LỜI MỞ ĐẦU
Đồng bằng bát ngát nẩy toà sen
Phật ngự trang nghiêm tự động tiên
Đất Phúc xây nên cung Nguyệt Điện
Trời Nam riêng hẳn cảnh thiên nhiên
Lò hương khơi toả tan niềm tục
Hồ Ngọc trăng soi rõ cửa thiền
Công đức từ bi bao xiết kể
Công lao vô lượng lại vô biên.
(trích sách đồng)
Đây là những vần thơ ca ngợi cảnh đẹp với công đức vô lượng, vô biên của
chùa Đậu được Sĩ Nhiếp- một bậc hiền tài được nhân dân kính trọng tôn như
Vua- viết vào đầu thế kỉ thứ 3 (200-210). Chùa Đậu là một ngôi chùa nổi
tiếng, là một trong mười hai di tích của tình Hà Tây được bộ Văn hóa Thông
tin xếp loại đặc biệt quan trọng. Ngoài những giá trị kiến trúc, chùa Đậu còn
bảo lưu được nhiều di vật quý như: hai con chồn đá ở thềm Tam Quan có niên
hiệu thời Trần, đôi rồng đá ở thềm Bậc Tiền Đường, đến nay đã có hơn 500
tuổi; các phù điêu trạm hình tiên nữ đầu người, mình chim, những chàng trai
cưỡi rồng, đánh hổ, các loại gạch đất nung có văn hoa thời Mạc , thời Lê, hai
bộ sách đồn….Đáng trân trọng hơn cả, chùa còn lưu giữ hai pho tượng ướp
xác, còn gọi là xá lỵ, hay tượng táng hai vị tổ thiền sư Vũ Khắc Minh và Vũ
Khắc Trường quý hiếm làm nên một chùa Đậu bí ẩn và độc đáo.
Sau chuyến đi thực tê ngày mồng 6 tháng 3 vừa qua, được sự hướng dẫn chu
đáo và cặn kẽ của Phó giáo sư – Tiến sĩ Nguyễn Đỗ Bảo chúng tôi đã
hoàn thành bài thu hoạch với kết quả tốt nhất. Mong được sự góp ý chân
thành từ quý thầy cô và các bạn.
Xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên thực hiện
Lê Thị Thu Huyền
Bài thu hoạch điền dã: Chùa Đậu Lê Thị Thu Huyền
I.Thông tin di tích
1. Tên di tích:
Chùa Đậu là một ngôi chùa nổi tiếng về lịch sử lâu đời, kiến trúc độc
đáo, nghệ thuật dân gian, kiến trúc dân gian đều rất biến hóa, là một trong 12
di tích của tỉnh Hà Tây được Bộ Văn Hóa Thông tin xếp lọai đặc biệt quan
trọng.
Để đến được ngôi chùa thiêng liêng và huyền bí này, du khách cứ đi
thẳng quốc lộ 1a từ Hà Nội về phía Nam là huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây
chừng 24km , qua ga Thường Tín khoảng hơn 500m có một con đường rẽ
phải đi vào chùa Đậu, tiếp tục đi khoảng hơn 2km nữa là đến nơi.
Chùa Đậu tọa lạc ở thôn Gia Phúc, xã Nguyễn trãi, huyện Thường Tín,
tỉnh Hà Tây. Chùa có tên chữ là Thành Đạo Tự thờ thần Pháp Vũ trong hệ
thống Tứ Pháp ( Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện) nên còn gọi là
Pháp Vũ Tự. Do nhà vua chọn đất làm chùa và chỉ dành cho bậc vua chúa đến
lễ. Do nhà Vua chọn đất làm chùa và chỉ dành cho bậc Vua Chúa đến lễ.
Người dân chỉ được lễ trong ba ngày hội nên còn có tên gọi là Chùa Vua.Bồ
Tát hiện thân nữ nên gọi là Chùa Bà. Bậc chí sĩ cần nghiệp lớn được đậu,
người dân trồng cây được đơm hoa kết trái, từ đó trong dân gian gọi là Chùa
Đậu.
2.Quá trình xây dựng và các đợt trùng tu di tích
Ngày từ xa xưa , mảnh đất này đã từng có các triều đại Vua, Chúa lui tới
để lễ bái cầu đảo, cầu cho quốc thái dân an đều rất linh ứng, nên gọi là '' Quốc
Đảo' các hàng chiến sĩ đến đây đều cầu nguyện cho Đăng Khoa, công danh
rạng rỡ, sự nghiệp viên thành, người nông dân thì cầu nghiệp cho sức khỏe,
cây cối tốt tươi, mùa màng bội thu nên các Vua Chúa cho xây dựng, sửa sang
và phong tặng '' Đệ nhất đại danh lam''.
