Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (939.79 KB, 71 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT

----o0o----

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
KHÓA 37 (2011 – 2015)
Đề tài:

VẤN ĐỀ NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Giảng viên hướng dẫn:
Ths. Bùi Thị Mỹ Hương

Sinh viên thực hiện:
Nguyễn Hải Đông

Bộ Môn: Luật Thương Mại

MSSV: 5115705
Lớp: Luật Tư pháp 1 – K37

Cần Thơ, 11/ 2014


Vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài................................................................................................ 1


2. Phạm vi nghiên cứu ........................................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu ......................................................................................... 2
4. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................. 3
5. Bố cục đề tài ....................................................................................................... 3
CHƯƠNG 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƯỚC
NGOÀI ................................................................................................................... 4
1.1 Khái niệm về nuôi con nuôi và nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài .............. 4
1.1.1 Khái niệm nuôi con nuôi .......................................................................... 4
1.1.2 Khái niệm nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ........................................ 5
1.2 Bản chất và tầm quan trọng của việc nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài.......... ............................................................................................................. 6
1.2.1 Bản chất của việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ............................. 6
1.2.1.1 Bản chất xã hội ................................................................................. 6
1.2.1.2 Bản chất pháp lý ............................................................................... 6
1.2.2 Tầm quan trọng của việc nuôi con nuôi có yếu nước ngoài ...................... 7
1.3 Mục đích và ý nghĩa của việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ................ 8
1.3.1 Mục đích của việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ............................ 8
1.3.2 Ý nghĩa của việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ............................... 8
1.4 Đặc trưng về quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ............................ 9
1.4.1 Đối tương điều chỉnh ............................................................................... 9
1.4.1.1 Yếu tố chủ thể .................................................................................. 10
1.4.1.2 Yếu tố khách thể .............................................................................. 10
1.4.1.3 Sự kiện pháp lý................................................................................ 11
1.4.1.4 Yếu tố nơi cư trú .............................................................................. 12
1.4.2 Phương pháp điều chỉnh ........................................................................ 13
1.4.2.1 Phương pháp thực chất ................................................................... 13
1.4.2.2 Phương pháp xung đột .................................................................... 14
1.4.3 Nguồn luật điều chỉnh............................................................................ 15
1.4.3.1 Điều ước quốc tế ............................................................................. 15
1.4.3.2 Pháp luật quốc gia .......................................................................... 16

1.4.4 Nguyên tắc điều chỉnh ........................................................................... 16

GVHD: Ths.Bùi Thị Mỹ Hương

SVTH: Nguyễn Hải Đông


Vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam
1.4.4.1 Nguyên tắc luật quốc tịch của đương sự (Lex patriace) ................... 16
1.4.4.2 Nguyên tắc luật nơi cư trú của đương sự ( Lex domicile) ................ 17
1.4.4.3 Nguyên tắc luật Tòa án (Lexfori)..................................................... 17
1.5 Lược sử hình thành và phát triển chế định pháp luật về nuôi con nuôi có
yếu tố nước ngoài trong pháp luật Việt nam................................................... 18
1.5.1 Trước năm 1945..................................................................................... 18
1.5.2 Từ năm 1945 đến 1959 .......................................................................... 19
1.5.3 Từ năm 1959 đến 1986 .......................................................................... 19
1.5.4 Từ năm 1986-2000................................................................................. 20
1.5.5 Từ năm 2000 đến nay. ............................................................................ 22
CHƯƠNG 2 NỘI DUNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH ĐIỀU
CHỈNH VỀ QUAN HỆ NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƯỚC
NGOÀI.....................................................................................................................24
2.1 Điều kiện nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài .............................................. 24
2.1.1 Điều kiện đối với người nhận nuôi con nuôi .......................................... 24
2.1.1.1 Điều kiện đối với người nước ngoài thường trú tại Việt Nam........... 24
2.1.1.2 Điều kiện đối với người nước ngoài thường trú ở nước ngoài ......... 26
2.1.2 Điều kiện đối với người được nhận nuôi ................................................ 27
2.1.2.1 Điều kiện đối với trẻ em Việt Nam được nhận làm con nuôi nước
ngoài……… ................................................................................................ 27
2.1.2.2 Điều kiện đối với trẻ em nước ngoài được nhận làm con
nuôi…………………………………………………………………………………..28

2.2 Hệ quả pháp lý của nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài .............................. 28
2.2.1 Quan hệ giữa cha mẹ nuôi với con nuôi ................................................. 28
2.2.2 Quan hệ giữa con nuôi với cha mẹ đẻ .................................................... 32
2.2.3 Quan hệ giữa con nuôi và các thành viên khác của gia đình cha mẹ
nuôi........... ..................................................................................................... 33
2.3 Thẩm quyền giải quyết việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ................ 36
2.3.1 Thẩm quyền đăng ký việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài tại Việt
Nam........ ........................................................................................................ 36
2.3.2 Thẩm quyền đăng ký việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài tại cơ quan
đại diện........................................................................................................... 36
2.4 Trình tự, thủ tuc giải quyết việc đăng ký nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài.......... ........................................................................................................... 37
2.4.1 Trình tự, thủ tục giải quyết việc đăng ký nuối con nuôi có yếu tố nước
ngoài tại Việt Nam ......................................................................................... 37
2.4.2 Trình tự, thủ tục giải quyết việc đăng ký nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài tại cơ quan đại diện .............................................................................. 41
GVHD: Ths.Bùi Thị Mỹ Hương

SVTH: Nguyễn Hải Đông


Vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam
2.4.3 Trình tự, thủ tục giải quyết việc đăng ký nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài tại khu vực biên giới ............................................................................. 42
2.4.3.1 Trình tự, thủ tục giải quyết việc người nước ngoài tại khu vực biên giới
nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi ................................................................ 42
2.4.3.2 Trình tự, thủ tục giải quyết việc công dân Việt Nam ở khu vực biên giới
nhận trẻ em nước láng giềng làm con nuôi ..................................................... 43
2.5 Chấm dứt việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ...................................... 44
2.5.1 Thẩm quyền chấm dứt việc nuôi con nuôi .............................................. 44

2.5.2 Hệ quả pháp lý của việc chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi...................... 44
2.6 Hoạt động của tổ chức nuôi con nuôi nước ngoài ........................................ 45
2.6.1 Điều kiện thành lập ............................................................................... 45
2.6.2 Hồ sơ xin đăng xin cấp phép hoạt động tại Việt Nam ............................. 46
2.6.3 Trình tự, thủ tục cấp giấy phép hoạt động cho tổ chức nuôi con nuôi nước
ngoài tại Việt Nam .......................................................................................... 46
2.6.4 Sửa đổi nội dung giấy phép, gia hạn giấy phép và thu hồi giấy của tổ
chức nuôi con nuôi nước ngoài tại Việt Nam .................................................. 47
2.6.5 Quyền và nghĩa vụ của tổ chức nuôi con nuôi nước ngoài hoạt động tại
Việt Nam.............. ........................................................................................... 50
CHƯƠNG 3 THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VỀ VẤN ĐỀ
NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM .................. 52
3.1 Thực trạng về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài....................................... 52
3.1.1 Thành tựu về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ....................... 52
3.1.1.1 Tạo ra cơ chế xử lý vấn đề nuôi con nuôi quốc tế minh bạch hơn so
với thời kỳ trước đây ................................................................................... 52
3.1.1.2 Trình tự, thủ tục giải quyết cho trẻ em làm con nuôi nước
ngoài…………………………………………………………………………………54
3.1.1.3 Hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực nuôi con nuôi ngày được
mở rộng……………………………………………………………………………...55
3.1.1.4 Tìm được mái ấm gia đình thay thế cho trẻ em ................................ 55
3.1.1.5 Về công tác kiểm tra, thanh tra việc thực hiện nuôi con nuôi có yếu tố
nước ngoài................. ................................................................................. 56
3.1.2 Những tồn tại, bất cập trong việc giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài..................................................................................................................56
3.1.2.1 Thủ tục, trình tự giải quyết việc nuôi con nuôi còn bất cập .............. 56
3.1.2.2 Về việc quản lý thông tin của trẻ khi đã được giao làm con nuôi nước
ngoài…………………………………………………………………………………57
3.1.2.3 Nhận thức chưa đúng về vấn đề nuôi con nuôi ................................ 57
3.1.2.4 Sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan liên quan đến việc giải

quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài còn chồng chéo và chưa
GVHD: Ths.Bùi Thị Mỹ Hương

