Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

quy chế pháp lý về bảo hiểm cháy, nổ đối với hàng hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.16 MB, 91 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT



LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
KHÓA 37 (2011 – 2015)

QUY CHẾ PHÁP LÝ VỀ BẢO HIỂM CHÁY, NỔ
ĐỐI VỚI HÀNG HÓA

Giảng viên hướng dẫn:
ĐOÀN NGUYỄN MINH THUẬN
BỘ MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI

Sinh viên thực hiện:
NGUYỄN THỊ CẨM TIÊN
MSSV: 5116030
LỚP: LUẬT THƯƠNG MẠI 2-K37

Cần Thơ, 11/2014


Luận văn tốt nghiệp-Quy chế pháp lý về bảo hiểm cháy, nổ đối với hàng hóa

LỜI CẢM ƠN
Gần bốn năm học thắm thoát cũng đã trôi qua, thời gian đại
học đã dần khép lại lưu giữ bao kỷ niệm của thời sinh viên, hành
trang mỗi chúng ta mang theo khi rồi ghế giảng đường là những tri
thức mà Thầy Cô đã tận tình truyền đạt.
Lời cảm ơn thứ nhất em xin gửi đến cha mẹ, người đã sinh ra


em, nuôi em khôn lớn, dìu dắt em trưởng thành để có một tương lai
tươi sáng như ngày hôm nay. Lời cảm ơn thứ hai em xin được gửi
đến chị gái em, người không quản bao khó nhọc làm lượm vất vả nơi
xứ người để nuôi em ăn học. Lời cảm ơn thứ ba em xin gửi đến quý
Thầy Cô khoa Luật – Đại Học Cần Thơ đã mang đến cho em nguồn
kiến thức quý báo và những bài học làm người đáng quý.
Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến Cô Đoàn
Nguyễn Minh Thuận đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em rất nhiều
trong quá trình nghiên cứu luận văn tốt nghiệp này. Bằng tất cả lòng
chân thành, em xin chúc quý Thầy Cô luôn có thật nhiều sức khỏe và
thành công trong sự nghiệp giảng dạy.

GVHD:Đoàn Nguyễn Minh Thuận

SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Tiên


Luận văn tốt nghiệp-Quy chế pháp lý về bảo hiểm cháy, nổ đối với hàng hóa

NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
…………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………

………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………

GVHD:Đoàn Nguyễn Minh Thuận

SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Tiên


Luận văn tốt nghiệp-Quy chế pháp lý về bảo hiểm cháy, nổ đối với hàng hóa


NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN PHẢN BIỆN
…………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………

………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………

GVHD:Đoàn Nguyễn Minh Thuận

SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Tiên


Luận văn tốt nghiệp-Quy chế pháp lý về bảo hiểm cháy, nổ đối với hàng hóa
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ………………………………………………………………………..1
1. Lý do nghiên cứu đề tài ……………………………………………………………1
2. Phạm vi nghiên cứu ……………………………………………………………......2
3. Mục đích nghiên cứu ………………………………………………………………2
4. Phương pháp nghiên cứu ……………………………………………………….....2
5. Bố cục đề tài ………………………………………………………………………..3
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM CHÁY, NỒ ĐỐI VỚI HÀNG
HÓA …………………………………………………………………………………...4
1.1. Lý luận chung về bảo hiểm cháy, nổ đối với hàng hóa ……………………..4
1.1.1. Khái niệm bảo hiểm cháy, nổ đối với hàng hóa ………………………………4
1.1.2. Đặc điểm bảo hiểm cháy, nổ đối với hàng hóa ……………………………….7
1.1.3. Hợp đồng bảo hiểm cháy, nổ đối với hàng hóa ……………………………….9
1.1.3.1. Khái niệm …………………………………………………………….......9
1.1.3.2. Đặc điểm …………………………………………………………………9
1.1.3.3. Nguyên tắc thực hiện ……………………………………………………14
1.1.3.4. Điều kiện có hiệu lực ……………………………………………………14
1.2. Sự cần thiết của bảo hiểm cháy, nổ đối với hàng hóa ………………………...16
1.2.1. Đối với người tham gia bảo hiểm ……………………………………………17
1.2.2. Đối với doanh nghiệp bảo hiểm ……………………………………………..19