Theo văn bia tu tạo dựng 3 năm Dương Hòa đời thứ 5 thì ngôi chùa này
được tôn tạo vào thời Lý( thế kỷ XII).
Bài thu hoạch điền dã: Chùa Đậu 1 Lê Thị Thu Huyền
Năm 1635, đời vua Lê Trần Tông, cung tần Ngô thị Ngọc Duyên đã làm
hội chủ hưng công trình kiến trúc quy mô ngôi chùa, Chùa Đậu nổi tiếng từ
bấy giờ, mọi người cho rằng về tới nơi đây là đến nơi đất Phật. Đây là đợt
trùng tu lớn nhất của chùa.
Chùa Đậu được xây cất lớn vào thời Lý. Tới đời Lê có văn bia, sổ sách
ghi truyền về việc tu sửa chùa. Chùa kiến trúc theo thức "chữ khẩu và chữ
quốc " theo hệ thống cấu pháp thời nhà Phật.
Năm 1947, những công trình quý báu này bị thực dân Pháp phá hoại, dốt
cháy. Tuy nhiên vẫn còn một số điêu khắc giá trị ở gác chuông Tam quan và
Hộ tiền đường chạm trổ tiên nữ cưỡi rồng, chàng trai cưỡi hổ đánh rồng..rất
sống động. Hai cái am thờ hai di hài nhà sư ở bên cạnh chùa được xây dựng
bằng gạch cổ thời Mạc, có hình các con thú, lá cây, hoa cúc rất độc đáo.
Khi chưa bị cháy, tại chùa còn nhiều vật quý hiếm như quạt ngà, quạt tê
giác của vua Lê và chúa Trịnh ban.. Hiện nay , chùa vẫn còn giữ cuốn sách
đồng khắc chữ hán nói về lịch sử chùa cùng một khánh đồng to đời thiết sơn
son thếp vàng có chạm hai bài thơ của vua Lê Hy Thông( 1680 -1705) và vua
Lê Dụ Tông(1705 - 1719)khi về thăm chùa và một số bia đá cổ thời Mạc
Sùng Khang ( 1566- 1577), Thịnh Đức( 1653- 1657), Cảnh Hưng.(1740-
1786)...
Năm 1964, chùa được Bộ Văn Hóa Thông Tin xếp hạng di tích lịch sử
và nghệ thuật lọai A, được tu sửa vào năm 1967.
II.Quy họach và kiến trúc
1. Thế đất và cảnh quan môi trường:
Khi Phật giáo du nhập vào Việt Nam vào khoảng thế kỉ thứ nhất sau
công nguyên, chủ yếu các nhà sư người Việt đi các nơi truyền giáo thì họ phải
lập chùa Phật dưới các mái đá để thờ Phật , khi Phật giáo phát triển thì mới có
điều kiện xây chùa.
Bài thu hoạch điền dã: Chùa Đậu 2 Lê Thị Thu Huyền
Chùa Đậu nằm ở rìa làng do những người theo Phật đóng góp xây dựng,
là nơi những cụ bà cao tuổi hay lui tới chùa. Chùa nhìn ra cánh đồng .
Có thể thấy, vào thời Lý do đất nước được thống nhất và kinh tế phát
triển nên chùa tháp thờ Phật là những công trình kiến trúc nghệ thuật hoành
tráng. Do Phật giáo nhập nhập thế nên đất nước phục hưng, xuất hiện nhiều
làng nghề: gốm, đục đá, gạch ngói, trạm khắc...có khả năng chi viện cho nhau
tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng các công trình kiến trúc nghệ thuật
như chùa Đậu và một sô chùa khác.
Hầu hết, các khu đất được chọn xây dựng chùa đều rất rộng rãi, thoáng
đãng, không xa khu dân cư, gần nguồn nước, gần đường giao thông thuận tiện
thời đó. Chùa Đậu là một trong những chùa có khuôn viên như thế. Nơi đây
thường rất tĩnh lặng, không khí trong lành, cây cối quanh năm xanh tốt, mang
đầy vẻ huyền bí, thiêng liêng. Sân vườn thường rất rộng.