SVTH: Nguyễn Hải Đông


Vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam
tốt……………………………………………………………………………………..58
3.1.2.5 Chưa bảo đảm ưu tiên việc nuôi con nuôi trong nước trước khi cho
trẻ em làm con nuôi ở nước ngoài............................................................... 58
3.1.2.6 Còn thiếu sự minh bạch trong việc tiếp nhận và sử dụng các khoản hỗ
trợ nhân đạo của tổ chức, cá nhân nước ngoài ........................................... 59
3.2 Giải pháp hoàn thiện pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài tại
Việt Nam ........................................................................................................... 59
3.2.1 Về trình tự, thủ tục giải quyết việc nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài.......... .................................................................................................... 60
3.2.2 Về việc quản lý thông tin của trẻ em khi đã được giao nhận làm con nuôi
nước ngoài ..................................................................................................... 60
3.2.3 Nâng cao nhận thức về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ....... 61
3.2.4 Về vấn đề minh bạch trong việc tiếp nhận và sự dụng hỗ trợ nhân đạo
của tổ chức, cá nhân nước ngoài............................................................................62
3.2.5 Về công tác phối hợp giữa các cơ quan liên quan đến việc giải quyết nuôi
con nuôi có yếu tố nước ngoài…………………………………………………… . 62

KẾT LUẬN ................................................................................................ 62
TÀI LIỆU THAM KHẢO

GVHD: Ths.Bùi Thị Mỹ Hương

SVTH: Nguyễn Hải Đông



Vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam

LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nuôi con nuôi là một chế định quan trọng trong pháp luật hôn nhân và gia
đình trước đây. Bộ luật dân sự năm 2005 quy định, quyền được nuôi con nuôi và
quyền được nhận làm con nuôi của cá nhân được pháp luật công nhận và bảo hộ;
việc nhận con nuôi và được nhận làm con nuôi được thực hiện theo quy định của
pháp luật. Việc thi hành pháp luật về nuôi con nuôi đã góp phần giúp cho nhiều trẻ
em có được mái ấm gia đình thay thế trong và ngoài nước, giúp cho nhiều đứa trẻ
có hoàn cảnh khó khăn được chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục tốt trở thành những
người có ích cho xã hội. Đồng thời, thông qua việc giải quyết nuôi con nuôi cũng
góp phần quan trọng bảo đảm cho những người đơn thân hoặc cặp vợ chồng hiếm
con được thực hiện quyền làm cha mẹ.
Hiện nay, do nhu cầu hội nhập, với chính sách khuyến khích, mở rộng quan
hệ đối ngoại với các nước trên thế giới, việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
ngày càng gia tăng, song hiện tượng nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài có những
diễn biến đa dạng và phúc tạp. Ngoài bản chất và mục đích cao đẹp của việc nuôi
con nuôi là nhằm xây dựng mối quan hệ gia đình, thiết lập quan hệ cha mẹ và con
giữa người nhận nuôi và đứa trẻ được nhận làm con nuôi, bảo đảm cho đứa trẻ có
cuộc sống tốt hơn, cũng còn xuất hiện những việc làm phi đạo đức, lợi dụng danh
nghĩa cho trẻ làm con nuôi để thu gom, môi giới, dẫn dắt mua bán trẻ em. Do vấn đề
nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là một trong những vấn đề dân sự có yếu tố
nước ngoài được điều chỉnh bởi ngành luật tư pháp quốc tế nên những quan hệ phát
sinh trong quan hệ này chịu sự điều chỉnh đặc biệt.
Như chúng ta đã biết, bất kỳ một lĩnh vực nào trong đời sống cũng cần có sự
điều chỉnh của pháp luật, nó cần phải có nguyên tắc, các quy định cụ thể để hoạt
động trong khuôn khổ pháp luật, nếu không có sự điều chỉnh của pháp luật thì các

mối quan hệ sẽ trở nên rối rắm. Lĩnh vực nuôi con nuôi nói chung cũng như nuôi
con nuôi có yếu tố nước ngoài nói riêng, việc bảo vệ quyền lợi của người được nuôi
và người nhận nuôi là một lĩnh vực quan trọng trong thực tiễn đời sống. Đây là công
việc khó khăn, đòi hỏi thời gian và sự tham gia của không chỉ các cơ quan nhà nước
mà của toàn xã hội. Luật Nuôi con nuôi ra đời với những điều khoản quy định riêng
về lĩnh vực nuôi con nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài đã thể hiện sự quan tâm
sâu sắc của Đảng, Nhà nước đối với những trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, những
chồi non của đất nước, tạo tính thống nhất, đồng bộ trong việc giải quyết nuôi con
nuôi.

GVHD: Ths.Bùi Thị Mỹ Hương

1

SVTH: Nguyễn Hải Đông


Vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam
Việc dựa trên quy định của Luật nuôi con nuôi để giải quyết những vấn đề về
nhận con nuôi, các nguyên tắc, điều kiện nuôi con nuôi, thẩm quyền, trình tự, thủ
tục giải quyết việc nuôi con nuôi; quyền, nghĩa vụ của cha mẹ nuôi, con nuôi và cha
mẹ đẻ, trách nhiệm của cơ quan tổ chức trong việc nuôi con nuôi. Song, khi tiến
hành công tác áp dụng pháp luật trên thực tiễn tuy gặt hái được những thành công
nhất định nhưng bên cạnh đó cũng gặp không ít khó khăn, vướng mắc, bất cập về
trình tự, thủ tục giải quyết, về công tác đánh giá, nhận thức về nuôi con nuôi đặc
biệt là đối với vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Do vậy, vấn đề nuôi con
nuôi có yếu tố nước ngoài cần được tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện về mặt pháp
lý cũng như về mặt áp dụng pháp luật trong thực tiễn sao cho pháp luật quốc gia
phù hợp với luật pháp quốc tế góp phần thể chế hóa đường lối chính sách của Đảng
và nhà nước về giải quyết vấn đề trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em gặp phải bất hạnh trong

cuộc sống.
Từ những lý do khách quan về lý luận và thực tiễn nêu trên, người viết đã
suy nghĩ và lựa chọn đề tài “Vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo pháp
luật Việt Nam” để làm đề tài tốt nghiệp khóa học của mình.
2. Phạm vi nghiên cứu
Với đề tài “Vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt
Nam”, người viết tập trung phân tích những vấn đề lý luận chung về nuôi con nuôi
có yếu tố nước ngoài như khái niệm, bản chất, ý nghĩa của việc nuôi con nuôi có
yếu tố nước ngoài…Đồng thời, người viết tiến hành phân tích những quy định của
pháp luật Việt Nam hiện hành về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài như về
nguyên tắc giải quyết, điều kiện nuôi con nuôi, thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải
quyết việc nuôi con nuôi nước ngoài; quyền, nghĩa vụ của cha mẹ nuôi, con nuôi và
cha mẹ đẻ, trách nhiệm của cơ quan tổ chức trong việc nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài. Dựa trên cơ sở lý luận cũng như cơ sở pháp lý, người viết đưa ra thực trạng
và giải pháp hoàn thiện về vấn nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam
hiện nay.
3. Mục đích nghiên cứu
Nuôi con nuôi là hoạt động nhân đạo làm phát sinh quan hệ cha mẹ và con
mang tính chất lâu dài giữa một bên là người nhận nuôi và trẻ em được nhận nuôi
bảo đảm cho những trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn được chăm sóc, nuôi
dưỡng, giáo dục một cách tốt nhất trong môi trường gia đình. Hiện nay Việt Nam là
một trong những quốc gia có một số lượng lớn trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn, trẻ em cơ nhỡ, trẻ em bị cha mẹ bỏ rơi, trẻ em bị ảnh hưởng chất độc hóa học
từ chiến tranh…chưa được quan tâm từ cộng đồng xã hội. Hơn ai hết những đứa trẻ
GVHD: Ths.Bùi Thị Mỹ Hương

2

SVTH: Nguyễn Hải Đông



Vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam
đó cần phải có một mái ấm gia đình, cần có sự yêu thương chăm sóc trọn vẹn để các
em được phát triện toàn diện, hiểu được tầm quan trọng đó Nhà nước ta đã ban hành
các văn bản quy phạm pháp luật, các chính sách hợp tác quốc tế nhằm để bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp cho trẻ em, trong đó có quyền cho làm con nuôi của trẻ.
Nhằm mục đích tạo sự công bằng, tiến bộ đảm bảo quyền lợi của trẻ em trong
vấn đề nuôi con nuôi, hoàn thiện hơn các quy định của pháp luật hiện nay về hợp
tác quốc tế về nuôi con nuôi giữa các nước, tạo ra một môi trường thuận lợi nhất
dành cho sự phát triển của trẻ em trong tương lai một cách rộng rãi và hiệu quả
chúng ta cần phải tìm hiểu một cách sâu rộng và đầy đủ về vấn đề nuôi con nuôi có
yếu tố nước ngoài, các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan và các chính sách
hợp tác quốc tế của nước ta về vấn đề nuôi con nuôi đề từ đó áp dụng trong thực
tiễn nhằm đảm bảo quyền lợi của trẻ em. Từ đó nêu cao tinh thần chính sách nhân
đạo của Nhà nước ta, trách nhiện của các cơ quan chức năng trong vấn việc nuôi
con nuôi đặc biệt là nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu của đề tài là phương pháp phân tích truyền
thống như: phương pháp phân tích câu chữ, kết hợp với phân tích và phân tích lịch
sử. Ngoài ra còn sử dụng phương pháp diễn dịch, quy nạp, liệt kê, so sánh, đối
chiếu… nhằm đi sâu vào từng điều luật cụ thể và tìm hiểu nội dung, tính hữu hiệu
cũng như mặt hạn chế để từ đó đề ra hướng giải quyết cho những vấn đề đã đặt ra.
5. Bố cục đề tài
Đề tài được nghiên cứu theo phương pháp truyền thống gồm 3 chương:
- Chương 1: Lý luận chung về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
- Chương 2: Nội dung pháp luật Việt Nam hiện hành điều chỉnh về quan hệ
nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
- Chương 3: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện về vấn đề nuôi con nuôi có
yếu tố nước ngoài tại Việt Nam.


