Tải bản đầy đủ (.pdf) (56 trang)

quyền bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1014.04 KB, 56 trang )

ƯỜ
NG ĐẠ
Ơ
TR
TRƯỜ
ƯỜNG
ĐẠII HỌC CẦN TH
THƠ
KHOA LU
ẬT
LUẬ

ẬN VĂN TỐT NGHI
ỆP CỬ NH
ÂN LU
ẬT
LU
LUẬ
NGHIỆ
NHÂ
LUẬ
ÓA 37 (2011-2015)
KH
KHÓ
Tên đề tài:

ỀN BÌNH ĐẲ
NG GI
ỚI TRONG LĨNH VỰC GI
ÁO
QUY


QUYỀ
ĐẲNG
GIỚ
GIÁ
O TẠO Ở VI
ỆT NAM
DỤC VÀ ĐÀ
ĐÀO
VIỆ

Giảng viên hướng dẫn

Sinh viên thực hiện

ThS.THẠCH HUÔN

THẠCH THỊ ÚT LÊ

Bộ môn: Luật Thương Mại

MSSV:5115721
Lớp: Hành Chính K37

ơ
Thơ
Cần Th
áng 12/2014
Th
Thá



LỜI CẢM ƠN!
���---------------�
Trong khoảng thời gian học tập tại Trường Đại học Cần Thơ, người viết đã
nhận được sự giúp đỡ, dạy bảo nhiệt tình của quý thầy cô khoa luật. Quý thầy cô
đã truyền đạt những kiến thức cơ bản về khoa học pháp lý, trang bị cho người viết
những kỹ năng cần thiết để thực hiện luận văn cũng như trong bước đường tương
lai. Xin cho người viết gửi đến quý thầy cô lời cảm ơn chân thành nhất.
Đặc biệt, người viết xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến thầy Thạch Huôn. Thầy
đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và truyền đạt những kinh nghiệm quý báo giúp cho
người viết hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Bên cạnh đó, người viết cũng xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè đã giúp
đỡ về mặt tinh thần để người viết có được tự tin làm luận văn này./.

Cần Thơ, ngày…tháng…năm 2014
ực hi
Sinh vi
viêên th
thự
hiệện

ạch Th
Th
Thạ
Thịị Út Lê


NG DẪN
ÊN HƯỚ
ẢNG VI

ẬN XÉT CỦA GI
NH
ƯỚNG
VIÊ
GIẢ
NHẬ
���---------------�
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………

Cần Thơ, ngày…tháng…năm 2014
ảng vi
ng dẫn
Gi
Giả
viêên hướ
ướng
ôn
ạch Hu
Huô
Thạ
ThS. Th


ẬN XÉT CỦA GI
ẢNG VI
ÊN PH
ẢN BI
ỆN
NH
NHẬ
GIẢ
VIÊ
PHẢ

BIỆ
���----------�
-----………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………


Cần Thơ, ngày…tháng…năm 2014
ản bi
ảng vi
biệện
phả
viêên ph
Giả
Gi


o tạo ở Vi
áo dục và đà
ới trong lĩnh vực gi
ng gi
Đề tài: Quy
Việệt nam
đào
giá
giớ
đẳng
Quyềền bình đẳ
LỜI NÓI ĐẦU
1.L
1.Lýý do ch
chọọn đề tài
Hiện nay bình đẳng giới vẫn là vấn đề luôn được cả xã hội quan tâm. Nó là mục
tiêu của toàn xã hội, của hầu hết các nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Nếu vấn
đề giải phóng phụ nữ là vấn đề cơ bản nhất trong các vấn đề của phụ nữ, thì quyền bình
đẳng giữa nam và nữ lại là nội dung quan trọng nhất, cốt lõi nhất của vấn đề này. Chính

vì vậy mà Bác Hồ đã khẳng định: “Công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Đàn bà có
quyền bình đẳng với đàn ông về các mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình”.
Bình đẳng giới có vị trí quan trọng trong xây dựng một xã hội phát triển ổn định
và bền vững ở nước ta.Đó là mục tiêu lớn mà Đảng và nhà nước đã đặt ra ngay từ ngày
đầu tiên khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Trong Tuyên ngôn độc lập
ngày 2 tháng 9 năm 1945, chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết “ Tất cả mọi người sinh ra có
quyền bình đẳng”. Bình đẳng giới được thực hiện trong mọi lĩnh vực như chính trị, kinh
tế,lao động, y tế, hôn nhân và gia đình, trong đó có cả lĩnh vực giáo dục và đào tạo.
Ngay sau cách mạng tháng tám thành công, dù bộn bề trăm công nghìn việc, Bác
Hồ đã quan tâm ngay tới sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Tại phiên họp đầu tiên của Hội
Đồng Chính Phủ, Hồ Chí Minh nêu ra sáu việc cấp bách trong đó có vấn đề về giáo dục
và đào tạo. Người đòi hỏi mọi người Việt Nam phải có kiến thức vào công việc xây
dựng đất nước. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và đào tạo đã thấm sâu vào các
Nghị quyết của Đảng và đi vào cuộc sống. Đảng ta đã khẳng định “Giáo dục và đào tạo
là quốc sách hàng đầu” và “đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư cho phát triển”,
giáo dục và đào tạo “nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”. Vì
thế giáo dục và đào tạo có vị trí, vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống của con
người.
Nghiên cứu bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo là một việc cần thiết
trong xã hội hiện nay, nhằm mục đích giúp người đọc hiểu rõ hơn bình đẳng giới là
gì,quyền bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo ở Việt Nam hiện nay như
thế nào, nhằm tìm ra các biện pháp nâng cao bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và
đào tạo…Chính vì lý do đó người viết chọn đề tài “ Quyền bình đẳng giới trong giáo
dục và đào tạo ở Việt Nam” làm luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Mục ti
tiêêu nghi
nghiêên cứu
Mục tiêu nghiên cứu đề tài là đi sâu vào việc phân tích để tìm rõ các yếu tố như:
Tìm hiểu những vấn đề liên quan đến bình đẳng giới như giới, giới tính, bình đẳng
giới….các mục tiêu, nguyên tắc của bình đẳng giới cũng như ý nghĩa của việc bình

đẳng giới trong giáo dục và đào tạo.Tìm hiểu và phân tích các quyền bình đẳng giới

ạch Hu
ôn
GVHD: ThS Th
Thạ
Huô

1

ạch Th
SVTH: Th
Thạ
Thịị Út Lê


Đề tài: Quy
ng gi
ới trong lĩnh vực gi
áo dục và đà
o tạo ở Vi
Quyềền bình đẳ
đẳng
giớ
giá
đào
Việệt nam
trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, cơ chế thực thi,nhằm đảm bảo việc thực hiện bình
đẳng giới trên thực tế. Nêu tổng quan về thực trạng bình đẳng trong lĩnh vực giáo dục
và đào tạo ở nước ta hiện nay. Từ đó tìm ra nguyên nhân dẫn đến tình trạng bất bình

đẳng giới trong giáo dục và đào tạo và từ đó đề ra một số giải pháp nhằm giải quyết
thực trạng đó.
3. Ph
Phạạm vi nghi
nghiêên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề về quyền bình đẳng giới trong các quy định
của pháp luật về lĩnh vực giáo dục và đào tạo ở Việt Nam. Đồng thời qua đó đưa ra
những nguyên nhân tồn tại của vấn đề này và một số ý kiến nhằm khắc phục những vấn
đề còn bất cập.
ươ
ng ph
4. Ph
Phươ
ương
phááp nghi
nghiêên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, người viết sử dụng chủ yếu là phương pháp phân tích
luật viết để tìm hiểu các quy định của pháp luật, kết hợp so sánh, đối chiếu với một số
quy định của luật cũ. Ngoài ra còn sử dụng phương pháp thống kê, tổng hợp để thu thập
tài liệu.
5. Bố cục đề tài
Bố cục đề tài gồm:
- Lời nói đầu
- Phần nội dung: gồm 2 chương
+ Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về bình đẳng giới
+ Chương 2: Quyền bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo
- Kết luận
- Danh mục tài liệu tham khảo

ạch Hu

ôn
GVHD: ThS Th
Thạ
Huô

2

ạch Th
SVTH: Th
Thạ
Thịị Út Lê


Đề tài: Quy
ng gi
ới trong lĩnh vực gi
áo dục và đà
o tạo ở Vi
Quyềền bình đẳ
đẳng
giớ
giá
đào
Việệt nam
ƯƠ
NG 1
CH
CHƯƠ
ƯƠNG
ỮNG VẤN ĐỀ LÝ LU

ẬN CHUNG VỀ BÌNH ĐẲ
NG GI
ỚI
NH
NHỮ
LUẬ
ĐẲNG
GIỚ
Chương này người viết tập trung phân tích và làm rõ các khái niệm cơ bản liên
quan đến quyền bình đẳng giới, các mục tiêu, nguyên tắc đảm bảo bình đẳng giới, lịch
sử hình thành và phát triển quyền bình đẳng giới ở Việt Nam. Đồng thời khái quát về
nội dung, cũng như ý nghĩa của việc bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo.
ng gi
ới
1.1 Các kh
kháái ni
niệệm cơ bản về bình đẳ
đẳng
giớ
ườ
1.1.1 Kh
Kháái ni
niệệm quy
quyềền con ng
ngườ
ườii và quy
quyềền công dân