Bài thu hoạch điền dã: Chùa Đậu 3 Lê Thị Thu Huyền
2. Trang trí kiến trúc nội ngọai thất:
Chùa Đậu được xây dựng theo thức '' chữ khẩu và chữ quốc". Kiểu
kiến trúc sử dụng không gian nửa kín nửa hở để tách biệt với thế giới bên
ngoài nhưng vẫn gần gũi với nhân dân. Kiểu mặt bằng này tạo cho ngôi chùa
một sự bề thế, khang trang làm thay đổi diện mạo kiến trúc Phật giáo cách
mạnh mẽ mà vẫn giữ được khuôn viên vuông vắn, tạo không gian cân đối, có
chiều sâu, phù hợp với chức năng thờ cúng . Đủ để thỏa mãn yêu cầu tu hành
được Thiền sư Pháp loa đã viết trong sách Tam Tổ Thực lực " cảnh không gần
nhân gian mà cũng không xa nhân gian, vì gần thì ồn ào mà xa thì không ai
giúp đỡ cho. Cảnh có thể là chỗ yên nghiệp để dưỡng thân, tâm linh sáng
suốt...."
Chùa Đậu có mặt bằng kiến trúc là hình chữ công, có bố cục đăng đối
theo một đường trục tưởng tượng từ ngòai vào trong. Kiến trúc xây dựng
phong cảnh kết hợp hài hòa giữa những thứ con người tạo ra với thiên nhiên.
Các nghệ nhân thời bấy giờ chủ động, tiếp thu và biến đổi tinh hoa văn hóa
thế giới cho phù hợp với văn hóa người Việt mà còn kế thừa văn hóa truyền
thống làm cho nền văn hóa nghệ thuật thời Lý càng có sự phát triển cao hơn.
Nghệ thuật dân gian , kiến trúc dân gian đều rất biến hóa. Ngôi chính điện từ
thời Lê, mái lợp ngói mũi hài, các cột , xà đều chạm rồng; những bệ đá chân
cột chạm hoa sen, bộ cửa tám cánh đều trạm tứ linh, tứ quý, sơn son, thếp
vàng.... Trước cổng chùa là cổng Tam quan đồng thời là gác chuông hai tầng,
tám mái với đầu đao cong vút, kiến trúc tách rời độc lập với khối nhà chính.
Nhiều bộ phận gỗ được chạm khắc hình rồng, phượng và hoa lá, tầng trên treo
một quả chuông đúc năm 1801 thời Tây Sơn. Hình tượng con rồng có ý nghiã
rất đặc trưng và thay đổi theo từng thời kỳ. Trên thế giới , trong cộng đồng
dân tộc đã có hình tượng con rồng nhưng không đâu giống nhau thể hiện sự
sáng tạo giữa các vùng. Con người từ xưa chưa có ý thức về nhiều sự vật,
hiện tượng xung quanh thường sợ hãi trước các hình tượng đó nên đã thờ Phật
tổ để cầu mong phù hộ cho mình nhưng không mấy tác dụng bèn thờ một con
Bài thu hoạch điền dã: Chùa Đậu 4 Lê Thị Thu Huyền
vật cao hơn là con rồng, mỗi cư dân tưởng tượng một cách. Hình tượng con
rồng thời Lý ở Việt Nam xuất phát từ điều kiện địa lý kinh tế, người Việt
Nam sớm định cư vì làm ruộng nên gắn với loài rắn, hình tượng con rồng thời
Lý là rồng rắn. Con rồng được chuẩn hóa, nhất quán chứng tỏ tư tưởng và
nghệ thuật đều thống nhất.
Khuôn viên chính là 1 hình chữ nhật 43m x 32m gồm phía trước là một
tòa tiền đường 7 gian 2 chái. Hai đầu phía sau nối vào 2 dẫy hành lang 11
gian thì gian đầu một bên thờ Ðức Ông, một bên thờ Ông Giám Trai, 6 gian
sau đắp tượng La Hán và Kim Cương, 2 gian cuối dùng làm phòng ngủ chư
tăng. Lưng khuôn viên là hậu đường cũng 7 gian 2 chái như tiền đường. - đây
có bàn thờ các vị sư tổ, tượng và bàn thờ hậu và chính phi ,có cả tượng và bàn
thờ ông đốc công điều khiển việc trùng tu chùa .
