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo
nhưng chứa đựng những nét rất riêng của
người Việt. Tuy có những nét đặc thù so với
Shaman giáo ở Hàn Quốc, nhưng tín ngưỡng
dân gian Việt Nam như Đạo Mẫu, Đạo thờ
tổ tiên... đã trở thành một trong những cơ sở
văn hóa quan trọng của người Việt trong
suốt quá trình đấu tranh dựng nước và giữ
nước. Mặc dù có những nét riêng, song tín
ngưỡng dân gian, bản địa ở hai nước cũng có
nhiều điểm tương đồng. Nghiên cứu Shaman
giáo Hàn Quốc với những niềm tin về vô số
quỷ thần trên trời và dưới đất, những nghi lễ
tế thần, thờ cúng tổ tiên và những thuật
chiêm tinh, bói toán,.. chúng ta thấy phảng
phất đâu đó những nét trong tín ngưỡng dân
gian vẫn còn tồn tại đến ngày nay trong đời
sống tín ngưỡng ở Việt Nam. Nghiên cứu
thái độ của người Hàn Quốc đối với tín
ngưỡng dân gian của mình, chúng ta càng
thấy cần trân trọng hơn những giá trị văn hóa
truyền thống và bản địa của Việt Nam. Phải
chăng, coi đó như một trong những giá trị
cấu thành nên văn hóa mới của dân tộc trong
điều kiện giao lưu văn hóa hiện nay.

4) Việt Nam và Hàn Quốc đều có hoặc
từng có những tôn giáo mang tính thế giới
hoặc khu vực giống nhau, đó là Phật giáo,
Đạo giáo, Khổng giáo, Kitô giáo. Đây là kết
quả của quá trình tiếp thu và cải biến một
cách sáng tạo văn hóa tín ngưỡng từ Ấn Độ,
Trung Hoa và phương Tây.
Cũng giống như ở Hàn Quốc, Phật giáo
đã và đang tồn tại ở Việt Nam chủ yếu là
Phật giáo Bắc tông hay Phật giáo Đại thừa
(Mahāyāna). Điều này phản ánh sức lan tỏa
mạnh mẽ của Phật giáo Trung Quốc, song
cũng cần thấy rằng, Phật giáo ảnh hưởng vào
Việt Nam và Hàn Quốc không chỉ có một

55


Nghiên cứu khoa học
con ng duy nht t Trung Quc. Vic
Pht giỏo i tha tn ti v phỏt trin ph
bin ti hai quc gia ny cũn th hin mt
nột vn húa chung l th gii quan hin th
nghiờng v nhng mi quan tõm cú tớnh th
tc ca cỏc c dõn nụng nghip ụng.
o giỏo vn khi ngun t Trung Quc,
mc dự l c v tớn ngng v t tng u
cú nh hng sõu sc trong vn húa ca Vit
Nam v Hn Quc. Nhng cng ging nh
Hn Quc, tớn ngng o giỏo Vit Nam

ó khụng phỏt trin thnh mt tụn giỏo thng
nht trong s phõn bit vi cỏc tụn giỏo khỏc
nh Pht giỏo hay Kitụ giỏo m lan ta, hũa
tan vo cỏc tụn giỏo khỏc n mc khụng d
gỡ nhn ra nhng biu hin ca nú. Trong
i sng tớn ngng ca Vit Nam cng nh
ca Hn Quc hin nay, tớn ngng o
giỏo ó thc s hũa vo cỏc tớn ngng tụn
giỏo khỏc, k c trong o Mu, o th
cỳng t tiờn, Shaman giỏo, Thiờn o giỏo,
Pht giỏo v c trong Kitụ giỏo.
Ngi Vit v ngi Hn tip nhn Nho
giỏo Trung Quc t rt sm (Nho giỏo c
truyn bỏ vo Bỏn o Choson trc thi
Tam Quc3, v vo Vit Nam thi k u
cụng nguyờn (khong nm 110 TCN n
nm 30 SCN)4). Nho giỏo tng tn ti vi t
cỏch l h t tng nh nc chớnh thng v
mt chng mc nht nh, l tớn ngng
truyn thng c hai nc Vit Nam v Hn
Quc trong quỏ kh lch s. Tuy nhiờn, vi
vic xut hin ca vn húa vn minh phng
Tõy, nht l vi nn giỏo dc mi phng
Tõy t thi cn i, Nho giỏo dn dn mt i
a v tng cú ca mỡnh. H thng giỏo dc
kiu Nho giỏo b bói b, trt t xó hi mi
mang tớnh dõn ch, dự l dõn ch t sn hay