1.1.1.1 Khái niệm quyền con người
Con người là một giá trị cao quý và là mục tiêu của bất cứ cuộc cách mạng nào.

Chính vì vậy, bảo vệ và phát triển các quyền của con người phải là trọng tâm và đích
cuối cùng của mỗi cuộc cách mạng, của mỗi thể chế xã hội tiến bộ. “sự không hiểu biết,
sự lãng quên hay sự coi thường quyền con người là những nguyên nhân duy nhất của
những nổi bất hạnh công cộng, của tệ hủ bại của các chính phủ”.1 Việc hiểu đúng nội
dung của các quyền tự do cơ bản của con người theo đúng nghĩa cao quý đã được ghi
nhận trong hiến chương Liên hợp quốc, trong hàng loạt công ước quốc tế và trong hàng
loạt hiến pháp của các quốc gia sẽ giúp mỗi cá nhân, mỗi dân tộc, không những không
tránh né quyền con người mà sẽ giúp nâng cao trách nhiệm của mỗi cá nhân, mỗi dân
tộc, mỗi quốc gia trong việc hợp sức xây dựng những điều kiện bảo đảm thực hiện có
hiệu quả các quyền này trong phạm vi quốc gia và góp phần vào cuộc đấu tranh chung
của nhân loại vì hòa bình, hợp tác và ổn định.
Trong lịch sử nhân loại, quyền con người thoạt tiên được coi là những quyền
thiêng liêng và không thể tách rời của con người do trường phái luật đề xướng. Sau đó,
quyền con người ngày càng được xã hội hóa, được các quốc gia và cộng đồng quốc tế
ghi nhận và bảo vệ bằng các quy phạm của luật hiến pháp và các quy phạm của điều
ước quốc tế.
Theo định nghĩa của Văn phòng Cao Ủy Liên hợp quốc về quyền con người thì
“quyền con người là những đảm bảo pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân
và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân
phẩm, những sự cho phép và tự do cơ bản của con người”.2
Cho nên có thể định nghĩa về quyền con người như sau: Quyền con người là khả
năng của con người được bảo đảm bằng pháp luật (luật quốc tế và luật quốc gia) về sử
1

Lời nói đầu tuyên ngôn về nhân quyền và dân quyền 1789.
Dẫn theo: Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội (2009), Giáo trình Lý luận và pháp luật về Quyền con người,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 41.
2

ạch Hu

ôn
GVHD: ThS Th
Thạ
Huô

3

ạch Th
SVTH: Th
Thạ
Thịị Út Lê


Đề tài: Quy
ng gi
ới trong lĩnh vực gi
áo dục và đà
o tạo ở Vi
Quyềền bình đẳ
đẳng
giớ
giá
đào
Việệt nam
dụng và chi phối các phúc lợi xã hội, các giá trị vật chất, văn hóa và tinh thần, sử dụng
quyền tự do trong xã hội trong phạm vi luật định các hoạt động của mình và của người
khác trên cơ sở pháp luật.
Trong luật quốc tế, quyền con người có đặc trưng là một thể thống nhất, được xác
định bằng những quyền năng, chuẩn mực cụ thể, mang tính phổ cập và có sự thống nhất
biện chứng giữa đặc tính dân tộc với đặc tính nhân loại, giữa quyền cá nhân và quyền

tập thể, giữa quyền con người và quyền công dân. Mang bản chất là những quyền tự
nhiên, vốn có, quyền con người là giá trị chung, phổ biến đối với mọi xã hội, quốc gia,
dân tộc và gắn với các điều kiện của quan hệ quốc tế. Còn bản chất xã hội làm cho
quyền con người phù hợp với đặc thù về lịch sử, chế độ chính trị, đặc trưng văn hóa,
truyền thống dân tộc và gắn với điều kiện, sự phát triển của kinh tế, văn hóa, xã hội tại
mỗi quốc gia.3
Ở gốc dộ pháp lý, quyền con người được bắt đầu từ môi trường quốc gia, trước
khi cộng đồng quốc tế có thể thống nhất với nhau về những giá trị, chuẩn mực, quy
định hay nguyên tắc chung để điều chỉnh cách thức ứng xử của các quốc gia đối với
công dân của nước đó và cả công dân của nước khác. Các chuẩn mực về quyền con
người nhìn từ gốc độ quốc gia hay quốc tế đều nhằm hạn chế quyền tự do xâm phạm
quyền con người của nhà nước trong cả hai lĩnh vực các quan hệ trong nội bộ quốc gia
và các quan hệ quốc tế.
Ở Việt nam, một số định nghĩa về quyền con người do một số chuyên gia, cơ quan
nghiên cứu từng nêu ra cũng không hoàn toàn giống nhau, nhưng xét chung, quyền con
người thường được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan của
con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý
quốc tế.
Bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946 của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ghi nhận
các quyền thiêng liêng của con người. Tiếp đó là các bản Hiến pháp năm
1959,1980,1992 không chỉ thừa nhận và bảo đảm đầy đủ các quyền con người phù hợp
với luật pháp quốc tế mà còn khẳng định rõ: Nhà nước Việt Nam là nhà nước pháp
quyền của dân, do dân, vì dân, có trách nhiệm bảo đảm và không ngừng phát huy quyền
làm chủ về mọi mặt của nhân dân. Đặc biệt khái niệm quyền con người lần đầu tiên
được đưa vào Hiến pháp năm 2013 trong một chế định cụ thể.
Như vậy, nhìn ở gốc độ nào và ở cấp độ nào thì quyền con người cũng được xác
định như là những chuẩn mực được cộng đồng quốc tế thừa nhận và tuân thủ. Những
chuẩn mực này kết tinh những giá trị nhân văn của toàn nhân loại, chỉ áp dụng với con
3


Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật quốc tế, Nhà xuất bản Công an nhân dân, năm 2007, tr. 135

ạch Hu
ôn
GVHD: ThS Th
Thạ
Huô

4

ạch Th
SVTH: Th
Thạ
Thịị Út Lê


Đề tài: Quy
ng gi
ới trong lĩnh vực gi
áo dục và đà
o tạo ở Vi
Quyềền bình đẳ
đẳng
giớ
giá
đào
Việệt nam
người, cho tất cả mọi người. Nhờ có những chuẩn mực này, mọi thành viên trong nhân
loại mới được bảo vệ nhân phẩm và mới có điều kiện phát triển đầy đủ các năng lực của
cá nhân với tư cách là một con người. Cho dù cách nhìn nhận có những khác biệt nhất

định, một điều rõ ràng là quyền con người là những giá trị cao cả cần được tôn trọng và
bảo vệ trong mọi xã hội và trong mọi giai đoạn lịch sử.

1.1.1.2 Khái niệm quyền công dân
Khái niệm về quyền công dân cũng ra đời từ lâu trong lịch sử, được sử dụng rộng
rãi trong xã hội tư sản. Trong sách báo pháp lý, khái niệm “quyền công dân” là khái
niệm cùng hàng với khái niệm quyền con người. So với khái niệm quyền con người,
khái niệm quyền công dân mang tính xác định hơn, gắn liền với mỗi quốc gia, được
pháp luật của mỗi quốc gia quy định. Và do gắn với đặc thù của mỗi quốc gia mà nội
dung, số lượng, chất lượng của quyền công dân ở mỗi quốc gia thường không giống
nhau. Tuy nhiên, không có sự đối lập giữa quyền con người và quyền công dân trong
quy định của các nước.
Thực ra, khái niệm quyền công dân không phải dùng để chỉ các quyền cụ thể của
công dân là quyền nào mà là khái niệm có tính chất là tiêu chí đánh giá, hàm ý chỉ rằng
nhà nước đã ghi nhận và bảo đảm cho công dân, quyền con người như thế nào trong các
quyền và trong các nghĩa vụ cụ thể của công dân. Tính cụ thể của khái niệm chỉ là chỗ
nó không tồn tại độc lập như khái niệm quyền con người mà phải gắn với các quy định
của pháp luật, phải qua việc xem các quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của một hệ
thống pháp luật như thế đã phản ánh quyền công dân như thế nào. Thông qua quyền
công dân trong một hệ thống pháp luật, người ta có thể biết nó đã thể hiện quyền con
người như thế nào. Quyền công dân khác với khái niệm “quyền cơ bản” của công dân
được ghi nhận trong các bản hiến pháp, nó mang tính chất cụ thể chỉ các lợi ích cơ bản
mà pháp luật ghi nhận cho công dân. Cần nhấn mạnh rằng “quyền cơ bản của công dân”
là quyền được thể hiện trong các quy định cụ thể cho cả quyền và cả nghĩa vụ cơ bản
đối với công dân. Và, quyền con người bản thân nó không có tính pháp lý, còn quyền
công dân thì lại có tính chất ấy.
Khái niệm quyền con người xét về nguồn gốc tự nhiên là quyền của tất cả các cá
nhân, không liên quan đến việc nó có được ghi nhận trong pháp luật một nhà nước cụ
thể nào không. Trái lại, khái niệm quyền công dân lại là các quyền được thể hiện trong
pháp luật của một nước ghi nhận (dưới dạng là các quyền và nghĩa vụ cụ thể) và đảm

bảo thực hiện trong một nhà nước cụ thể. Nội hàm của khái niệm “quyền con người”
rộng hơn khái niệm “quyền công dân”, hay nói cách khác, “quyền công dân” không thể
bao quát hết được “quyền con người”. Chủ thể của quyền con người là mỗi con người
mà ngay từ khi họ được sinh ra thì tạo hoá đã ban cho họ cái mà được gọi là quyền sống,