GVHD: Ths.Bùi Thị Mỹ Hương

3

SVTH: Nguyễn Hải Đông


Vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam

CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ NUÔI CON NUÔI CÓ
YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
Chương này người viết tập chung nghiên cứu về những vấn đề lý luận chung
về pháp luật nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài như khái niệm, bản chất , đặc trưng
cơ bản về quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, lịch sử hình thành và phát
triển của pháp luật điều chỉnh về quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài…Từ
tiền đề lý luận chung sẽ tạo cơ sở cho hoạt động nghiên cứu về quy định pháp luật
hiện hành về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.

1.1 Khái niệm về nuôi con nuôi và nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
1.1.1 Khái niệm nuôi con nuôi
Con nuôi là việc một người được người khác nhận làm con nhưng không trực
tiếp sinh ra, người nhận con nuôi gọi là cha nuôi, mẹ nuôi. Quan hệ pháp luật giữa
cha mẹ nuôi và con nuôi giống như quan hệ pháp luật giữa cha mẹ đẻ và con đẻ.
Việc nhận con nuôi phải tuân theo những quy định của pháp luật1.
Nuôi con nuôi là một hiện tượng xã hội, một chế định pháp lý đã xuất hiện từ
lâu trong lịch sử pháp luật Việt Nam. Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha, mẹ
con giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi...; dựa trên ý
chí chủ quan của các chủ thể tham gia quan hệ nuôi con nuôi2.
Theo Điều 3 Luật nuôi con nuôi giải thích:“Nuôi con nuôi là việc xác lập

quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con
nuôi. Cha mẹ nuôi là người nhận con nuôi sau khi việc nuôi con nuôi được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền đăng ký. Con nuôi là người được nhận làm con nuôi sau
khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký”. Nếu như quan hệ cha mẹ đẻ
và con đẻ được xác lập trên cơ sở là quan hệ huyết thống thì quan hệ giữa cha mẹ
nuôi và con nuôi được thiết lập theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền theo nguyện vọng của các đương sự và sự tuân thủ các quy định của pháp
luật về các điều kiện xác lập quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi. Như vậy, quan
hệ cha mẹ nuôi – con nuôi là quan hệ ràng buộc một người vào một hoặc hai người
khác, những người có liên quan không có quan hệ huyết thống với nhau như cha mẹ
– con ruột, nhưng người nuôi xem như cha mẹ của người được nuôi, dù không sinh
ra người được nuôi; người được nuôi về phần mình, coi người nuôi như cha mẹ
1 Biên soạn Nguyễn Thùy Dương, Những vấn đề cơ bản và thuật ngữ của Bộ luật dân sự, trang 50.
2 Tập thể tác giả, Giáo trình Luật hôn nhân và gia đình – Đại học luật Hà Nội, trang 171.

GVHD: Ths.Bùi Thị Mỹ Hương

4

SVTH: Nguyễn Hải Đông


Vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam
ruột. Đó là quan hệ cha mẹ con không được xác lập bằng con đường sinh sản mà
theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trên cơ sở đáp ứng nguyện
vọng của các đương sự, đặc biệt là của người nuôi3. Việc xác lập quan hệ nuôi con
nuôi làm phát sinh giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận nuôi đầy đủ
các quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con và việc nuôi con nuôi chỉ có giá trị pháp
lý khi đã được đăng ký theo quy định của pháp luật.
1.1.2 Khái niệm nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài

Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài hiện nay là vấn đề hiện được nhiều nước
trên thế giới quan tâm. Đặc biệt trong điều kiện toàn cầu hoá như hiện nay, nuôi con
nuôi có yếu tố nước ngoài thực sự đã trở thành vấn đề nhân đạo mang tính toàn cầu
và đã được thể chế hoá trong pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia.
Ở nước ta trong những năm gần đây nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
được Nhà nước đặc biệt quan tâm bằng việc ban hành nhiều chính sách, văn bản
quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài nhằm
xử lý những sai phạm, làm cho việc cho trẻ em làm con nuôi người nước ngoài thực
sự mang tính nhân đạo, tìm mái ấm gia đình và hạnh phúc cho trẻ em.
Theo quy định tại khoản 5 Điều 3 Luật nuôi con nuôi năm 2010 thì: “Nuôi
con nuôi có yếu tố nước ngoài là việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với
người nước ngoài, giữa người nước ngoài với nhau tại Việt Nam giữa công dân Việt
Nam với nhau mà một bên định cư ở nước ngoài”. Như vậy các quan hệ của các chủ
thể hình thành quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài bao gồm:
- Quan hệ nuôi con nuôi giữa người nước ngoài với trẻ em Việt Nam cư trú
trên lãnh thổ Việt Nam hoặc cư trú ở nước ngoài.
- Quan hệ nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với trẻ em nước ngoài ở
Việt Nam hoặc ở nước ngoài.
- Quan hệ nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau mà một hoặc cả
hai bên định cư ở nước ngoài.
- Quan hệ nuôi con nuôi giữa người nước ngoài với nhau phát sinh tại Việt
Nam.
Theo các trường nêu hợp trên, quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
đã được mở rộng không chỉ là quan hệ nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với
người nước ngoài mà còn bao gồm quan hệ nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam
3 Ts Nguyễn Ngọc Điện, Bình luận khoa học Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, Tập 1 – Gia đình, trang
197.

GVHD: Ths.Bùi Thị Mỹ Hương


5

SVTH: Nguyễn Hải Đông


Vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam
với nhau ở nước ngoài và quan hệ nuôi con nuôi giữa người nước ngoài với nhau ở
Việt Nam.
1.2 Bản chất và tầm quan trọng của việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
1.2.1 Bản chất của việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
1.2.1.1 Bản chất xã hội
Nuôi con nuôi là một hoạt động xã hội mang tính nhân đạo được sự quan tâm
từ phía cộng đồng, đối với vấn đề xã hội này không chỉ tác động đối với một quốc
gia cụ thể nào mà nó có tác động sâu rộng đến tất cả quốc gia trên toàn thế giới.
Vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài mang bản chất xã hội trong việc thể hiện
tinh thần hợp tác giữa các quốc gia trên thế giới nhằm tìm kiếm gia đình thay thế
cho những đứa trẻ gặp hoàn cảnh đặc biệt khó khăn để chúng có cơ hội được chăm
sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trong môi trường gia đình góp phần bảo vệ quyền lợi của
trẻ em.
Ngoài ra, bản chất xã hội của vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài còn
được thể hiện ở chỗ mang lại cơ hội cho các trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn
trên toàn thế giới đặc biệt là tại các quốc gia nghèo về kinh tế, điều kiện chăm sóc,
bảo vệ trẻ em con yếu kém, giúp tạo ra sự quan tâm của toàn xã hội trong việc chăm
sóc bảo vệ trẻ em. Hiện nay, việc mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế đã tạo điều kiện
cho các quan hệ có yếu tố nước ngoài giữa các quốc gia ngày càng phát triển phong
phú và đa dạng trong đó có quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài cũng như
các vấn đề về dân tộc, tôn giáo và trình độ phát triển của các quốc gia ngày càng
găn bó mật thiết. Từ những thành tựu trên đã góp phần xóa dần sự phân biệt, gắn
kết tất cả quốc gia với nhau, mở rộng các mối quan hệ về tình người, về tính hợp tác
bình đẳng tôn trọng quyền lợi giữa các quốc gia với nhau. Quan hệ nuôi con nuôi có

yếu tố nước ngoài thể hiện ý chí của tất cả các quốc gia trong việc định hướng phát
triển toàn diện của trẻ em sao cho phù hợp với luật pháp quốc tế. Sự quan tâm này
xuất phát từ mục đích cao cả của cộng đồng và xã hội đối với việc bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp cho trẻ em.
1.2.1.2 Bản chất pháp lý
Cơ quan có thẩm quyền chỉ có thể công nhận việc nuôi con nuôi khi ý chí
của các bên đương sự thể hiện một cách rõ ràng đồng thời các bên đương sự phải
đáp ứng đầy đủ các điều kiện cần thiết theo quy định của pháp luật. Bản chất pháp
lý của việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là sự ghi nhận về mặt pháp lý của
các quan hệ phát sinh giữa các chủ thể trong quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài.
GVHD: Ths.Bùi Thị Mỹ Hương