dõn ch xó hi ch ngha, u khụng cũn
ch da vng chc nh trc õy cho nhng

tớn iu Nho giỏo na. Trong iu kin ú,
nhng nghi l Nho giỏo vi t cỏch l tụn
giỏo gn lin vi h t tng phong kin
cng mt dn c s xó hi ca mỡnh. Mc dự
vy, ti Hn Quc, Nho giỏo vi t cỏch l
tụn giỏo vn ớt nhiu tn ti cho n tn ngy
nay5. Cũn ti Vit Nam, Nho giỏo vi ý
ngha tụn giỏo ch cũn c tỡm thy thp
thoỏng trong nhng nghi l th cỳng T tiờn
v tc th Tri, v thc cht, nú ch cũn tn
ti ch yu trờn bỡnh din t tng.
C Vit Nam v Hn Quc u tip nhn
Kitụ giỏo t thi k cn i6. Kitụ giỏo nh
hng vo Vit Nam v Hn Quc cú nhng
nột ging nhau vo thi k u. Nú u gp
phi s ng vi h t tng v tớn
ngng truyn thng c hu v u tng b
bi xớch rt khc lit. Thỏi khụng chp
nhn Kitụ giỏo trong lch s Vit Nam v
Hn Quc mt phn do s xung t v vn
húa cú tớnh cht khu vc, gia vn húa
phng ụng v phng Tõy. Tuy nhiờn,
im to nờn s xung t trong thi k ny
cũn do Kitụ giỏo c coi nh tớn ngng
gn vi nhng õm mu thụn tớnh cỏc dõn tc
Chõu ca cỏc th lc ngoi xõm n t
phng Tõy.
Mc dự vy, Kitụ giỏo vn tng bc to
ra c s nh hng vo vn húa ca hai
dõn tc, song trong lch s truyn giỏo ca

Kitụ giỏo hai quc gia ny cú nhng c
im khụng ging nhau. Ti Vit Nam, s cú
mt ca Kitụ giỏo l do cỏc nh truyn giỏo
phng Tõy mang vo. Trong mt thi gian
khỏ di, Kitụ giỏo ó phỏt trin cựng bc
tin ca nhng th lc ngoi xõm n t

3

5

Xem thờm Lý Xuõn Chung, Tỡm hiu vn Nho giỏo
du nhp vo Hn Quc, Tp chớ Nghiờn cu Nht Bn v
ụng Bc , s 316-2001, tr 68-70.
4
i Vit s ký ton th (Ton tp), Nxb Vn hc, H
Ni 2009, tr. 69-70.

56

Theo Niờn giỏm Tụn giỏo Hn Quc nm 1997, cú 1 t
chc Khng giỏo vi t cỏch tụn giỏo c ghi nhn.
6
V truyn giỏo phng Tõy u tiờn cú mt ti Vit Nam
vo nm 1533. Ti Hn Quc, Kitụ giỏo c coi l cú
mt t nm 1603.

Nghiên cứu đông bắc á, số 12(142) 12-2012



Nghiªn cøu khoa häc
phương Tây và thực tế, ít nhiều đã bị các thế
lực ngoại xâm lợi dụng. Chính vì vậy khi đó,
Kitô giáo, đặc biệt là Công giáo, bị xem như
tín ngưỡng của ngoại bang, của những người
đi ngược đường đi của cộng đồng dân tộc.
Tại Hàn Quốc tình hình có nhiều khác biệt.
Kitô giáo, ngay từ đầu, được chính những
người Hàn có tư tưởng cấp tiến tiếp thu và
truyền bá7. Trong quá trình phát triển, Kitô
giáo tại bán đảo này đã từng được người dân
sử dụng như chỗ dựa tinh thần để tập hợp
lực lượng chống lại thế lực ngoại xâm.
Chính vì thế, nhà thờ Thiên chúa giáo và các
hội Tin Lành đã trở thành những tổ chức của
những người có tư tưởng dân tộc yêu nước.
Phải chăng cũng từ cơ sở như vậy mà trong
thời kỳ hiện đại, Kitô giáo ở Hàn Quốc đã có
điều kiện để tạo ra một sức mạnh phát triển
tự thân mạnh mẽ và dần trở thành một tôn
giáo có số lượng tín đồ đông đảo nhất. Ngày
nay, ở Hàn Quốc, Kitô giáo nói chung và
đạo Tin Lành nói riêng đang có một vị trí
quan trọng trong đời sống văn hóa tâm linh
của người dân Hàn Quốc. Cũng cần thấy
rằng, do vị trí đặc biệt của nó mà Kitô giáo
Hàn Quốc, nhất là các hệ phái Tin Lành
đang có xu hướng mở rộng ảnh hưởng ra
nước ngoài, trước hết là đáp ứng nhu cầu
tâm linh của những công dân Hàn Quốc