ạch Hu
ôn
GVHD: ThS Th
Thạ
Huô

5

ạch Th
SVTH: Th
Thạ
Thịị Út Lê


Đề tài: Quy
ng gi
ới trong lĩnh vực gi
áo dục và đà
o tạo ở Vi
Quyềền bình đẳ
đẳng
giớ
giá
đào
Việệt nam

quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc, còn chủ thể của quyền công dân có thể là
“các cá nhân đặt trong mối quan hệ với nhà nước, dựa trên tổng thể các quyền và
nghĩa vụ pháp lý của mỗi cá nhân được nhà nước đó quy định tạo nên địa vị pháp lý
của công dân”.4 Mặc dù chủ thể của quyền công dân được hiểu là các cá nhân đặt trong
quan hệ với nhà nước, được thể hiện trong tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý của
mỗi cá nhân được nhà nước đó quy định, nhưng không thể nói quyền con người là
quyền cá nhân tự do, còn quyền công dân chỉ có tính chất quốc gia. Đối với những chủ
thể mặc dù không phải là công dân (không phải là công dân nước sở tại hoặc không
mang quốc tịch của một nhà nước nào) thì họ vẫn có được những quyền hạn chế của
công dân hoặc phải thực thi những nghĩa vụ cũng hạn chế của công dân đối với xã hội,
nhà nước nơi họ sinh sống, cư trú.
Tuy là những khái niệm không thể đồng nhất với nhau, nhưng “quyền con người”
và “quyền công dân” lại là các khái niệm có sự thống nhất. Sự thống nhất đó thể hiện ở
chỗ, trong mỗi quốc gia, quyền công dân trong nội dung là sự thể hiện cụ thể của quyền
con người, khó có thể phân định một cách thật sự rạch ròi quyền con người, quyền công
dân theo quan điểm quyền con người là quyền tự nhiên, quyền công dân là do pháp luật
quy định; hay quyền con người là do luật quốc tế quy định, quyền công dân là do pháp
luật quốc gia quy định. Việc nhận thức giá trị và bản chất của quyền con người có vai
trò quyết định trực tiếp trong việc xây dựng các quy chế pháp lý về quyền công dân
trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia. Việc ghi nhận và đảm bảo thực hiện các
quyền công dân chính là đã thực hiện nội dung cơ bản của quyền con người.
ới tính và gi
ới
1.1.2 Kh
Kháái ni
niệệm gi
giớ
giớ
Giới và giới tính là hai khái niệm cặp đôi có liên quan chặt chẽ với nhau. Do đó để
hiểu rõ khái niệm giới trước hết cần tìm hiểu khái niệm giới tính.


1.1.2.1 Khái niệm giới tính
Giới tính chỉ các đặc điểm sinh học của nam và nữ.5 Theo đó có thể hiểu giới tính
là một thuật ngữ chỉ sự khác biệt giữa nam giới và nữ giới xét về mặt sinh học, sự khác
biệt này chủ yếu liên quan đến quá trình tái sản xuất con người, di truyền nòi giống, sự
khác biệt căn bản về hình dáng bên ngoài của cơ thể, sự khác biệt về chức năng sinh
học. Sự khác nhau về chức năng sinh học tạo nên vai trò của giới tính. Ví dụ như: chỉ
phụ nữ mới có khả năng mang thai, sinh con và cho con bú bằng sữa mẹ hoặc nam giới
mới có khả năng xuất tinh trùng cho quá trình thụ thai. Về mặt sinh học nam và nữ
4

Trần Văn Bách, Luận án tiến sĩ ,Sự phát triển chế định quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân qua lịch sử lập
hiến Việt Nam, Viện Nhà nước và pháp luật, 2002, tr.21-22
5

Khoản 2 Điều 5 Luật Bình đẳng giới năm 2006

ạch Hu
ôn
GVHD: ThS Th
Thạ
Huô

6

ạch Th
SVTH: Th
Thạ
Thịị Út Lê



Đề tài: Quy
ng gi
ới trong lĩnh vực gi
áo dục và đà
o tạo ở Vi
Quyềền bình đẳ
đẳng
giớ
giá
đào
Việệt nam
không giống nhau trên nhiều phương diện nhưng chủ yếu nhất là hình dáng, giọng nói
và chức năng sinh sản.
Giới tính có một số đặc trưng cơ bản như:
- Tính bẩm sinh: Về phương diện sinh lý ( hooc môn, nhiễm sắc thể, bộ phận sinh
dục,…) nam giới và nữ giới đã khác nhau ngay từ trong bào thai, được quy định bởi tự
nhiên, không theo và không phụ thuộc vào mong muốn của con người. Nó ổn định về
tương quan giữa hai giới trong quá trình sinh sản. Chức năng sinh sản của nam giới hay
nữ giới là không thay thế, thay đổi hay chuyển dịch cho nhau.
- Tính thống nhất: Nam giới hay nữ giới ở trên khắp thế giới đều có cấu tạo về mặt
sinh lý học giống nhau, đều tham gia và mang các yếu tố đóng góp vào quá trình sinh
sản như nhau.
- Tính không đổi và không thay đổi: về phương diện sinh lý chức năng sinh sản
của nam giới hay nữ giới là không thể thay đổi. Sự khác nhau của giới tính hầu như bất
biến cả về thời gian cũng như không gian.
Ngoài sự khác biệt về mặt sinh học như đã nêu, giữa nam giới và nữ giới còn khác
biệt ở nhiều đặc điểm về mặt xã hội, và những khác biệt này dùng để phân biệt giới.

1.1.2.2 Khái niệm giới

Giới chỉ đặc điểm, vị trí, vai trò của nam và nữ trong tất cả các mối quan hệ xã
hội. Đó là sự khác biệt về mặt xã hội giữa nam giới và nữ giới như vai trò, thái độ,
hành vi ứng xử và các giá trị. Vai trò giới được biết đến thông qua quá trình học tập và
khác nhau theo từng nền văn hóa và thời gian, do vậy giới có thể thay đổi được. Nói về
giới là nói về vai trò, trách nhiệm và quyền lợi mà xã hội quan niệm hay qui định cho
nam giới và nữ giới. Vai trò, trách nhiệm và quyền lợi đó thể hiện trước hết ở sự phân
công lao động, phân chia các nguồn của cải, vật chất, tinh thần, tức là cách đáp ứng nhu
cầu của nam và nữ trong xã hội. Ví dụ như: theo quan niệm và thói quen đã từ lâu đời ở
nhiều nước, nhiều khu vực thì phụ nữ phải làm hầu hết các công việc trong nhà như
chăm sóc con, nấu ăn, phục vụ chồng…Còn nam giới thì có trách nhiệm lao động sản
xuất để nuôi gia đình và làm các công việc xã hội.
6

Giới có một số đặc trưng cơ bản sau:
- Tính do dạy và học mà có: đứa trẻ được dạy dỗ để trở thành nữ giới hay nam
giới theo khuôn mẫu của xã hội. Bắt đầu từ khi sinh ra , đứa trẻ đã được đối xử và dạy
dỗ tùy theo nó là gái hay trai. Đó là sự khác biệt về quần áo, đồ chơi, màu sắc, cách nói
năng, thái độ và cả về thức ăn và tình cảm của cha mẹ, anh chị. Con trai không được
6

Khoản 1 Điều 5 Luật Bình đẳng giới năm 2006

ạch Hu
ôn
GVHD: ThS Th
Thạ
Huô

7


ạch Th
SVTH: Th
Thạ
Thịị Út Lê


Đề tài: Quy
ng gi
ới trong lĩnh vực gi
áo dục và đà
o tạo ở Vi
Quyềền bình đẳ
đẳng
giớ
giá
đào
Việệt nam
khóc, dũng cảm, không chơi búp bê, con gái không được cáu kỉnh, phài dịu dàng, giúp
mẹ cơm nước, nội trợ.
- Tính đa dạng: giới thể hiện đặc trưng của những quan hệ xã hội giữa nữ giới và
nam giới cho nên rất đa dạng. Địa vị nữ giới trong xã hội Việt Nam khác xa địa vị nữ
giới ở các nước hồi giáo, địa vị nữ giới ở nông thôn cũng không hoàn toàn giống địa vị
nữ giới ở thành thị.
- Tính luôn biến đổi: khác với đặc điểm giới tính, quan hệ giới luôn luôn biến đổi
cùng với sự biến đổi của các yếu tố như kinh tế, chính trị, văn hóa, phong tục tập quán.
- Tính có thể thay đổi được: mặt dù rất khó khăn và lâu dài nhưng các quan niệm,
hành vi, chuẩn mực xã hội là hoàn toàn có thể thay đổi được. Quan niệm “bếp núp” là
thiên chức của nữ giới đang được xem xét lại khi có rất nhiều đầu bếp giỏi là nam.
Trong nhiều gia đình khi cả chồng và vợ đều cùng tham gia tích cực vào quá trình sản
xuất cùng tăng thu nhập thì nam giới cũng đang tham gia tích cực vào công việc nội trợ.