6

SVTH: Nguyễn Hải Đông


Vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam
Bản chất pháp lý của vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài trước tiên là
sự thể hiện ý chí của các bên đương sự trong việc xác lập quan hệ cha me nuôi - con
nuôi. Đây là sự thể hiện ý chí của người nhận con nuôi, sự thể hiện ý chí của cha mẹ
đẻ hoặc là của người giám hộ của người được cho làm con nuôi. Trên cơ sở ý chí
của các bên đương sự được một cách rõ ràng thì quan hệ pháp lý được xác lập và
được pháp luật thừa nhận. Sự công nhận quan hệ cha mẹ nuôi - con nuôi theo pháp
luật quốc gia có ý nghĩa quyết định trong việc xác lập quan hệ nuôi con nuôi trên cơ
sở xem xét về ý chí của các bên và những điều kiện cần thiết cho việc xác lập đúng
theo quy định của nhà nước trên cơ sở đó cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ tiến
hành việc đăng ký và ra quyết định công nhận quan hệ giữa cha mẹ nuôi- con nuôi.
Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là một trong những quan hệ dân sự có

yếu tố nước ngoài, vì vậy bản chất pháp lý của quan hệ này cũng thuộc lĩnh vực
chuyên ngành tư pháp quốc tế phát sinh trong quá trình giải quyết vấn đề nuôi con
nuôi có yếu tố nước ngoài. Từ những phân tích cho thấy các vấn đề liên quan đến
vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài đều chịu sự điều chỉnh bởi các nguyên
tắc cơ bản của ngành luật tư pháp quốc tế và pháp luật quốc gia.
1.2.2 Tầm quan trọng của việc nuôi con nuôi có yếu nước ngoài
Nhằm hoàn thiện hơn chính sách phát triển toàn diện của trẻ em, các quyền
lợi ích hợp pháp chính đáng của trẻ em, đảm bảo cho trẻ em được chăm sóc giáo
dục một cách tốt nhất Đảng và nhà nước ta đã xác định việc nuôi con nuôi nói
chung và nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài nói riêng có vai trò hết sức quan trọng
trong chính sách bảo vệ quyền trẻ em hiện nay.
Việc tạo ra một môi trường tốt nhất cho việc chăm sóc trẻ em Việt Nam hiện
nay được nhà nước ta luôn chú trọng tạo mọi điều kiện thuận lợi để cho trẻ em có
thể sống tốt và phát triển một cách toàn diện vấn đề được cụ thể hóa bằng các chính
sách pháp luật, trong đó có các điều luật liên quan đến nuôi con nuôi được ban hành
và càng được hoàn thiện đặc biệt từ khi Luật nuôi con nuôi 2010 được ban hành.
Trong những năm qua việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ngày càng
phát triển rộng rãi góp phần tích cực trong việc mở rộng quan hệ quốc tế trong lĩnh
vực nuôi con nuôi với các nước trên thế giới trong thời kỳ hội nhập, thúc đẩy giao
lưu hợp tác hữu nghị tăng cường tinh thần đoàn kết quốc tế cũng như góp phần bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em tạo cho trẻ có môi trường tốt nhất nhằm
hướng tới mục đích chung là sự phát triển toàn diện về mọi mặt của cho trẻ em hiện
nay.

GVHD: Ths.Bùi Thị Mỹ Hương

7

SVTH: Nguyễn Hải Đông



Vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam
1.3 Mục đích và ý nghĩa của việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
1.3.1 Mục đích của việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
Theo Điều 2 Luật nuôi con nuôi năm 2010 quy đinh “Việc nuôi con nuôi
nhằm xác lập quan hệ cha, mẹ và con lâu dài, bền vững, vì lợi ích tốt nhất của
người được nhận làm con nuôi, bảm đảm cho con nuôi được nuôi dưỡng, chăm sóc,
giáo dục trong môi trường gia đình”.
Việc nuôi con nuôi con nuôi là nhằm tạo ra một môi trường sống tốt đẹp cho
trẻ em gặp hoàn cảnh khó khăn có được một cuộc sống tốt đẹp, tạo ra môi trường
sống lành mạnh có điều kiện phát triển toàn diện về mọi mặt nhằm bảo vệ lợi ích
chính đáng của trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn trên toàn thế giới.
Hiện nay, vấn nạn về buôn bán, lạm dụng, bóc lột sức lao động của trẻ em
diễn biến ngày càng phúc tạp với nhiều hình thức, thủ đoạn tinh vi đặc biệt là ở các
quốc gia kém phát triển và lang rộng ra toàn thế giới. Trong đó, nước ta là một
trong những quốc gia đang có số lượng lớn trẻ em làm nuôi ở nước ngoài, vì vậy
công tác phòng chống tội phạm liên quan đến vấn đề nuôi con nuôi ngày càng gay
gắt. Trước tình hình thực tế đó, Đảng và Nhà nước ta đang ban hành những chính
sách pháp luật để điều chỉnh các vấn đề phát sinh trong mối quan hệ pháp luật này.
Cùng với các văn bản pháp luật trong nước Nhà nước ta ngày càng tăng cường hợp
tác với các quốc gia khác bằng việc ký kết các hiệp định, các điều ước quốc tế, các
hiệp định tương trợ về vấn đề quyền lợi của trẻ em và nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài.
Hiện nay, nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài còn được thể hiện vì lợi ích,
mục đích của các quốc gia trong việc hướng đến sự phát triển của trẻ em sao cho
phù hợp với luật pháp quốc tế. Sự quan tâm này đòi hỏi xuất phát từ ý chí chung
mang tính nhân đạo của cộng đồng xã hội đi đến việc xóa bỏ ý niệm nuôi con nuôi
vì vụ lợi đi ngược lại với đạo đức xã hội vì quyền lợi của trẻ em.
1.3.2 Ý nghĩa của việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
Nuôi con nuôi nói chung và nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài nói riêng thể

hiện quan hệ xã hội có tính nhân đạo, thể hiện truyền thống tương thân tương ái,
giúp đỡ lẫn nhau giữa con người và con người, đặc biệt là đối với những đứa trẻ bị
mồ côi, không nơi nương tựa. Cần khẳng định rằng, nuôi con nuôi là một trong
những biện pháp tốt nhất và có hiệu quả nhất để giải quyết tình trạng trẻ em mồ côi,
lang thang không nơi nương tựa. Nuôi con nuôi đã tạo ra khả năng giải quyết một
vấn đề xã hội phức tạp là hạn chế được tình trạng trẻ em lang thang tự kiếm sống,
thậm chí phạm tội do không có sự chăm sóc, giáo dục cần thiết và thích hợp của gia
GVHD: Ths.Bùi Thị Mỹ Hương

8

SVTH: Nguyễn Hải Đông


Vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam
đình. Nhà nước ta đã có những chính sách thích hợp để trẻ em có hoàn cảnh đặc
biệt, không nơi nương tựa, bị mồ côi, bỏ rơi hoặc những trẻ em có hoàn cảnh gia
đình đặc biệt khó khăn được nhận làm con nuôi, để chúng được sống trong môi
trường gia đình tốt hơn và đó cũng chính là một phần chính sách để ổn định xã hội.
Đối với bản thân đứa trẻ, việc được nhận làm con nuôi có ý nghĩa sâu sắc
làm thay đổi cơ bản số phận đứa trẻ. Đứa trẻ làm con nuôi sẽ được sống trong môi
trường thuận lợi nhất để có thể phát triển hài hòa về thể chất, nhân cách và tinh thần
với sự “ yêu thương, thông cảm ” trong một gia đình nghèo đúng nghĩa của nó.
Đối với người nuôi, việc nhận nuôi con nuôi đem lại cho họ sự thỏa mãn
nhu cầu tình cảm, tinh thần, làm cân bằng các trạng thái tâm lý, ổn định cảm xúc,
giúp họ vững vàng và tự tin hơn trong cuộc sống, bởi vì khi gắn bó với đứa trẻ, cuộc
sống của học sẽ trở nên ý nghĩa hơn và gia đình cũng trọn vẹn hơn.
1.4 Đặc trưng về quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
1.4.1 Đối tương điều chỉnh
Đối tượng điều chỉnh của pháp luật nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài phức

tạp bởi yếu tố nước ngoài: Yếu tố nước ngoài khác nhau tùy thuộc vào từng trường
hợp khác nhau, có thể là chủ thể, pháp luật áp dụng, sự kiện pháp lý…
Việc xác định đúng yếu tố nước ngoài rất quan trọng, nhằm xác định thẩm
quyền giải quyết việc nuôi con nuôi, giải quyết tranh chấp phát sinh, xác định pháp
luật cần áp dụng, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của các bên.
Theo quy định tại khoản 5 Điều 3 Luật nuôi con nuôi năm 2010 thì: “Nuôi
con nuôi có yếu tố nước ngoài là việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với
người nước ngoài, giữa người nước ngoài với nhau tại Việt Nam giữa công dân Việt
Nam với nhau mà một bên định cư ở nước ngoài.”
Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài thuộc lĩnh vực điều chỉnh của ngành
luật tư pháp quốc tế. Việc xác định có yếu tố nước ngoài hay không có ý nghĩa rất
quan trọng trong việc đưa ra phương hướng giải quyết vấn đề xác định pháp luật áp
dụng một cách chính xác. Đồng thời, việc xác định yếu tố nước ngoài còn là căn cứ
quan trong trong việc xác định thẩm quyền giải quyết giữa các quốc gia về lĩnh vực
phát sinh trong quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài thuộc quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài vì vậy đối tượng
điều chỉnh trong quan hệ nuôi con nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài chính là
những quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài trong vấn đề nuôi con nuôi.