Hai đầu hậu đường là 2 phòng của hành lang 2 bên kéo dài. Trong lòng
khuôn viên là 2 tòa trung điện và thượng điện dựng trên nền cao, có nhà thiên
tượng hay ống muống rộng nối vào nhau từ tiền đường, qua trung điện đến
thượng điện thành thế chữ vương là kiểu đặc biệt của chùa này mà không nơi
nào có.
Trước mặt tiền đường là 1 sân gạch rộng, hai bên có xây nhà giải vũ 5
gian làm nơi sửa soạn nghi lễ rước sách, hội hè và là nơi nghỉ ngơi cho khách
hành hương. Trước sân dựng 1 gác chuông và 2 cửa phụ ra vào. Gác chuông
kiểu đẹp, dưới xây tường, trên lầu gỗ với 8 mái đao góc uốn cong. Hình như
tòa gác chuông này đã được tôn nền cao lên để khoảng giữa đủ chiều cao cho
kiệu rước đi lọt qua.
tòa thượng điện và trung điện là phần xưa nhất của chùa. Hai tòa này và
cả ống muống, vách bọc chung quanh được làm hoàn toàn bằng gỗ theo kỹ
thuật ván đổ nong như ở các kiến trúc xưa, nhưng ở đây trên mỗi thanh đổ
đầy đặn đều được trang trí bằng những hình chạm nổi hạt ngọc bốc lửa (hỏa
châu). Còn trong mỗi ô cửa sổ thông gió trổ ở 2 bên hông sườn kiến trúc thì
Bài thu hoạch điền dã: Chùa Đậu 5 Lê Thị Thu Huyền
chạm thủng tứ linh: long, ly, quy, phượng vùng vẫy, múa chầu giữa những
cụm mây lửa hoặc chạm từng chữ thánh thọ vô cương nổi giữa những rồng,
phượng, rùa, lân và mây lửa, bố cục sôi nổi. Trên mỗi cây cột lim, chạm 1 ổ
rồng hình bầu dục nhọn đầu trong chiều dài của cột. Trong những tai trượng
nghiêng, ôm bọc đầu những khuôn cửa, thì chạm tiên nữ đội mũ cánh sen, xòe
đôi cánh, dang cánh tay trần, cầm quạt và uốn ngón múa may. Những cánh
cửa cũng chạm rồng uốn khúc giữa những cụm mây hoặc trên nền triện gấm,
qui tiền 1 trổ thủng. Chùa đậu vì vậy nổi tiếng là được trạm trổ công phu và
rực rỡ trong Kiến trúc Việt Nam.
Mái hai tòa thượng điện, trung điện này cùng ống muống được lợp bằng
loại ngói mũi hài cổ đặc biệt là to dầy khoảng cỡ 20 cm x 30 cm x 3 cm.
Nếp tiền đường bên ngoài cũng được đục chạm, trang trí rực rỡ, sống
động với những rồng mây, nhưng chỉ ở bộ phận rường kèo bên trên và được
tô mầu thuốc phần nhiều là xanh lam và trắng, mang phong dạng của nghệ
thuật thế kỷ 17 không mạnh và độc đáo bằng hai tòa điện bên trong. Cột kèo
của tòa nhà này cũng không to mập, vững vàng như hai tòa kia. Ðáng tiếc là
hai tòa điện cổ kính và nổi tiếng về phong cách chạm trổ công phu rực rỡ này
đã bị quân đội viễn chinh Pháp đốt cháy năm 19472. Khoảng năm 1952 nhà
sư trụ trì chỉ xây cất lại một am gạch kiểu long đình trên nền điện cũ để thờ bà
ậu; mà không hiểu do may mắn nào mà tượng còn tồn tại được vì thượng điện
hay cung cấm chính là nơi thờ Bà. Pho tượng bà đậu ở đây có mặt trái soan,
tay phải giơ lên đưa hai ngón tay giữa hướng lên trời, là kiểu khác với các
tượng Tứ Pháp thờ tại nhiều nơi trong vùng đồng bằng Bắc bộ và có thể coi là
đẹp hơn cả .
Ở gian giữa , trên giá chiêng có ván bịt, gọi là bụng lợn ( hay còn gọi là
rốn lợn) nhằm đỡ xà dọc tức là thượng lương hình khối chữ nhật có ý nghĩa
giá trị nhất.
Bài thu hoạch điền dã: Chùa Đậu 6 Lê Thị Thu Huyền