Như vậy khi nói giới tính là đặc điểm của con người do tự nhiên quy định. Nó
ổn định, thẩm chí hầu như bất biến đối với cả nam và nữ, xét cả về mặt không gian và
thời gian. Còn nói đến giới là nói đến địa vị xã hội, thái độ và hành vi nó không bất biến
mà thay đổi theo sự thay đổi của hoàn cảnh, điều kiện xã hội, văn hóa.
Trong cuộc sống, nam giới và nữ giới đều tham gia vào mọi hoạt động của đời
sống xã hội, tuy nhiên mức độ tham gia công việc của nam giới và nữ giới trong các
loại công việc là khác nhau do những quan niệm, các chuẩn mực xã hội quy định.
Những công việc mà họ đảm nhận được gọi là vai trò giới.
Vai trò giới là tập hợp các hành vi ứng xử mà xã hội mong đợi ở nam giới và nữ
giới liên quan tới những đặc điểm giới tính và năng lực mà xã hội coi là thuộc về nam
giới hoặc thuộc về nữ giới (trẻ em trai hoặc trẻ em gái) trong một xã hội hoặc một nền
văn hóa cụ thể nào đó.
Vai trò giới được quyết định bởi các yếu tố kinh tế, văn hóa, xã hội. Nam giới và
nữ giới thường có 3 nhóm vai trò giới như sau:

- Vai trò sản xuất: là các hoạt động làm ra sản phẩm, hàng hóa hoặc dịch vụ để
tiêu dùng và trao đổi thương mại. Đây là những hoạt động tạo ra thu nhập được trả công.
Cả nam giới và nữ giới đều có thể tham gia vào các hoạt động sản xuất, tuy nhiên do
những định kiến trong xã hội nên mức độ tham gia của họ không như nhau và giá trị
công việc họ làm cũng không được nhìn nhận như nhau. Xã hội coi trọng và đánh giá
cao vai trò này.

ạch Hu
ôn
GVHD: ThS Th
Thạ
Huô

8


ạch Th
SVTH: Th
Thạ
Thịị Út Lê


Đề tài: Quy
ng gi
ới trong lĩnh vực gi
áo dục và đà
o tạo ở Vi
Quyềền bình đẳ
đẳng
giớ
giá
đào
Việệt nam
- Vai trò tái sản xuất: là các hoạt động chăm sóc, nuôi dưỡng, dạy dỗ,…giúp tái
sản xuất dân số và sức lao động bao gồm sinh con, các công việc chăm sóc gia đình,
nuôi dạy và chăm sóc trẻ con, nấu ăn, dọn dẹp, giặc giũ, chăm sóc sức khỏe gia đình…
Những hoạt động này là thiết yếu đối với cuộc sống con người, đảm bảo sự phát triển
bền vững của dân số và lực lượng lao động, tiêu tốn nhiều thời gian nhưng không tạo ra
thu nhập vì vậy mà ít khi được coi là” công việc thực sự”, được làm miễn phí, không
được các nhà kinh tế đưa vào các con số tính. Xã hội không coi trọng và đánh giá cao
vai trò này. Hầu hết nữ giới đóng vai trò và trách nhiệm chính trong các công việc tái
sản xuất.
- Vai trò cộng đồng: bao gồm một tổ hợp các sự kiện xã hội và dịch vụ. Ví dụ như:
thăm hỏi động viên gia đình bị tai nạn trong thảm họa, thiên tai; huy động cộng đồng
góp lương thực, thực phẩm cứu trợ người bị nạn… Công việc cộng đồng có ý nghĩa
quan trọng trong việc phát triển văn hóa tinh thần của cộng đồng. Có lúc nó đòi hỏi sự

tham gia tình nguyện, tiêu tốn thời gian và không nhìn thấy ngay được. Có lúc nó lại
được trả công và có thể nhìn thấy được ( ví dụ: là thành viên phân phối hàng cứu trợ
sau bão).
Sự hiểu biết sâu sắc về vai trò giới giúp chúng ta thiết kế các hoạt động phù hợp
cho cả nam giới và nữ giới, từ đó thu hút được sự tham gia một cách hiệu quả của họ và
đồng thời góp phần làm giảm sự bất bình đẳng trên cơ sở giới trong việc phân chia lao
động xã hội.
ng gi
ới:
1.1.3 Kh
Kháái ni
niệệm bình đẳ
đẳng
giớ

1.1.3.1 Khái niệm
Bình đẳng giới theo quan niệm xã hội học là sự đối xử ngang quyền giữa nam và
nữ, cũng như giữa các tầng lớp trong xã hội, có xét đến đặc điểm riêng của nữ giới,
được điều chỉnh bởi các chính sách đối với phụ nữ một cách hợp lý. Hay nói cách khác
bình đẳng giới là sự thừa nhận, sự coi trọng ngang nhau đối với các đặc điểm giới tính
và sự thiết lập các cơ hội ngang nhau đối với nam và nữ trong xã hội.
Theo khoản 3 Điều 5 Luật Bình đẳng giới: “Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị
trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự
phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự
phát triển đó”.
Bình đẳng giới thể hiện ở nhiều mặt:
- Nữ và nam có điều kiện ngang nhau để phát huy hết khả năng và thực hiện các
mong muốn của mình.

ạch Hu

ôn
GVHD: ThS Th
Thạ
Huô

9

ạch Th
SVTH: Th
Thạ
Thịị Út Lê


Đề tài: Quy
ng gi
ới trong lĩnh vực gi
áo dục và đà
o tạo ở Vi
Quyềền bình đẳ
đẳng
giớ
giá
đào
Việệt nam
- Nữ và nam có cơ hội ngang nhau để tham gia, đóng góp và thụ hưởng các nguồn
lực của xã hội trong quá trình phát triển.
- Nữ và nam có các quyền lợi ngang nhau trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Như vậy, bình đẳng giới không chỉ đơn giản là số lượng của phụ nữ và nam giới,
hay trẻ em trai và trẻ em gái tham gia trong tất cả các hoạt động là như nhau, cũng
không có nghĩa là nam giới và phụ nữ giống nhau, mà bình đẳng giới có nghĩa là nam

giới và phụ nữ được công nhận và hưởng các vị thế ngang nhau trong xã hội, đồng thời
sự tương đồng và khác biệt giữa nam và nữ được công nhận. Từ đó nam và nữ có thể
trải nghiệm những điều kiện bình đẳng để phát huy đầy đủ các tiềm năng của họ, có cơ
hội để tham gia, đóng góp và hưởng lợi bình đẳng từ công việc phát triển của quốc gia
trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội.
Bình đẳng giới là vấn đề cơ bản về quyền con người vừa là yêu cầu về sự phát
triển công bằng, hiệu quả và bền vững.
Để biết mức độ bình đẳng giới trong quá trình phát triển, Liên hợp quốc sử dụng
một thước đo là “Chỉ số phát triển giới” (Gender Development Index – GDI). GDI được
sử dụng lần đầu tiên tại báo cáo phát triển người năm 1995.
Chỉ số phát triển giới (GDI) là số liệu tổng hợp phản ánh thực trạng bình đẳng
giới, được tính trên cơ sở tuổi thọ trung bình, trình độ giáo dục và thu nhập bình quân
đầu người của nam và nữ (Khoản 9 Điều 5 Luật Bình đẳng giới).
Chỉ số phát triển giới càng tiến tới bằng 1 thì càng bình đẳng, và càng lùi về 0 thì
càng bất bình đẳng. Năm 1995, Việt Nam có GDI = 0.537 xếp vị trí thứ 7/10 nước
trong khu vực và xếp thứ 72/130 nước trên thế giới. Năm 2009, Việt Nam có GDI =
0.73 xếp thứ 5/8 nước trong khu vực và xếp thứ 94/182 nước trên thế giới.7
Mặt trái của bình đẳng giới là “định kiến giới” là nhận thức, thái độ và đánh giá
thiên lệch, tiêu cực về các đặc điểm, vị trí, vai trò và năng lực của nam hoặc nữ.8 Do
định kiến dẫn đến sự phân biệt đối xử với phụ nữ, cũng như sự phân biệt đối xử về giới.
Muốn đạt được bình đẳng giới thì một trong những điều kiện quan trọng là nam và nữ
được bình đẳng với nhau trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó bình
đẳng trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo giữ vị trí rất quan trọng.

7

Bình đẳng giới qua số liệu thống kê, />8
Khoản 4 Điều 5 Luật Bình đẳng giới năm 2006

ạch Hu

ôn
GVHD: ThS Th
Thạ
Huô

10

ạch Th
SVTH: Th
Thạ
Thịị Út Lê


Đề tài: Quy
ng gi
ới trong lĩnh vực gi
áo dục và đà
o tạo ở Vi
Quyềền bình đẳ
đẳng
giớ
giá
đào
Việệt nam
1.1.3.2 Đặc điểm bình đẳng giới
Bình đẳng giới thể hiện vị trí, vai trò của nam nữ ngang nhau trong các quan hệ xã
hội, do đó bình đẳng giới có các đặc điểm sau:
-Tính ngang quyền: để đạt được bình đẳng giới, phụ nữ cần được tạo điều kiện và
cơ hội ngang bằng nam giới trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Ví dụ, cần có quy
định như nhau, chung cho phụ nữ và nam giới về hưởng thụ các quyền và gánh vác các