GVHD: Ths.Bùi Thị Mỹ Hương

9

SVTH: Nguyễn Hải Đông


Vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam
1.4.1.1 Yếu tố chủ thể
Khi đề cập đến yếu tố chủ thể trong quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài, có hai dạng chủ thể cơ bản:

Thứ nhất, công dân Việt Nam khi tham gia vào quan hệ nuôi con nuôi có yếu
tố nước ngoài phải có quyền năng chủ thể tức là có năng lực pháp luật và năng lực
hành vi trước tiên theo pháp luật Việt Nam. Năng lực pháp luật và năng lực hành vi
là những thuộc tính của chủ thể pháp luật, là đặc trưng không thể thiếu của chủ thể
pháp luật. Vấn đề năng lực pháp luật và năng lực hành vi ở đây trước hết được xác
định trên cơ sở các quy định của pháp luật dân sự Việt Nam.
Thứ hai, Bên cạnh đó người nước ngoài cũng là chủ thể cơ bản của quan hệ
nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Hiện nay pháp luật Việt Nam và của nhiều
nước trên thế giới có nét đặc trưng là đều lấy dấu hiệu quốc tịch để định nghĩa
người nước ngoài, theo quy định pháp luật Việt Nam định nghĩa “Người nước
ngoài” như sau: “là người không có quốc tịch Việt Nam, bao gồm người có quốc
tịch nước ngoài và người không quốc tịch”4. Để tham gia vào quan hệ hôn nhân và
gia đình có yếu tố nước ngoài cũng như quan hệ con nuôi có yếu tố nước ngoài thì
người nước ngoài phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi trước tiên là theo
pháp luật của nước mà người đó là công dân hoặc pháp luật của nước mà người đó
thường trú nếu người đó là người không quốc tịch.
Theo quy định tại Điều 761 Bộ luật dân sự năm 2005 thì người nước ngoài
có năng lực pháp luật dân sự tại Việt Nam như công dân Việt Nam, trừ các trường
hợp ngoại lệ.Tuy nhiên, để người nước ngoài tham gia trực tiếp vào quan hệ nuôi
con nuôi có yếu tố nước ngoài thì người nước ngoài phải có năng lực hành vi. Theo
Điều 762 thì Việt Nam đã sử dụng chủ yếu nguyên tắc luật quốc tịch để xác định
năng lực hành vi dân sự của người nước ngoài. Ngoài ra, trong một số trường hợp
năng lực hành vi dân sự của người nước ngoài được xác định theo pháp luật dân sự
Việt Nam.
1.4.1.2 Yếu tố khách thể
Yếu tố khách thể trong quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là những
quan hệ về quyền nhân thân và quyền tài sản phát sinh khi xảy ra tranh chấp trong
quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
- Về quyền tài sản: Theo quy định tại Điều 163 Bộ luật dân sự 2005 thì “Tài
sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản” và, theo Điều 174 Bộ

luật dân sự 2005 thì “Tài sản bao gồm động sản và bất động sản”. Tuy nhiên, trên
4

Khoản 2 Điều 3 Nghị định số 138/2006NĐ-CP.

GVHD: Ths.Bùi Thị Mỹ Hương

10

SVTH: Nguyễn Hải Đông


Vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam
thực tế vấn đề quy định về tài sản ở các quốc gia có những điểm khác nhau có quốc
gia xem loại đó là tài sản, nhưng cũng cùng loại đó ở quốc gia khác thì không được
xem là tài sản, có quốc gia xem đó là động sản, những cũng có quốc gia xem đó là
bất động sản. Đây là hiện tượng thường gặp trong các quan hệ dân sự có yếu tố
nước ngoài, đặc biệt liên quan đến vấn đề thừa kế trong quan nuôi con nuôi có yếu
tố nước ngoài; tranh chấp về quyền sở hữu tài sản…Khi đó, việc lựa chọn luật áp
dụng để giải quyết xung đột pháp luật, xung đột thẩm quyền xét xử và các vấn đề
liên quan thuộc chuyên ngành tư pháp quốc tế được đề cập đến. Về mặt nguyên tắc,
luật áp dụng sẽ là luật của nước có tài sản đối với loại tài sản được xem là động sản
và luật nước mà đương sự có quốc tịch nếu loại tài sản đó được xem là bất động
sản.
- Về quyền nhân thân: Trong pháp luật Việt Nam và pháp luật các nước trên
thế giới, quyền nhân thân phát sinh trong quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài được giải quyết dựa trên nguyên tắc luật nhân thân. Theo quy định của pháp
luật Việt Nam thì tùy vào từng quan hệ cụ thể mà cho phép áp dụng hệ thuộc luật
quốc tịch hay hệ thuộc luật cư trú của chủ thể để giải quyết. Vấn đề lựa chọn áp
dụng luật áp dụng để điều chỉnh xung đột về quyền nhân thân giữa các thành viên

trong gia đình có yếu tố nước ngoài liên quan đến nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài xuất phát từ thực tế ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, đảm bảo quyền và
lợi ích hợp pháp của các thành viên trong gia đình. Ngoài ra, xung đột pháp luật
giữa các thành viên trong gia đình có yếu tố nước ngoài còn được điều chỉnh bởi
luật nơi thực hiện hành vi.
1.4.1.3 Sự kiện pháp lý
Sự kiện pháp lý làm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi
có yếu tố nước ngoài phải là sự kiện pháp lý xảy ra ở nước ngoài. Nó có thể là sự
kiện, hành vi …phù hợp với pháp luật Việt Nam hoặc pháp luật nước ngoài. Sự kiện
pháp lý còn là hành vi pháp lý. Hành vi pháp lý là hành vi hợp pháp xảy ra do các
chủ thể trong quan hệ nuôi con nuôi thực hiện (làm chấm dứt quan hệ về nhân thân
và tài sản của đứa trẻ với cha, mẹ đẻ và làm phát sinh những quan hệ đó giữa cha,
mẹ nuôi và con nuôi). Hành vi của những người tham gia quan hệ pháp luật nuôi
con nuôi nhằm xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ trong lĩnh vực nuôi
con nuôi cần thiết phải có cả quyết định của cơ quan có thẩm quyền công nhận sự
kiện hoặc hành vi theo thủ tục luật định. Ví dụ: Để cho việc xác nhận con nuôi làm
phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa người nhận nuôi và con nuôi thì cần thiết phải có
quyết định về việc nhận con nuôi của Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương hoặc Uỷ ban nhân cấp xã nếu việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt

GVHD: Ths.Bùi Thị Mỹ Hương

11

SVTH: Nguyễn Hải Đông


Vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam
Nam cư trú ở khu vực biên giới với công dân của nước láng giềng cùng cư trú ở khu
vực biên giới với Việt Nam.