đang làm ăn ở hải ngoại. Đây cũng là một
vấn đề đáng được quan tâm nghiên cứu cụ
thể hơn nữa.
5) Trước sức mạnh của quá trình phát
triển kinh tế và đô thị hóa hiện đại, đặc biệt
7

Mặc dù Cha Gregorious de Cespedes, một linh
mục dòng Tên, đến Hàn Quốc năm 1593 để hoạt động
mục vụ trong vòng kiều dân Nhật Bản, nhưng không được
phép truyền giáo cho người Hàn. Một thập niên sau, Yi
Kwangjong (Lý Quang Chung), một nhà ngoại giao người
Hàn trở về từ Bắc Kinh, mang theo mình một tấm bản đồ
thế giới và một vài cuốn sách thần học của Matteo Ricci,
một giáo sĩ dòng Tên đã từng đến truyền giáo tại Trung
Hoa và đây được coi là mốc thời gian ghi nhận sự truyền
bá của Kitô giáo tại Hàn Quốc.

Nghiªn cøu ®«ng b¾c ¸, sè 12(142) 12-2012

là xu thế giao lưu văn hóa toàn cầu đang
phát triển mạnh mẽ hiện nay, đời sống tôn
giáo ở cả Việt Nam và Hàn Quốc đang diễn
ra nhiều biến đổi rõ rệt. Các tôn giáo truyền
thống, kể cả Phật giáo, Kitô giáo đang đứng
trước thách thức của quá trình xuất hiện
những tôn giáo mới. Mặc dù ở cả hai quốc
gia đều thực hiện chính sách tự do tôn giáo,
song trong thực tế, mối quan hệ giữa nhà
nước và tôn giáo vẫn tồn tại không ít những

vấn đề nan giải. Vừa phát huy được sức
mạnh của tôn giáo trong đời sống văn hóa
tinh thần, trong giáo dưỡng đạo đức lành
mạnh của cộng đồng, vừa đảm bảo được an
ninh xã hội là những vấn đề mà các nhà
hoạch định chính sách ở mỗi nước vẫn tiếp
tục quan tâm.
Tại Việt Nam, việc nghiên cứu so sánh
tôn giáo ở Việt Nam và Hàn Quốc cho đến
nay vẫn còn là một mảng trống, những
nghiên cứu hiện có chỉ là nét chấm phá ban
đầu. Trong hàng loạt các vấn đề đang được
đặt ra cho nghiên cứu, chúng tôi đang hướng
tới một số chủ đề chính sau:
Thứ nhất, nghiên cứu so sánh sự phát
triển của đạo Tin Lành tại Việt Nam và Hàn
Quốc trong thời kỳ hiện đại, nhất là sự ảnh
hưởng của các giáo hội Tin Lành Hàn Quốc
tại khu vực Đông Nam Á, trong đó có Việt
Nam. Theo những kết quả nghiên cứu về sự
truyền bá của đạo Tin Lành tại Hàn Quốc
gần đây cho thấy, bắt đầu từ những năm
1970, các hội thánh Tin Lành ở Hàn Quốc có
sự phát triển rất nhanh chóng, mặc dù có
chững lại trong thập niên đầu thế kỷ XXI
này. Theo số liệu thống kê điều tra dân số
của Hàn Quốc năm 2005, tín đồ Tin Lành
chiếm 18,4% tổng dân số và 11,0% dân số
Hàn Quốc là tín đồ Thiên Chúa giáo, trong
khi đó Phật giáo, một tôn giáo truyền thống

lớn nhất trước đây có lượng tín đồ chiếm
22,9%. Như vậy, Kitô giáo (bao gồm Thiên
Chúa giáo và Tin Lành) đã trở thành tôn