nghĩa vụ. Đây là các quy định bình đẳng mang tính tối thiểu, không thể thiếu để đảm
bảo về mặt pháp lý quyền bình đẳng nam nữ (công dân nam và nữ đều có quyền bầu cử,
ứng cử; có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật; có quyền tự do kết hôn
và tự do ly hôn…).
- Tính ưu đãi: do đặc điểm sinh học của phụ nữ khác biệt so với nam giới, để đạt
được bình đẳng giới cần có sự đối xử ưu đãi, khuyến khích đặc biệt và hợp lý đối với
phụ nữ. Ví dụ, phụ nữ phải đảm bảo chức năng sinh đẻ và nuôi con nhỏ, vì vậy pháp
luật quy định khi nữ lao động nghĩ thai sản họ vẫn được hưởng nguyên lương đồng thời
được trợ cấp thai sản.
- Tính linh hoạt: sự đối xử ưu đãi với phụ nữ cần được điều chỉnh linh hoạt trong
từng hoàn cảnh lịch sử cụ thể, không mang tính bất biến. Ví dụ, do đặc điểm sinh học
của phụ nữ nên phụ nữ thường có thể chất yếu hơn và sức chịu đựng kém hơn so với
nam giới, vì vậy pháp luật các nước đều có quy định cấm tuyển dụng nữ lao động trong
các ngành nghề, lĩnh vực nguy hiểm, nặng nhọc. Tuy nhiên khi khoa học kỹ thuật phát
triển, điều kiện lao động được cải thiện, cần có sự điều chỉnh cho phù hợp nhằm loại bỏ
quy định cấm này đối với các nghành nghề, lĩnh vực đã được cải thiện điều kiện lao
động, để tạo cơ hội cho phụ nữ.
- Tính phân loại: bình đẳng giới không chỉ được xem xét vị thế của phụ nữ và nam
giới trong xã hội mà còn được xem xét giữa các tầng lớp phụ nữ thuộc các thành phần
xã hội khác nhau, trong phạm vi quốc gia và trên thế giới. Ví dụ, quy định tăng độ tuổi
nghĩ hưu đối với phụ nữ, thì mặt bằng chung này có thể có lợi cho nữ giới lao động
trong hoạt động nghiên cứu khoa học, giảng dạy… nhưng lại bất lợi đối với nữ giới lao
động đối với nữ giới lao động ở khu vực nặng nhọc, phụ nữ nông thôn. Như vậy, quy
định trên chỉ đem lại mặt bằng ưu tiên hạn hẹp, dẫn đến dãn khoảng cách đối xử là tạo
ra phân biệt đối xử trong nữ giới nói chung.

ạch Hu
ôn
GVHD: ThS Th
Thạ

Huô

11

ạch Th
SVTH: Th
Thạ
Thịị Út Lê


Đề tài: Quy
ng gi
ới trong lĩnh vực gi
áo dục và đà
o tạo ở Vi
Quyềền bình đẳ
đẳng
giớ
giá
đào
Việệt nam
m bảo bình đẳ
ng gi
ới:
1.2 Mục ti
tiêêu và nguy
nguyêên tắc đả
đảm
đẳng
giớ

ng gi
ới
1.2.1 Mục ti
tiêêu bình đẳ
đẳng
giớ
Bình đẳng giới là mục tiêu của đa số quốc gia. Dựa trên điều kiện và hoàn cảnh
thực tế về kinh tế, chính trị và văn hóa-xã hội, mỗi quốc gia có đường đi riêng và mục
tiêu bình đẳng giới cũng được xác định phù hợp trong từng giai đoạn phát triển của đất
nước. Mục tiêu bình đẳng giới của Việt Nam là “xóa bỏ phân biệt đối xử về giới, tạo cơ
hội như nhau cho nam và nữ trong phát triển kinh tế-xã hội và phát triển nguồn nhân
lực, tiến tới bình đẳng giới thực chất giữa nam, nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội và gia đình”.8
Mục tiêu này chỉ có thể thực hiện hiệu quả khi các cơ quan, tổ chức, gia đình và
từng cá nhân hiểu đúng, hiểu đủ, hiểu toàn diện những khía cạnh liên quan đến giới và
bình đẳng giới và thực hiện tốt các trách nhiệm đã được quy định trong các văn bản quy
phạm pháp luật (Luật Bình đẳng giới, Nghị định số 70/2008/NĐ-CP ngày 4/6/2008 của
Chính Phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Bình đẳng giới và Nghị định
số 48/2009/NĐ-CP ngày 19/5/2009 của Chính Phủ quy định về các biện pháp bảo đảm
bình đẳng giới).
Để thực hiện có hiệu quả mục tiêu bình đẳng giới theo Điều 4 Luật Bình đẳng giới,
nhất thiết cần hiểu đúng về các khía cạnh sau:9

Thứ nhất, cần hiểu đúng về xóa bỏ phân biệt đối xử về giới
Phân biệt đối xử về giới là việc hạn chế, loại trừ, không công nhận hoặc không coi
trọng vai trò, vị trí của nam và nữ, gây bất bình đẳng giữa nam và nữ trong các lĩnh vực
của đời sống xã hội và gia đình.10
Theo quy phạm giải thích này, xóa bỏ phân biệt đối xử về giới là xóa bỏ việc hạn
chế, loại trừ, không công nhận hoặc không coi trọng vai trò, vị trí của nam và nữ không
chỉ bao gồm những hành vi biểu lộ ra bên ngoài một cách rõ ràng mà còn cả những

hành vi ở dạng tiềm ẩn, khó phát hiện có tính chất nhằm loại trừ hay hạn chế các quyền
con người và quyền công dân trên cơ sở giới tính. Đồng thời cũng không chỉ những
hành vi có tác động rõ ràng mà còn cả những hành vi tiềm ẩn mục đích làm tổn hại
hoặc vô hiệu hóa các quyền con người và quyền công dân của nam, nữ. Do đó, việc
lồng ghép giới trong xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật cần quan tâm một cách
thích đáng.

9

Dương Thị Xuân, Vai trò,trách nhiệm của Hội Liện hiệp phụ nữ Việt Nam trong việc thực hiện mục tiêu bình
đẳng giới
10
Khoản 5 Điều 5 Luật Bình đẳng giới năm 2006

ạch Hu
ôn
GVHD: ThS Th
Thạ
Huô

12

ạch Th
SVTH: Th
Thạ
Thịị Út Lê


Đề tài: Quy
ng gi

ới trong lĩnh vực gi
áo dục và đà
o tạo ở Vi
Quyềền bình đẳ
đẳng
giớ
giá
đào
Việệt nam
Phân biệt đối xử về giới chỉ có thề được xóa bỏ khi cơ quan, tổ chức, gia đình và
cá nhân hiểu sâu sắc những khía cạnh liên quan đến giới, giới tính để không máy móc
dập khuôn theo định kiến trong việc nhìn nhận về sự tham gia, đóng góp và thụ hưởng
thành quả từ sự tham gia, đóng góp của nam, nữ trong các môi trường hiện tại và hướng
tới việc tìm ra các khía cạnh kỹ thuật tốt nhất bảo đảm bình đẳng giới ở các môi trường
đó trong tương lai.

Thứ hai, cần hiểu đúng về tạo cơ hội như nhau cho nam và nữ
Là con người, là công dân, phụ nữ và nam giới có các quyền và nghĩa vụ ngang
nhau về mọi mặt trong gia đình và xã hội. Do vậy, để bảo đảm sự công bằng và bình
đẳng, cả phụ nữ và nam giới cũng phải được tạo cơ hội như nhau trong tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội và gia đình theo nguyên tắc cứng là cùng quyền, cùng nghĩa vụ,
cùng trách nhiệm, nhưng linh hoạt (có điều kiện hoặc mặc nhiên) để bảo đảm tương
thích với những đặc điểm khác nhau thực tế của phụ nữ và nam giới về giới tính và điều
chỉnh vai trò giới hiện tại mà nam, nữ thực tế đang làm theo hướng có lợi cho mục tiêu
bình đẳng giới.

Thứ ba, cần hiểu đúng về bình đẳng giới thực chất
Bình đẳng giới thực chất là bình đẳng về cả phương thức đối xử (trên văn bản,
quan điểm, chủ trương, đường lối) và kết quả thực tế của phương thức đối xử đó. Điều
này có nghĩa là muốn có bình đẳng giới thực chất thì cần phải bảo đảm cho nam giới và

phụ nữ ở cả ba mức độ: cơ hội tham gia (trong văn bản); thực tế tham gia (tiếp cận
nguồn lực, đóng góp) và lợi ích của sự tham gia (hưởng lợi từ các thành quả lao động
trên thực tế).

Thứ tư, cần hiểu đúng về thiết lập, củng cố quan hệ hợp tác, hỗ trợ giữa nam nữ
Do khác biệt về giới tính nên phụ nữ cần giành nhiều thời gian cho việc thực hiện
thiên chức làm mẹ, trong bối cảnh không nhận thức đúng về giới và bình đẳng giới đã
kéo theo hệ quả bất lợi về nhiều mặt cho phụ nữ cả trong gia đình và xã hội. Vì vậy để
thực hiện được mục tiêu bình đẳng giới, cần thiết phải hiểu đúng việc thiết lập, củng cố
quan hệ hợp tác hỗ trợ giữa nam, nữ theo hướng chia sẻ cả quyền và trách nhiệm trong
gia đình và xã hội.
Phụ nữ và nam giới cùng chia sẻ và hợp tác trong các vai trò: sản xuất, tái sản xuất,
cộng đồng và chính trị. Trong đó đặc biệt quan trọng là sự chia sẻ vai trò tái sản xuất
bao gồm việc chăm sóc, giáo dục con cái, làm các công việc nhà, chăm sóc các thành
viên trong gia đình để tạo cơ hội và điều kiện cho nam, nữ phát triển toàn diện về mọi
mặt, không đem hết mọi việc liên quan đến gia đình và đứa trẻ cho riêng người phụ nữ.
Sự chia sẻ này có ý nghĩa quan trọng để gánh nặng không dồn lên một người và làm

ạch Hu
ôn
GVHD: ThS Th
Thạ
Huô

13

ạch Th
SVTH: Th
Thạ
Thịị Út Lê



Đề tài: Quy
ng gi
ới trong lĩnh vực gi
áo dục và đà
o tạo ở Vi
Quyềền bình đẳ
đẳng
giớ
giá
đào
Việệt nam
ảnh hưởng đến những khía cạnh khác của họ khi thực hiện quyền con người, quyền
công dân và đóng góp cho sự phát triển của đất nước.
1.2.2 Nguy
m bảo bình đẳ
ng gi
ới
Nguyêên tắc cơ bản đả
đảm
đẳng
giớ
Nguyên tắc của bình đẳng giới là những nguyên lý, tư tưởng chỉ đạo quán triệt
toàn bộ hệ thống các quy phạm pháp luật bình đẳng giới. Tại Điều 6 Luật bình đẳng
giới quy định các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới:
- Nam nữ bình đẳng trong lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình
- Nam, nữ không bị phân biệt đối xử về giới
- Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới không bị coi là phân biệt đối xử về giới
- Chính sách bảo vệ và hỗ trợ người mẹ không bị coi là phân biệt đối xử về giới

- Bảo đảm lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng và thực thi pháp luật
- Thực hiện bình đẳng giới là trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân
Nội dung của các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới thể hiện qua quan điểm
pháp luật của Đảng của Nhà nước ta đối với nhiệm vụ và chức năng của các thành viên
trong xã hội, các cơ quan hữu quan trong việc thực hiện bình đẳng giới, là thước đo của
xã hội văn minh. Các quy phạm pháp luật bình đẳng giới thể hiện đúng nội dung của
các nguyên tắc đó.