Sự kiện pháp lý làm xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi có
yếu tố nước ngoài là sự kiện pháp lý xảy ra ở nước ngoài. Về việc nhận nuôi con
nuôi ở nước ngoài, pháp luật Việt Nam thường sử dụng quy tắc luật nơi thực hiện
hành vi để giải quyết xung đột pháp luật phát sinh trong quan hệ này. Trong trường
hợp Việt Nam và nước hữu quan ký kết điều ước quốc tế thì xung đột pháp luật
trong vấn đề này được điều chỉnh theo các quy phạm pháp luật ghi nhận trong các
điều ước đó.
Như vậy, việc xác định đúng thời điểm mà sự kiện pháp lý làm phát sinh,
thay đổi, chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi có ý nghĩa rất quan trọng, nó giúp cơ
quan nhà nước có thẩm quyền xác định đúng luật áp dụng để giải quyết xung đột
pháp luật phát sinh giữa các bên, từ đó áp dụng luật chính xác trong việc giải quyết
tranh chấp liên quan đến các chủ thể tham gia quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài.
1.4.1.4 Yếu tố nơi cư trú
Theo khoản 1 Điều 52 Bộ luật Dân sự 2005 quy định “Nơi cư trú của cá
nhân là nơi người đó thường xuyên sinh sống”. Việc xác định nơi cư trú của các
bên đương sự có vai trò rất quan trọng trong quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài
nhằm mục đích giải quyết các vấn đề phát sinh trong quan hệ như việc lựa chọn áp
dụng pháp luật các quy định liên quan đến nơi cư trú của các bên đương sự.
Trong quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài thì yếu tố cư trú được
pháp luật quy định: Quan hệ giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài; Quan
hệ giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam; Quan hệ giữa công dân
Việt Nam với nhau mà các căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo
pháp luật nước ngoài5. Từ quy định trên ta có thể rút ra yếu tố nơi cư trú trong quan
hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam bao gồm:
- Người nước ngoài cư trú trên lãnh thổ Việt Nam bao gồm: Giữa người
nước ngoài với nhau thường trú trên lãnh thổ Việt Nam; Giữa người nước ngoài với
người Việt Nam định cư trên lãnh thổ Việt Nam. Đây là chủ thể phát sinh ngày
càng tăng theo chiều hướng hội nhập và mở rộng quan hệ kinh tế của đất nước ta
trong, vấn đề hôn nhân và gia đình ngày một gia tăng đặc biệt là vấn đề nuôi con

nuôi có yếu tố nước ngoài.
- Người nước ngoài cư trú ở nước ngoài: Giữa công dân Việt Nam định cư ở
5

Khoản 14 Điều 08 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.

GVHD: Ths.Bùi Thị Mỹ Hương

12

SVTH: Nguyễn Hải Đông


Vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam
nước ngoài với công dân Việt Nam định cư trên lãnh thổ Việt Nam; Giữa công dân
Việt Nam định cư ở nước ngoài với nhau.Các chủ thể này chịu sự điều chỉnh của
pháp luật nước ngoài trong quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.
Việc xác định dấu hiệu nơi cư trú trong quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài
trong đó đặc biệt là quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là nền tảng cho việc
thiết lập và áp dụng luật trong vấn đề giải quyết phát sinh trong quan hệ nuôi con
nuôi có yếu tố nước ngoài.
1.4.2 Phương pháp điều chỉnh
Phương pháp điều chỉnh của pháp luật điều chỉnh quan hệ gia đình có yếu tố
nước ngoài trong đó có quan hệ nuôi con nuôi là phương pháp xung đột và phương
pháp thực chất. Hai phương pháp này được kết hợp hài hoà và tác động tương hỗ
với nhau trong điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài nhằm bảo
đảm sự thuận lợi cho các bên trong quá trình giải quyết việc nuôi con nuôi có yếu tố
nước ngoài.
1.4.2.1 Phương pháp thực chất
Phương pháp thực chất là phương pháp điều chỉnh dựa vào việc thể nhất hoá

các quy phạm luật thực chất, cách thức giải quyết quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố
nước ngoài trong pháp luật của từng nước, quy định rõ quyền và nghĩa vụ của các
chủ thể trong quan hệ này dưới dạng định ra các quy phạm thực chất thống nhất.
Quy phạm thực chất là loại quy phạm trực tiếp phân định quyền và nghĩa vụ
cụ thể giữa các bên tham gia quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Quy phạm thực
chất có thể được xây dựng trong các điều ước quốc tế (gọi là các quy phạm thực
chất thống nhất). Việc xây dựng các quy phạm thực chất trong các điều ước quốc tế
điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài cũng như trong
quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là hết sức cần thiết. Nó làm hài hoà sự
khác biệt trong pháp luật của các quốc gia và có tính chất đơn giản hoá trong việc
điều chỉnh các quan hệ này. Khi các quốc gia kí kết với nhau điều ước quốc tế trong
đó có quy phạm thực chất thống nhất, cơ quan có thẩm quyền giải quyết sẽ dựa vào
đó để xem xét và giải quyết thực chất vấn đề trên cơ sở áp dụng ngay quy phạm
đó.Việc áp dụng các quy phạm thực chất sẽ loại trừ vấn đề phải chọn luật và cả vấn
đề áp dụng luật nước ngoài.
Quy phạm thực chất còn được xây dựng trong pháp luật quốc gia. Loại quy
phạm này gọi là quy phạm thực chất thông thường. Tuy nhiên, về vấn đề này trong
khoa học pháp lý các nước chưa có quan điểm thống nhất. Song, cùng với các quy
phạm xung đột và quy phạm thực chất thống nhất, các quy phạm thực chất thông
GVHD: Ths.Bùi Thị Mỹ Hương

13

SVTH: Nguyễn Hải Đông


Vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam
thường là quy phạm được áp dụng để điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình
có yếu tố nước ngoài, trong đó có quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Các
quy phạm thực chất này được ghi nhận trong các văn bản pháp luật Việt Nam ban

hành. Ví dụ như Điều 31 Luật nuôi con nuôi năm 2010 quy định “ Giấy tờ, tài liệu
trong hồ sơ của người nhận con nuôi, hồ sơ của tổ chức con nuôi nước ngoài do cơ
quan có thẩm quyền của nước ngoài lập, cấp hoặc xác nhận phải được hợp pháp
hóa lãnh sự khi sử dụng ở Việt Nam, trừ trường hợp được miễn hợp pháp hóa lãnh
sự theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên
hoặc theo nguyên tắc có đi có lại.”. Rõ ràng các quy phạm thực chất trong pháp luật
quốc gia điều chỉnh trực tiếp quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
1.4.2.2 Phương pháp xung đột
Phương pháp xung đột là phương pháp điều chỉnh dựa vào các quy tắc được
ấn định để áp dụng pháp luật của một nước chỉ định nhằm giải quyết quan hệ nuôi
con nuôi có yếu tố nước ngoài phát sinh thông qua các quy phạm xung đột.
Phương pháp xung đột được hình thành và phát triển trên nền tảng hệ thống
các quy phạm xung đột của quốc gia và các quy phạm xung đột trong các điều ước
quốc tế mà quốc gia đó là thành viên.Quy phạm xung đột là quy phạm pháp luật ấn
định pháp luật của nước nào phải được áp dụng để điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi
có yếu tố nước ngoài trong một tình huống cụ thể. Như vậy, quy phạm xung đột là
loại quy phạm pháp luật “dẫn chiếu”, theo đó các cơ quan có thẩm quyền chọn được
hệ thống pháp luật tối ưu để điểu chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài.Khác với các loại quy phạm pháp luật thông thường, quy phạm xung đột được
cấu thành bởi hai bộ phận là phạm vi (tương tự phần “giả định” ) và hệ thuộc (tương
tự phần “ quy định”), không có phần chế tài.
Để giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài, các nước thường sử dụng một số kiểu hệ thuộc cơ bản sau: Luật nhân thân
(lex personalis) bao gồm luật quốc tịch (lex patriae) và luật nơi cư trú (lex
domicili); luật nơi thực hiện hành vi (lex loci astus) và luật toà án (lex fori).
Phương pháp xung đột được áp dụng tương đối phổ biến để điều chỉnh quan
hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Quy phạm xung đột không trực tiếp quy
định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia trong quan hệ nuôi con nuôi có
yếu tố nước ngoài, mà nó chỉ ra việc áp dụng pháp luật của một nước nào đó để điều
chỉnh quan hệ này.

Ví dụ, Khoản 1 Điều 29 Luật nuôi con nuôi 2010 ghi nhận “Người Việt Nam
định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở nước ngoài nhận người Việt

GVHD: Ths.Bùi Thị Mỹ Hương

14

SVTH: Nguyễn Hải Đông


Vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam
Nam làm con nuôi phải có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật nước nơi
người đó thường trú và quy định tại Điều 14 của Luật này”.
Như vậy, phương pháp xung đột áp dụng điều chỉnh về quan hệ nuôi con
nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam là từ các nguồn pháp luật quốc gia và các
điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết hoặc gia nhập với các quốc gia trên
thế giới.
1.4.3 Nguồn luật điều chỉnh
1.4.3.1 Điều ước quốc tế
Hiện nay trong mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước trên thế giới nhất là
các nước trong khu vực Đông Nam Á thì Điều ước quốc tế với tư cách là nguồn luật
điều chỉnh quan trọng trong quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài đặc biệt là quan hệ
nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài đóng vai trò rất quan trọng.
Điều ước quốc tế là văn bản pháp lý thể hiện sự thỏa thuận giữa các chủ thể
pháp luật quốc tế giữa các quốc gia trên cơ sở bình đẳng, tự nguyện nhằm quy định
thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ giữa các bên ký kết trong quan hệ quốc tế sao
cho phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc gia và luật pháp quốc
tế6.
Trong vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài điều ước quốc tế là nguồn
luật quan trọng trong quá trình giải quyết các quan hệ phát sinh trong vấn đề này về

vấn đề xung đột phát luật xãy ra ngày càng nhiều trong lĩnh vực dân sự có yếu tố
nước ngoài vì vậy mà hiện nay Nhà nước ta rất chú trọng trong việc mở rộng quan
hệ hợp tác về nuôi con nuôi với các nước trên thế giới thông qua việc ký kết và gia
nhập các điều ước quốc tế song phương với các quốc gia trong đó có cả Hiệp định
tương trợ tư pháp về vấn đề nuôi con nuôi. Các điều ước quốc tế đã góp phần tích
cực trong việc đề ra các nguyên tắc thỏa thuận áp dụng góp phần hạn chế hiện
tượng xung đột pháp luật xảy ra là cơ sở pháp lý cho việc điều chỉnh quan hệ nuôi
con nuôi có yếu tố nước ngoài ngày càng được hoàn thiện về mặt pháp lý.
Việc áp dụng điều ước quốc tế sẽ được thực hiện theo nguyên tắc ưu tiên áp
dụng, đối với quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài cũng thuộc đối tượng của
luật hôn nhân và gia đình nên áp dụng theo qui định tại Khoản 2 Điều 7 Luật hôn
nhân và gia đình năm 2000 “ Trong trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia có quy định khác thì áp dụng quy
định của điều ước quốc tế.”.
6