57


Nghiªn cøu khoa häc
giáo có số tín đồ đông đảo nhất ở Hàn Quốc.
Việc nghiên cứu đối chiếu, so sánh thực
trạng phát triển của Kitô giáo nói chung
cũng như của đạo Tin Lành nói riêng ở hai
nước và lí giải nó từ phương diện xã hội quả
là chủ đề có ý nghĩa cả về nhận thức lí luận
và thực tiễn.
Thứ hai là nghiên cứu so sánh sự xuất
hiện của các tôn giáo mới trong xã hội Việt
Nam và Hàn Quốc hiện nay. Tôn giáo mới là
hiện tượng có tính phổ biến thế giới và khu
vực. Mặc dù ở mỗi nước, tôn giáo mới xuất
hiện với những tác động xã hội vào những
thời gian khác nhau, song điểm chung đều
gắn với quá trình phát triển nhanh của công
nghiệp hóa và đô thị hóa. Nghiên cứu sự
xuất hiện của các tổ chức tôn giáo mới trong
thời kỳ công nghiệp hóa và bùng nổ phát
triển đô thị ở Hàn Quốc, tìm ra những
nguyên nhân cũng như tác động xã hội của
nó trong tương quan so sánh với những biểu
hiện của những tổ chức tôn giáo mới ở Việt

Nam hiện nay chắc chắn sẽ giúp chúng ra rút
ra những kinh nghiệm quý báu trong quá
trình lí giải và thái độ ứng xử đúng đắn.
Thứ ba, trong nghiên cứu so sánh tín
ngưỡng dân gian Việt Nam và Hàn Quốc,
chúng tôi rất quan tâm tới những tương đồng
và khác biệt của tín ngưỡng Shaman giáo
Hàn Quốc và Đạo Mẫu ở Việt Nam. Mặc dù
đã có một số nghiên cứu sơ bộ chỉ ra những
biểu hiện giống và khác nhau của các tín
ngưỡng mang đậm sắc thái dân tộc đó, song
việc lí giải nó từ cơ sở văn hóa, xã hội, nhất
là những liên hệ trong lịch sử của chúng vẫn
còn là một đề tài có nhiều khoảng trống.
Điểm khó khăn trong nghiên cứu hiện nay
của chúng tôi là sự hạn chế về điều kiện
nghiên cứu thực địa tại Hàn Quốc, những tài
liệu, văn bản tiếp cận được cũng không tránh
khỏi những bất cập. Mặc dù vậy, chúng tôi
vẫn mạnh dạn trình bày những nhận xét
bước đầu, hy vọng sẽ được sự góp sức của

58

các nhà nghiên cứu để việc nghiên cứu so
sánh tôn giáo Việt Nam và Hàn Quốc có
được những kết quả ngày một tốt hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lý Xuân Chung, “Tìm hiểu vấn đề Nho

giáo du nhập vào Hàn Quốc”, Tạp chí Nghiên
cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, số 316-2001.
2. Ngô Xuân Bình – Phạm Hồng Thái (Chủ
biên), Tôn giáo ở Hàn Quốc và Việt Nam:
nghiên cứu so sánh, Trung tâm Nghiên cứu Hàn
Quốc – Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Hà
Nội, 2007.
3. Phạm Hồng Thái (Chủ nhiệm): “Sự
truyền bá và phát triển của Đạo Tin Lành tại
một số nước Đông Bắc Á”, Viện Nghiên cứu
Đông Bắc Á – Đề tài cấp Bộ năm 2010.
4. Bùi Thị Thoa, “Những tương đồng và
khác biệt trong “Lên đồng” của người Việt và
“Kut” của người Hàn”, Tạp chí Nghiên cứu
Đông Bắc Á, số 6/2010.
5. Cao Thế Trình, “Tìm hiểu tín ngưỡng
phồn thực của người Hàn”, Tạp chí Nghiên cứu
Đông Bắc Á, số 1/2009.
6. Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hóa Việt
Nam, Education Pub. Press, Hanoi 1998.
7. Đặng Nghiên Vạn, Về tín ngưỡng và tôn
giáo Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội,
1996.
8. James Huntley Grayson, Korea – A
Religion History, Routledge Curzon Press, 2002.
9. Hogarth, Hyun-key Kim, Korean
Shamanism and Cultural National, Soul –
Jimmoodang, 1999.

Nghiªn cøu ®«ng b¾c ¸, sè 12(142) 12-2012




×