1.2.2.1 Nguyên tắc nam nữ bình đẳng trong lĩnh vực của đời sống xã hội và gia
đình
Trong xã hội loài người một trong những sự bất bình đẳng đầu tiên đó là sự bất
bình đẳng nam nữ. Nếu trong thời kỳ cộng sản nguyên thủy công việc tề gia nội trợ của
người phụ nữ được coi là công việc xã hội và do vậy người đàn bà được bình đẳng với
người đàn ông, đến thời kỳ tiếp theo đó lại hoàn toàn khác hẳn. Với sự xuất hiện của cải
dư thừa, chế độ tư hữu xuất hiện, và xuất hiện gia đình cá thể trong đó người đàn ông
trở thành ông chủ, người đàn bà là nô lệ là tài sản cho người đàn ông. Công việc tề gia
nội trợ không còn là công việc xã hội nữa. Nó chỉ hạn chế trong từng gia đình, phục vụ
cho người chồng, cho sự thống trị, cho việc duy trì chế độ tư hữu-nguồn gốc của sự bất
công, bất bình đẳng trong gia đình và xã hội.
Khi xã hội loài người chuyển sang các hình thái tiến bộ hơn như chế độ phong
kiến, rồi chế độ tư bản chủ nghĩa, vẫn còn bất bình đẳng nam nữ trên thực tế với nhiều
lý do, trong đó có định kiến xã hội và trọng nam khinh nữ.
Ở Việt Nam, mục tiêu bình đẳng nam nữ đã được đưa ra từ Chánh cương vắn tắc
của Đảng và Bác Hồ từ năm 1930, được nêu trong các văn kiện đại hội Đảng, được thể

ạch Hu
ôn
GVHD: ThS Th
Thạ
Huô


14

ạch Th
SVTH: Th
Thạ
Thịị Út Lê


Đề tài: Quy
ng gi
ới trong lĩnh vực gi
áo dục và đà
o tạo ở Vi
Quyềền bình đẳ
đẳng
giớ
giá
đào
Việệt nam
chế hóa trong các bản Hiến Pháp và nhiều văn bản pháp luật khác như Luật Hôn nhân
và Gia đình, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Lao động…
Hiến pháp năm 1946, bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta quy định tại Điều 1
“Nhà nước Việt Nam là một nhà nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước
là của toàn thể nhân dân Việt Nam không phân biệt giống nòi, giàu nghèo, gái trai, giai
cấp, tôn giáo”. Và tại Điều 9 “ Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện”.
Quy định về bình đẳng nam nữ được thừa kế trong các bản Hiếp pháp
1959,1980,1992, 2013. Theo điều 26 Hiếp pháp 2013 “Công dân nam, nữ bình đẳng về
mọi mặt”. Còn trong gia đình “vợ chồng bình đẳng”.11
Khoản 1 Điều 6 Luật Bình đẳng giới quy định nguyên tắc nam, nữ bình đẳng

trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đồng thời tại các Điều 11 đến Điều 18 luật đã
quy định cụ thể các lĩnh vực bình đẳng nam nữ như lĩnh vực chính trị, kinh tế, lao động,
giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa thể dục thể thao, y tế và trong gia
đình.
Bình đẳng nam nữ có nghĩa là quyền và nghĩa vụ của nam và nữ được quy định
như nhau trên pháp luật trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, cũng như trong
gia đình. Tuy nhiên từ bình đẳng trước pháp luật đến bình đẳng trên thực tế đời sống
còn cả một đoạn đường dài. Sự bình đẳng phải được ghi nhận và từng bước được củng
cố với sự phát triển của xã hội, tạo cơ sở kinh tế, văn hóa, xã hội cho việc thực hiện
bình đẳng hoàn toàn giữa nam và nữ, giữa vợ và chồng.

1.2.2.2 Nguyên tắc nam nữ không bị phân biệt đối xử về giới
Nguyên tắc nam nữ không bị phân biệt đối xử về giới được quy định tại Khoản 2
Điều 6 Luật Bình đẳng giới. Nguyên tắc này có nội dung không trùng với nguyên tắc
nam nữ bình đẳng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và trong gia đình.
Việc quy định nam nữ hưởng quyền và gánh vác trách nhiệm ngang nhau trong
pháp luật là nhằm bảo vệ và thực hiện bình đẳng nam nữ trên thực tế đời sống. nhưng
điều đó không có nghĩa là tất cả các hành vi tạo nên sự bất bình đẳng nam nữ đều được
loại trừ. Chính vì vậy cần đưa ra nguyên tắc nam nữ không bị phân biệt đối xử về giới
và những quy phạm cụ thể khác quy định về cơ chế thực thi và thúc đẩy bình đẳng giới
trên thực tế…
Vì đặc điểm giới tính của phụ nữ nêu trên thực tế phụ nữ thường là bên yếu thế
trong quan hệ giới, và từ đó họ thường phải chịu thiệt thòi hơn so với nam giới. Và các
hành vi phân biệt đối xử thường chống lại phụ nữ hơn là nam giới. Do đó CEDAW
11

Điều 36 Hiến pháp năm 2013

ạch Hu
ôn

GVHD: ThS Th
Thạ
Huô

15

ạch Th
SVTH: Th
Thạ
Thịị Út Lê


Đề tài: Quy
ng gi
ới trong lĩnh vực gi
áo dục và đà
o tạo ở Vi
Quyềền bình đẳ
đẳng
giớ
giá
đào
Việệt nam
(Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ) tại Điều 1 định nghĩa
“đối xử phân biệt đối với phụ nữ là bất kỳ sự phân biệt, loại trừ hay hạn chế nào dựa
trên cơ sở giới tính có tác dụng hoặc nhằm mục đích làm tổn hại hoặc vô hiệu hóa việc
phụ nữ được công nhận, hưởng thụ hay thực hiện một cách bình đẳng các quyền con
người và những quyền tự do cơ bản trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,
dân sự và các lĩnh vực khác, bất kể tình trạng hôn nhân của họ và trên cơ sở bình đẳng
với nam giới.”

Phân biệt đối xử về giới là sự hạn chế, loại trừ, không công nhận hoặc không coi
trọng vai trò, vị trí của nam và nữ, gây bất bình đẳng giữa nam và nữ trong các lĩnh vực
của đời sống xã hội và gia đình.12 Như vậy khái niệm trên thể hiện cách tiếp cận trung
tính đối với bình đẳng giới, thay vì có một định nghĩa cụ thể về các hành vi phân biệt
đối xử chống lại phụ nữ.
Luật Bình đẳng giới thể hiện rõ nguyên tắc nam nữ không bị phân biệt đối xử về
giới trong nhiều quy định khác, như Điều 10 quy định các hành vi bị nghiêm cấm, Điều
40 quy định các hành vi thể hiện sự phân biệt đối xử về giới trong các lĩnh vực chính trị,
kinh tế, lao động, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa thông tin, thể
thao, y tế. Điều 41 quy định các hành vi thể hiện sự phân biệt đối xử về giới trong gia
đình.