Nông Quốc Bình và Nguyễn Hồng Bắc, Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam
trong thời kì hội nhập quốc tế, Nxb Tư pháp Hà Nội, 2006, tr 122.

GVHD: Ths.Bùi Thị Mỹ Hương

15

SVTH: Nguyễn Hải Đông


Vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam
1.4.3.2 Pháp luật quốc gia
Pháp luật quốc gia là loại nguồn khá phổ biến so với các loại nguồn khác,
pháp luật quốc gia bao gồm một hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật: Hiến

pháp, Luật và các văn bản dưới luật.
Quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là một loại quan hệ nằm trong
quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Hiện nay pháp luật Việt Nam điều chỉnh về
quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài như: Bộ luật Dân sự năm 2005; Luật
hôn nhân và gia đình năm 2000; Luật nuôi con nuôi năm 2010; Nghị định
19/2011/NĐ/CP, đây là những cơ sở quan trọng trong vấn đề điều chỉnh phù hợp
đối với các vấn đề phát sinh liên quan đến quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài.
1.4.4 Nguyên tắc điều chỉnh
1.4.4.1 Nguyên tắc luật quốc tịch của đương sự (Lex patriace)
Nguyên tắc luật quốc tịch của đương sự là nguyên tắc được áp dụng phổ biến
trong quan hệ dân sự quốc tế, đặc biệt là trong quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu
tố nước ngoài. Đây là nguyên tắc thường được áp dụng để giải quyết các vấn đề liên
quan đến các chủ thể tham gia vào quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài7.Theo đó, nguyên tắc luật quốc tịch quy định pháp luật của nước mà các bên
mang quốc tịch sẽ được áp dụng nhằm giải quyết vấn đề trong quan hệ dân sự có
yếu tố nước ngoài trong đó có quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
Ngoài các quy định của Bộ luật Dân sự 2005 thì nguyên tắc luật quốc tịch
còn được ghi nhận trong hầu hết các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết, gia nhập
với các quốc gia trên thế giới như: Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi giữa Việt với
Pháp, Đan Mạch, Ai len,…
Trong quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài nói chung và quan hệ nuôi con
nuôi có yếu tố nước ngoài nói riêng thì khi xảy ra hiện tượng xung đột pháp luật thì
Việt Nam cũng áp dụng nguyên tắc luật quốc tịch để giải quyết. Tuy nhiên, việc xác
định quốc tịch của một chủ thể là công dân của quốc gia nào là một vấn đề hết sức
quan trọng, vì nguyên tắc luật quốc tịch chịu sự điều chỉnh của điều ước quốc tế,
pháp luật nước ngoài và cả pháp luật của quốc gia sở tại. Vì vậy, khi quan hệ nuôi
con nuôi phát sinh giữa công dân nước nào thì sẽ áp dụng pháp luật của nước đó để
điều chỉnh.
Tóm lại, việc xác định quốc tịch của các bên đương sự tham gia trong quan


7

Đại học luật Hà Nội, Giáo trình tư pháp quốc tế, Nxb, Đại học quốc gia, Hà Nội, 2001. tr 55.

GVHD: Ths.Bùi Thị Mỹ Hương

16

SVTH: Nguyễn Hải Đông


Vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam
hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là rất cần thiết, nhằm xác định pháp luật của
nước nào sẽ phải được áp dụng để giải quyết về vấn đề hệ nuôi con nuôi có yếu tố
nước ngoài.
1.4.4.2 Nguyên tắc luật nơi cư trú của đương sự ( Lex domicile)
Nguyên tắc luật cư trú của các bên đương sự hiện nay được áp dụng rộng rãi
trong quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài nói chung và quan hệ nuôi con nuôi có
yếu tố nước ngoài nói riêng. Theo nguyên tắc này thì quan hệ dân sự có yếu tố nước
ngoài sẽ được điều chỉnh theo pháp luật của nước mà đương sự có nơi cư
trú.Nguyên tắc này không chỉ áp dụng phổ biến chỉ ở pháp luật trong nước mà còn
được thể hiện trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết với các nước: Hiệp
định hợp tác về nuôi con nuôi giữa Việt Nam với Italia, Đan Mạch, Thụy
Điển…Theo Điều 9 của Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi giữa Việt Nam với
Pháp “Người thường trú trên lãnh thổ của nước ký kết này muốn xin nhận trẻ em là
công dân của nước ký kết kia và thường trú trên lãnh thổ của nước ký kết đó làm
con nuôi phải liên hệ với Cơ quan trung ương của nước ký kết nơi người xin nhận
nuôi thường trú…”
Theo Luật nuôi con nuôi năm 2010 đã ghi nhận liên quan đến vấn đề này

như sau: “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở
nước ngoài nhận người Việt Nam làm con nuôi phải có đủ điều kiện theo quy định
của pháp luật nước nơi người đó thường trú và quy định tại Điều 14 của Luật
này8”. Đây được xem là nguyên tắc cơ bản được áp dụng phổ biến không chỉ ở Việt
Nam mà còn ở các quốc gia khác.Việc áp dụng nguyên tắc này đã góp phần đơn
giản hóa quá trình dẫn chiếu các quy phạm xung đột, góp phần tích cực trong việc
điều chỉnh các mối quan hệ liên quan đến nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài tại
Việt Nam.
1.4.4.3 Nguyên tắc luật Tòa án (Lexfori)
Nguyên tắc luật của nước nơi có tòa án có thẩm quyền được áp dụng trong
nhiều lĩnh vực như: Tố tụng dân sự, kinh doanh thương mại, hôn nhân và gia đình
có yếu tố nước ngoài, cụ thể trong quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
Trong quan hệ này nguyên tắc luật của nước nơi Tòa án có thẩm quyền sẽ được áp
dụng để xác định pháp luật áp dụng để giải quyết các vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố
nước ngoài. Khi đó, để giải quyết các vấn đề liên quan đến việc nuôi con nuôi có
yếu tố nước ngoài thì do Ủy ban nhân dân cấp Tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương) hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã (nếu ở khu vực biên giới) hoặc Cơ quan đại

8

Khoản 1 Điều 29 Luật nuôi con nuôi năm 2010.