1.2.2.3 Nguyên tắc biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới không bị coi là phân
biệt đối xử về giới
Bình đẳng giới là việc nam nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện, cơ
hội ngang nhau để phát huy năng lực của bản thân và bình đẳng trong việc hưởng thụ.
Tuy nhiên bình đẳng giới không tự nhiên mà có. Pháp luật cần quy định bình đẳng nam
nữ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, bình đẳng trong hưởng quyền và gánh vác
nghĩa vụ, bình đẳng trong các nghĩa vụ, bình đẳng trong các điều kiện và cơ hội cống
hiến. Nhưng trên thực tế, việc xây dựng bình đẳng giới xuất phát từ hiện thực không
bình đẳng, và từ bình đẳng trên pháp luật đến bình đẳng trên thực tế là một chặn đường
khá xa. Ví dụ, ở Việt nam vẫn tồn tại tư tưởng trọng nam khinh nữ trong nhận thức của
cả nam giới và phụ nữ, về hoạt động kinh tế và thu nhập, nữ có thu nhập cao chiếm tỉ
lệ thấp hơn nam; trong gia đình công việc vẫn tập trung chủ yếu vào người phụ nữ, và
công việc gia đình ít được coi trọng, con trai được coi trọng hơn con gái; về mặt chính
trị, tỉ lệ quản lý nữ tham gia các hoạt động này còn thấp; về giáo dục và khoa học, tỉ lệ
nữ có trình độ cao còn khiêm tốn; trong chính sách pháp luật một số quy định còn có sự
phân biệt như tuổi đề bạt thăng tiến, tuổi đào tạo để đào tạo nguồn cán bộ chính trị. Vì
12


Khoản 5 Điều 5 Luật Bình đẳng giới năm 2006

ạch Hu
ôn
GVHD: ThS Th
Thạ
Huô

16

ạch Th
SVTH: Th
Thạ
Thịị Út Lê


Đề tài: Quy
ng gi
ới trong lĩnh vực gi
áo dục và đà
o tạo ở Vi
Quyềền bình đẳ
đẳng
giớ
giá
đào
Việệt nam
vậy cần áp dụng các biện pháp thúc đẩy để nhanh chống tiến tới bình đẳng giới một
cách thực sự.
Khoản 1 Điều 4 Công ước CEDAW đã quy định các biện pháp đặc biệt tạm thời

nhằm thúc đẩy bình đẳng giới “việc các nước tham gia Công ước chấp nhận các biện
pháp đăc biệt tạm thời nhằm thúc đẩy trong thực tế quyền bình đẳng giữa nam và nữ
không bị coi là phân biệt đối xử, nhưng sẽ không được bằng bất cứ cách nào buộc phải
coi đó như một kết quả của việc duy trì các tiêu chuẩn bất bình đẳng hoặc tiêu chuẩn
riêng biệt”.
Như vậy, theo CEDAW, các biện pháp đặc biệt tạm thời có thể áp dụng các tiêu
chuẩn bất bình đẳng hoặc tiêu chuẩn riêng biệt cho nam hoặc nữ, để thúc đẩy bình đẳng
giới trên thực tế. Vì thế các biện pháp này có hạn định về thời gian và điều kiện áp dụng
nhất định, kèm theo tuyên bố hết hiệu lực khi các điều kiện không tồn tại và thời gian
tạm thời đã hết. Trong trường hợp này, không bị coi là phân biệt đối xử. Hỗ trợ phụ nữ
như đối với nhóm yếu thế để hạn chế bất lợi của giới này nhằm thúc đẩy nhanh bình
đẳng giới.
Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới là biện pháp nhằm bảo đảm bình đẳng giới
thực chất, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành trong trường hợp có sự chênh
lệch về vị trí, vai trò, điều kiện cơ hội phát huy năng lực và thụ hưởng sự thành công
của sự phát triển mà việc áp dụng các quy định như nhau giữa nam và nữ không làm
giảm được sự chênh lệch này. Biện pháp thúc đẩy bình dẳng giới được thực hiện trong
một thời gian nhất định và chấm dứt khi mục tiêu bình đẳng giới đã đạt được.13
Như vậy, theo quy định trên, trong một số trường hợp nhằm bảo đảm bình đẳng
giới thực chất, cơ quan có thẩm quyền có thể đưa ra các quy định trong đó điều kiện
được áp dụng cho nam và nữ khác nhau, nhằm hạn chế điểm xuất phát khác nhau của
nam và nữ. Nhiều điều khoản trong Luật Bình đẳng giới cụ thể vấn đề trên, như trong
lĩnh vực chính trị, bảo đảm tỉ lệ thích đáng nữ đại biểu quốc hội, đại biểu hội đồng nhân
dân, bảo đảm tỉ lệ nữ thích đáng trong bổ nhiệm các chức danh trong cơ quan nhà nước
(Điều 11)14; trong lĩnh vực kinh tế doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ được ưu đãi
thuế và tài chính, lao động nữ khu vực nông thôn được hỗ trợ tín dụng, khuyến nông,
khuyến lâm, khuyến ngư (Điều 12)15; trong lĩnh vực lao động, đào tạo, bồi dưỡng nâng
13

Khoản 6 Điều 5 Luật Bình đẳng giới năm 2006

Điều 11, khoản 5. Các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị bao gồm:
a) Bảo đảm tỷ lệ thích đáng nữ đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân phù hợp với mục tiêu quốc gia về
bình đẳng giới;
b) Bảo đảm tỷ lệ nữ thích đáng trong bổ nhiệm các chức danh trong cơ quan nhà nước phù hợp với mục tiêu quốc
gia về bình đẳng giới.
15
Điều 12, khoản 2. Các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế bao gồm:
a) Doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ được ưu đãi về thuế và tài chính theo quy định của pháp luật;
14

ạch Hu
ôn
GVHD: ThS Th
Thạ
Huô

17

ạch Th
SVTH: Th
Thạ
Thịị Út Lê


Đề tài: Quy
ng gi
ới trong lĩnh vực gi
áo dục và đà
o tạo ở Vi
Quyềền bình đẳ

đẳng
giớ
giá
đào
Việệt nam
cao năng lực cho lao động nữ (Điều 13)16…

1.2.2.4 Nguyên tắc chính sách bảo vệ, hỗ trợ người mẹ không bị coi là phân
biệt đối xử về giới
Phụ nữ có đặc điểm sinh học riêng, và giới tính của phụ nữ tạo cho họ vai trò làm
mẹ, một thiên chức quan trọng nhằm tái sản xuất con người. Phụ nữ phải dành phần
không nhỏ cuộc sống của mình để thực hiện vai trò của người mẹ (nghĩ thai sản, nuôi
con nhỏ, chăm sóc con cái…) do đó so với nam giới họ không có nhiều cơ hội và điều
kiện để tham gia các hoạt động khác của đời sống xã hội. Vì vậy, để phụ nữ có thể bình
đẳng với nam giới về mọi mặt của đời sống xã hội, cần có các biện pháp đặc biệt ưu đãi
dành riêng cho phụ nữ trong các trường hợp cụ thể khi phụ nữ đóng vai trò làm mẹ.
Theo Khoản 2 Điều 4 CEDAW, việc của nước tham gia công ước chấp nhận các
biện pháp đã có trong công ước nhằm bảo vệ quyền làm mẹ không bị coi là phân biệt
đối xử. Đồng thời tại Điều 11 của Công ước đã quy định về ngăn cấm việc phạt, thải
hồi phụ nữ vì có mang hoặc nghĩ đẻ và phân biệt đối xử trong trường hợp sa thải dựa
vào tình trạng hôn nhân; về việc quy định chế độ cho phụ nữ nghĩ đẻ được trả lương
hoặc các phúc lợi tương ứng; về khuyến khích các dịch vụ xã hội có tác dụng phụ trợ
cần thiết để tạo điều kiện cho cha mẹ kết hợp được nghĩa vụ gia đình với trách nhiệm
lao động và tham gia vào đời sống cộng đồng; về cung cấp sự bảo hộ đặc biệt khi phụ
nữ có mang trong công việc tỏ ra có hại đối với họ.
Khoản 4 Điều 6 Luật Bình đẳng giới đã cụ thể hóa các quy định trên của Công
ước CEDAW và đưa thành một nguyên tắc: chính sách bảo trợ và hỗ trợ người mẹ
không bị coi là phân biệt đối xử về giới. Điều 7 Luật Bình đẳng giới quy định “bảo vệ,
hỗ trợ người mẹ khi mang thai, sinh con và nuôi con nhỏ, tạo điều kiện để nam nữ chia
sẻ công việc gia đình. Theo Điều 14 “Nữ cán bộ, công chức viên chức khi tham gia đào

tạo, bồi dưỡng mang theo con nhỏ dưới 36 tháng tuổi được hỗ trợ theo quy định của
pháp luật”, Điều 17 “phụ nữ nghèo cư trú ở vùng sâu vùng xa, là dân tộc thiểu số, trừ
các trường hợp tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, khi sinh con đúng chính sách dân số
được hỗ trợ theo quy định của chính phủ”.

b) Lao động nữ khu vực nông thôn được hỗ trợ tín dụng, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư theo quy định
của pháp luật.
16
Điều 13, khoản 3. Các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động bao gồm:
a) Quy định tỷ lệ nam, nữ được tuyển dụng lao động;
b) Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho lao động nữ;
c) Người sử dụng lao động tạo điều kiện vệ sinh an toàn lao động cho lao động nữ làm việc trong một số ngành,
nghề nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại.

ạch Hu
ôn
GVHD: ThS Th
Thạ
Huô

18

ạch Th
SVTH: Th
Thạ
Thịị Út Lê


Đề tài: Quy
ng gi

ới trong lĩnh vực gi
áo dục và đà
o tạo ở Vi
Quyềền bình đẳ
đẳng
giớ
giá
đào
Việệt nam
1.2.2.5 Nguyên tắc bảo đảm lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng và
thực thi pháp luật
Trong xã hội hiện đại, pháp luật là công cụ điều chỉnh hành vi của con người một
cách hiệu quả nhất. Việc xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn thiện với các quy phạm
pháp luật bảo đảm bình đẳng giới và việc thi hành nghiêm chỉnh hệ thống pháp luật đó
là điều kiện cơ bản và tiên quyết để đạt đến bình đẳng giới thực chất.
Là Công ước duy nhất hiện nay xác lập các điều luật quốc tế về quyền phụ nữ và
trách nhiệm của các quốc gia trong việc xây dựng và thực hiện các chương trình, kế
hoạch hành động phù hợp để đạt được sự bình đẳng thực chất giữa nam và nữ, Công
ước CEDAW đã quy định tại Điều 3 “chuyển hóa những nội dung cơ bản của công ước
vào hệ thống pháp luật quốc gia”. Đây là trách nhiệm của các quốc gia thành viên. Cụ
thể hóa Công ước CEDAW về vấn đề này không trái với pháp luật Việt Nam, Khoản 5
Điều 6 Luật Bình đẳng giới quy định nguyên tắc bảo đảm lồng ghép vấn đề bình đẳng
giới trong xây dựng và thực thi pháp luật.
Lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng và thực thi pháp luật tức là đưa
vấn đề giới, mục tiêu giới và các quá trình nhằm thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi
hoạt động của các nhóm xã hội vào họat động xây dựng pháp luật và thực thi pháp luật.
Nhà nước là chủ thể hoạch định chính sách, tiến hành quá trình lập pháp, lập quy.
Các cơ quan có thẩm quyền ban hành pháp luật của nhà nước cần có quan điểm bình
đẳng giới trong khi xem xét những bất lợi về giới có thể xảy ra khi ban hành các quy
định pháp luật. Trong quá trình áp dụng luật cần có quy định rõ cơ chế giám sát, kiểm

tra, thanh tra, đối với việc thực hiện bình đẳng giới.
Để cụ thể hóa nguyên tắc này, Điều 21 Luật bình đẳng giới quy định về biện pháp
lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, Điều 22
về thẩm tra lồng ghép vấn đề giới, các quy định từ Điều 35 đến Điều 42 về thanh tra,
giám sát, xử lý quy phạm pháp luật về bình đẳng giới.

1.2.2.6 Nguyên tắc thực hiện bình đẳng giới là trách nhiệm của cơ quan, tổ
chức, gia đình, cá nhân
Thực hiện bình đẳng giới là vấn đề quan trọng. Đây không chỉ là trách nhiệm của
nhà nước mà còn là trách nhiệm của các tổ chức, gia đình và cá nhân. Các tư tưởng định
kiến giới như trọng nam khinh nữ, coi việc nội trợ là việc của phụ nữ… đã ăn sâu vào
tư duy của con người, cả nam giới và phụ nữ, là quan niệm xã hội. Muốn thay đổi định
kiến giới, không chỉ có vai trò của nhà nước trong hoạch định chính sách, xây dựng
pháp luật, mà các cơ quan, tổ chức, cá nhân phải tiến hành tuân thủ các quy định của
pháp luật về vấn dề bình đẳng giới, đồng thời tích cực vận động, tuyên truyền bình đẳng

ạch Hu
ôn
GVHD: ThS Th
Thạ
Huô

19

ạch Th
SVTH: Th
Thạ
Thịị Út Lê



Đề tài: Quy
ng gi
ới trong lĩnh vực gi
áo dục và đà
o tạo ở Vi
Quyềền bình đẳ
đẳng
giớ
giá
đào
Việệt nam
giới nhằm đạt đến sự thay đổi về bề rộng và bề sâu các tư tưởng, quan niệm bất bình
đẳng nam nữ. Chương IV luật bình đẳng giới đã quy định cụ thể trách nhiệm của cơ
quan, tổ chức, gia đình và cá nhân trong việc thực hiện và bảo đảm bình đẳng giới (từ
Điều 25 đến Điều 34).
át tri
ng gi
ới
1.3 Lịch sử hình th
thàành và ph
phá
triểển quy
quyềền bình đẳ
đẳng
giớ
1.3.1 Giai đoạn 1945-1954
Ở Việt Nam, mục tiêu bình đẳng nam, nữ (nam nữ bình quyền) đã được đưa ra từ
“Chánh cương vắn tắt” của Đảng và Bác Hồ từ năm 1930. Năm 1945, ngay sau khi
nước nhà giành được độc lập, chương trình bình đẳng nam, nữ đã được đưa vào luật
pháp, chính sách, chương trình hoạt động của Nhà nước một cách có hệ thống.

Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946 đã thể hiện rõ
cam kết của Đảng và Nhà nước đối với bình đẳng nam nữ. Điều 1 Hiến pháp năm 1946
khẳng định “nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bính trong
nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt giống nòi, trai gái, giàu
nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, pháp luật quy định phụ
nữ được hưởng các quyền ngang với nam giới: “Tất cả công dân Việt Nam đều ngang
quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hóa” (Điều 6 Hiến pháp năm 1946)
và “đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện” (Điều 9 Hiến pháp năm
1946).
Trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình, Nhà nước Việt Nam non trẻ đã ban
hành Sắc lệnh đầu tiên điều chỉnh các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, đó là sắc
lệnh số 97/SL ngày 22/5/1950 về sữa đổi một số quy lệ và chế định trong dân luật. Và
Sắc lệnh 159/SL ngày 17/11/1950 quy định về vấn đề ly hôn. Trong Sắc lệnh số ngày
22/5/1950, vấn đề bình đẳng nam nữ trong gia đình được khẳng định “chồng và vợ có
địa vị bình đẳng trong gia đình” (Điều 5); “người đàn bà có chồng có toàn quyền về mặt
hộ” (Điều 6); “người vị thành niên là con trai hay con gái chưa đủ 18 tuổi, khi đã đến
tuổi thanh niên thì dù còn ở với cha mẹ, người con cũng có quyền tự lập” (Điều 7). Vấn
đề ly hôn, Sắc lệnh số 159/SL ngày 17/11/1950 cũng thể hiện sự bình đẳng nam nữ,
như công nhận quyền tự do giá thú và tự do ly hôn, xóa bỏ sự phân biệt không bình
đẳng và các duyên cớ ly hôn riêng cho vợ và chồng trong các Bộ dân luật cũ, đồng thời
quy định duyên cớ ly hôn chung cho cả vợ và chồng (Điều 2). Bên cạnh đó, Sắc lệnh
159/SL ngày 17/11/1950 cũng quy định điều khoản bảo vệ phụ nữ và thai nhi mà không
bị xem là bất bình đẳng giới: “ trường hợp ly hôn mà người vợ có thai thì vợ chồng có
thể xin Tòa án hoãn đến sau kỳ sinh nở mới xử lý việc ly hôn” (Điều 5).

ạch Hu
ôn
GVHD: ThS Th
Thạ
Huô


20

ạch Th
SVTH: Th
Thạ
Thịị Út Lê


Đề tài: Quy
ng gi
ới trong lĩnh vực gi
áo dục và đà
o tạo ở Vi
Quyềền bình đẳ
đẳng
giớ
giá
đào
Việệt nam
1.3.2 Giai đoạn từ năm 1954-1975
Sau năm 1954, Miền Bắc hoàn toàn giải phóng tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội,
Miền Nam vẫn tiếp tục tiến hành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Trong giai
đoạn này, bản Hiến pháp thứ hai của Việt Nam dân chủ cộng hòa, Hiến pháp năm 1959
đã được Quốc Hội khóa I kỳ họp thứ 11 thông qua ngày 31/12/1959 và được Chủ tịch
nước ký lệnh công bố ngày 01/01/1960. Điều 24 Hiến pháp 1959, đã quy định và ghi
nhận quyền bình đẳng giữa nam và nữ về mọi mặt chính trị, văn hóa, xã hội và gia đình:
“phụ nữ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có quyền bình đẳng với nam giới về các mặt
sinh hoạt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình. Công việc làm như nhau, phụ
nữ được hưởng lương ngang với nam giới. Nhà nước bảo đảm cho phụ nữ công nhân và

phụ nữ viên chức được nghĩ trước và sau khi đẻ mà vẫn được hưởng nguyên lương.
Nhà nước bảo hộ quyền lợi của người mẹ và của đứa trẻ, bảo đảm phát triển của các
nhà đỡ đẻ, nhà giữ trẻ, nhà nuôi trẻ. Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình”.
Ngày 17/01/1960 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh ban hành Luật Hôn nhân
và Gia đình năm 1959. Nhấn mạnh tầm quan trọng của luật này đối với sự nghiệp giải
phóng phụ nữ, Hồ Chủ Tịch đã nói: “Luật lấy vợ, lấy chồng nhằm giải phóng phụ nữ,
tức là giải phóng phân nửa xã hội…nếu không giải phóng được phụ nữ thì không giải
phóng được một nữa loài người”. Các nguyên tắc chung về bình đẳng nam nữ, bình
đẳng vợ chồng được quy định tại Điều 1, Điều 2, Điều 3 của Luật Hôn nhân và Gia
đình năm 1959. Những điều từ Điều12 đến Điều 16 quy định bình đẳng giữa vợ chồng
về nghĩa vụ và quyền trong quan hệ hôn nhân.
n nay
1.3.3 Giai đoạn từ năm 1975 đế
đến
Với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cả nước thống nhất cùng
tiến lên chủ nghĩa xã hội. Bản Hiến pháp thứ ba năm 1980 của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam ra đời đã khẳng định vai trò, vị trí của Hội liên hiệp phụ nữ Việt
Nam: “là chỗ dựa vững chắc của nhà nước, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền
nhân dân” (Điều 9). Cũng trong thời điểm này Việt Nam là nước thứ sáu ký kết công
ước Liên hiệp quốc về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối với phụ nữ (CEDAW).
Sau khi tham gia công ước CEDAW và nhiều công ước quốc tế khác về quyền
con người. Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001) lần đầu tiên khẳng định nhà
nước Việt Nam tôn trọng các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và
xã hội và thể hiện các quyền đó ở các quyền công dân được quy định tại Hiến pháp và
các đạo luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Từ nguyên tắc “mọi công dân đều
bình đẳng trước pháp luật (Điều 52), toàn bộ chương V của Hiến pháp đã tạo cơ sở
pháp lý cho việc xác lập quyền bình đẳng của công dân nam và nữ trong mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội.

ạch Hu

ôn
GVHD: ThS Th
Thạ
Huô

21

ạch Th
SVTH: Th
Thạ
Thịị Út Lê


×