GVHD: Ths.Bùi Thị Mỹ Hương

17

SVTH: Nguyễn Hải Đông


Vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam

diện Ngoại giao, Cơ quan đại diện lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài sẽ áp dụng
pháp luật Việt Nam. Ngoài ra, khi quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài phát
sinh có tranh chấp thì Tòa án nhân dân cấp Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
hoặc Tòa án nhân dân cấp huyện nơi cư trú của Công dân Việt Nam (nếu ở khu vực
biên giới) sẽ áp dụng các quy định của pháp luật Việt Nam để giải quyết. Như vậy,
Tòa án Việt Nam được quyền áp dụng nguyên tắc luật của nước nơi có Tòa án có
thẩm quyền để giải quyết tranh chấp phát sinh liên quan đến quan hệ nuôi con nuôi
có yếu tố nước ngoài.
1.5 Lược sử hình thành và phát triển chế định pháp luật về nuôi con nuôi có
yếu tố nước ngoài trong pháp luật Việt nam.
Theo từng thời gian, để phù hợp với sự nghiệp cách mạng của đất nước, phù
hợp với tình hình phát triển của các điều kiện kinh tế, xã hội và thực tế của các quan
hệ hôn nhân và gia đình nói chung và quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước
ngoài nói riêng, trong đó có quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Nhà nước
ta đã kịp thời ban hành các văn bản pháp luật về hôn nhân và gia đình. Hệ thống
pháp luật hôn nhân và gia đình dần được hoàn thiện, là công cụ pháp lý của Nhà
nước ta, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân.
1.5.1 Trước năm 1945
Pháp luật phong kiến nước ta từ thế kỉ XV đến thể kỉ XIX tiêu biểu là hai bộ
luật đó là: Quốc triều hình luật (Bộ luật Hồng Đức được ban hành dưới triều Lê) và
Hoàng Việt luật lệ (còn gọi là Bộ luật Gia Long được ban hành dưới triều Nguyễn).
Hai bộ luật này quy định khá cụ thể việc điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi
trong thời kỳ đó.Thể hiện rõ nét phong tục, tập quán truyền thống của người Việt
Nam về gia đình. Song các bộ luật này cũng không tránh khỏi hạn chế của chế độ
phong kiến đang suy tàn, xu hướng duy trì chế độ phụ hệ vững chắc, triệt tiêu sự
bình đẳng giữa vợ và chồng, giữa con nuôi và con đẻ.
Dưới thời Pháp thuộc, đất nước ta bị chia làm ba kì là Bắc kì, Trung kì và
Nam kì. Sau khi xâm lược Việt Nam và đặt ách đô hộ ở Nam kì, thực dân Pháp đã
ban hành Bộ dân luật giản yếu Nam kì áp dụng ở Nam kì và ba thành phố Hà Nội,
Hải Phòng, Đã Nẵng. Bộ dân luật Bắc kì được ban hành vào ngày 30/03/1931 theo

Nghị Định của Thống sứ Bắc kì để thi hành trên toàn Bắc kì từ ngày 01/07/1931
thay cho Bộ luật Gia Long. Hoàng Việt Trung kì bộ luật được ban hành năm 1939
thi hành trên toàn Trung kì. Về quan hệ gia đình, các bộ luật này đã quy định về vấn
đề nuôi con nuôi, quyền và nghĩa vụ giữa cha, mẹ và con theo mô hình phương Tây.
Song pháp luật dân sự thời kì này có những mặt hạn chế nhất định đó là gia đình

GVHD: Ths.Bùi Thị Mỹ Hương

18

SVTH: Nguyễn Hải Đông


Vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam
vẫn mang nặng tư tưởng phong kiến, trọng nam khinh nữ, nhiều quy định về nghĩa
vụ của con còn rất khắc khe.
1.5.2 Từ năm 1945 đến 1959
Ngay từ khi ra đời, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã quan tâm và coi
trọng việc xây dựng hệ thống pháp luật nhằm củng cố và bảo vệ thành quả của cách
mạng. Tuy chưa có văn bản riêng điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố
nước ngoài nhưng vấn đề này được quy định trong một số văn bản pháp luật khác,
như trong Sắc lệnh số 53/SL ngày 20/10/1945 về quốc tịch Việt Nam. Hiến pháp
năm 1959 là cơ sở pháp lý quan trọng để điều chỉnh quan hệ gia đình trong thời kì
này, tuy nhiên vẫn chưa có quy định cụ thể điều chỉnh trực tiếp quan hệ gia đình có
yếu tố nước ngoài.
Pháp luật trong nước về quan hệ gia đình có yếu tố nước ngoài còn hết sức
đơn giản, chưa tập hợp thành hệ thống. Nhà nước ta chủ trương chưa ban hành văn
bản pháp luật riêng để điều chỉnh trực tiếp quan hệ gia đình có yếu tố nước ngoài
mà chỉ điều chỉnh quan hệ gia đình trong nước theo Hiến pháp 1946.
Quan hệ hợp tác giữa nước Việt Nam dân chủ cộng hoà với các nước chủ

yếu là các nước xã hội chủ nghĩa ở giai đoạn này mới bắt đầu kiến lập và dần được
củng cố. Trong bối cảnh đó, các quan hệ xã hội có yếu tố nước ngoài phát sinh, đòi
hỏi phải được pháp luật điều chỉnh, tuy nhiên vấn đề quan hệ gia đình có yếu tố
nước ngoài chưa phải là yêu cầu bức xúc.
1.5.3 Từ năm 1959 đến 1986
Trong thời kì này, bản Hiến pháp mới của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà
đã được Quốc hội thông qua tại kì họp thứ 11 ngày 31/12/1959, tiếp tục ghi nhận
quyền bình đẳng giữa nam và nữ (Điều 24). Xuất phát từ tình hình thực tế của quan
hệ gia đình trong thời kì mới, Luật hôn nhân và gia đình đã được Quốc hội thông tại
kì họp thứ 11 ngày 29/12/1959.Luật đã điều chỉnh quyền và nghĩa vụ giữa vợ
chồng, giữa cha, mẹ và con.Tuy nhiên, Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 không
có quy phạm điều chỉnh quan hệ gia đình có yếu tố nước ngoài.
Ở miền Bắc, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 04 ngày 16/01/1961 kèm
theo Điều lệ về đăng kí hộ tịch. Ngày 21/06/1961, Bộ nội vụ ban hành Thông tư số
05/NV hướng dẫn thi hành Điều lệ về đăng kí hộ tịch nói trên. Tuy nhiên, trong văn
bản pháp luật này chưa quy định điều chỉnh quan hệ gia đình có yếu tố nước ngoài
đầy đủ nhưng những quy định này sẽ là nền móng cơ bản để chúng ta giải quyết
quan hệ gia đình có yếu tố nước ngoài, đặc biệt là vấn đề con nuôi.Trong giai đoạn
này, một số ít trường hợp người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi đã
GVHD: Ths.Bùi Thị Mỹ Hương

19

SVTH: Nguyễn Hải Đông


Vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam
được giải quyết. Do vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài không được cụ thể
hoá trong các văn bản pháp luật nói trên nên khi giải quyết các việc này các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền của ta còn gặp nhiều khó khăn và lúng túng.

Ở miền Nam, cũng trong giai đoạn này, chính quyền Nguỵ Sài Gòn đã ban
hành Bộ dân luật ngày 20/12/1972.Trong Bộ dân luật này đã quy định về quan hệ
hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài nói chung và quan hệ nuôi con nuôi có
yếu tố nước ngoài nói riêng. Điều 248 Bộ dân luật Sài Gòn có quy định về vấn đề
nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, theo quy định này thì “Người Việt Nam có thể
lập người ngoại quốc làm con nuôi hay làm con nuôi của người ngoại quốc”.
Sau khi đất nước thống nhất, quan hệ hợp tác giữa Việt Nam với các nước
ngày càng được mở rộng, do đó đã làm phát sinh ngày càng nhiều các quan hệ gia
đình có yếu tố nước ngoài, đòi hỏi phải được pháp luật điều chỉnh ngay. Để xử lý
tình hình này, Việt Nam đã tiến hành đàm phán và kí kết các hiệp định tương trợ tư
pháp với Cộng hoà dân chủ Đức (1980) , Liên Xô (1981), Tiệp Khắc (1982), Cu Ba
(1984)…Các hiệp định này đã tạo lập một khung pháp lí khá hoàn chỉnh điều chỉnh
quan hệ gia đình có yếu tố nước ngoài như quan hệ pháp lí giữa vợ chồng, giữa cha
mẹ và con; vấn đề nuôi con nuôi; vấn đề xung đột pháp luật và xung đột thẩm
quyền được giải quyết khá cụ thể.
1.5.4 Từ năm 1986-2000
Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nước ta
bước sang một thời kỳ mới, chuyển dần sang nền kinh tế thị trường theo định hướng
xã hội chủ nghĩa.Trước những thay đổi mới to lớn của đất nước, Nhà nước ta đã ban
hành nhiều văn bản pháp luật kịp thời điều chỉnh những quan hệ mới phát sinh. Luật
hôn nhân và gia đình năm 1986 ra đời, trong thời kỳ đổi mới đất nước, kế thừa
những nguyên tắc dân chủ và tiến bộ của chế độ hôn nhân gia đình mới được thể
chế hoá trong Luật hôn nhân và gia đình năm 1959. Đã góp phần vào việc xây dựng
và củng cố chế độ gia đình xã hội chủ nghĩa, giữ gìn và phát huy những phong tục
tập quán, truyền thống tốt đẹp về hôn nhân và gia đình, từng bước nâng cao nhận
thức và ý thức của nhân dân trong việc thi hành các quy định của Luật hôn nhân và
gia đình. Về cơ bản, Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 kế thừa và tiếp tục phát
huy những thành tựu lập pháp của Luật hôn nhân và gia đình năm 1959, đồng thời
bổ sung những chế định quan trọng phù hợp với giai đoạn phát triển mới. Lần đầu
tiên trong lịch sử pháp luật hôn nhân và gia đình, Nhà nước ta đã dành một chương

riêng (Chương IX) để quy định về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước
ngoài.Trong chương này, các quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài
được quy định tại Điều 52, 53 và 54. Đây là bước phát triển mới của Luật hôn nhân
GVHD: Ths.Bùi Thị Mỹ Hương

20

SVTH: Nguyễn Hải Đông


×