1.2.3. Đối với nền kinh tế …………………………………………………………..20
1.3. Pháp luật điều chỉnh về bảo hiểm cháy, nổ đối với hàng hóa ………………..21
CHƯƠNG 2: PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM CHÁY, NỒ ĐỐI VỚI HÀNG HÓA
2.1. Đối tượng và phạm vi bảo hiểm ……………………………………………….24
2.1.1. Đối tượng bảo hiểm ………………………………………………………….24
2.1.2. Phạm vi bảo hiểm ……………………………………………………………25
2.2. Số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm ……………………………………………..29
2.2.1. Số tiền bảo hiểm ……………………………………………………………..29
2.2.2. Phí bảo hiểm …………………………………………………………………32
2.3. Giám định và bồi thường tổn thất ……………………………………………..34
2.3.1. Giám định tổn thất …………………………………………………………...34
2.3.2. Bồi thường tổn thất…………………………………………………………...35
2.4. Quyền và nghĩa vụ cơ bản của các bên trong hợp đồng bảo hiểm cháy, nổ đối
với hàng hóa …………………………………………………………………………38
GVHD:Đoàn Nguyễn Minh Thuận

SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Tiên


Luận văn tốt nghiệp-Quy chế pháp lý về bảo hiểm cháy, nổ đối với hàng hóa
2.4.1. Bên mua bảo hiểm cháy, nổ…………………………………………………..38
2.4.1.1. Quyền của bên mua bảo hiểm …………………………………………..38
2.4.1.2. Nghĩa vụ của bên mua bảo hiểm………………………………………...41
2.4.2. Doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm………………………………………….45
2.4.2.1. Quyền của doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm………………………….45
2.4.2.2. Nghĩa vụ của doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm………………………48
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN
CHẾ ĐỊNH BẢO HIỂM CHÁY, NỔ ĐỐI VỚI HÀNG HÓA ……………………52
3.1. Vấn đề về xử lý hợp đồng bảo hiểm trong trường hợp có gian dối ………….52
3.1.1. Thực trạng……………………………………………………………………52

3.1.2. Kiến nghị……………………………………………………………………..53
3.2. Vấn đề xử lý phí bảo hiểm khi chấm dứt hợp đồng bảo hiểm trước thời hạn54
3.2.1. Thực trạng……………………………………………………………………54
3.2.2. Kiến nghị …………………………………………………………………….56
3.3. Vấn đề về yếu tố làm cơ sở xác định tăng giảm phí bảo hiểm ……………….57
3.3.1. Thực trạng …………………………………………………………………...57
3.3.2. Kiến nghị …………………………………………………………………….57
3.4. Vấn đề điều kiện mua bảo hiểm và việc công khai danh sách cơ sở đạt chuẩn
phải mua bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc……………………………………………...58
3.4.1. Thực trạng …………………………………………………………………...58
3.4.2. Kiến nghị……………………………………………………………………..60
3.5. Vấn đề về phí bảo hiểm cháy, nổ ………………………………………………61
3.5.1. Thực trạng……………………………………………………………………61
3.5.2. Kiến nghị……………………………………………………………………..62
KẾT LUẬN ………………………………………………………………………….64
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

GVHD:Đoàn Nguyễn Minh Thuận

SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Tiên


Luận văn tốt nghiệp-Quy chế pháp lý về bảo hiểm cháy, nổ đối với hàng hóa
LỜI NÓI ĐẦU

1. Lý do nghiên cứu đề tài
Từ xa xưa, tổ tiên của chúng ta đã hiểu rõ tầm quan trọng của lửa, lửa dùng
để nấu chín thức ăn, để sưởi ắm khi trời trở lạnh và để làm rất nhiều công việc
khác phục vụ sinh hoạt và dường như lửa là người bạn rất nồng ấm của con người

chúng ta.
Tuy nhiên khi lửa vượt ra khỏi tầm kiểm soát của con người, lửa không còn
vẻ thân thiện vốn có của nó nữa, nó sẽ gây ra những vụ cháy, nổ lớn, những thảm
họa ngoài sức tưởng tượng của con người. Mặc dù có rất nhiều biện pháp phòng
cháy chữa cháy nhưng hằng năm vẫn xảy ra nhiều vụ cháy lớn. Theo thống kê
của Bộ Công an, trong 10 năm trở lại đây, cả nước đã xảy ra 16.767 vụ cháy ở các
nhà máy, xí nghiệp, kho tàng, cơ quan, trường học, bệnh viện, nhà dân và 6.109
vụ cháy rừng, làm chết 688 người, bị thương 1.848 người,1 về tài sản ước tính trị
giá 4.187 tỷ đồng và 42.332 ha rừng có giá trị kinh tế. Như vậy, trung bình mỗi
năm xảy ra 1.677 vụ cháy, làm chết và bị thương 254 người (chết khoảng 60
người mỗi năm), thiệt hại về tài sản trị giá 419 tỷ đồng, trung bình mỗi ngày xảy
ra 6 vụ cháy, làm chết hoặc bị thương 8 người,làm bao nhiêu người lâm vào cảnh
lầm than, mất nhà, mất tài sản, mất người thân. Đặc biệt là những thương nhân,
khi hỏa hoạn xảy ra sẽ thiêu rụi hết tất cả tài sản của họ, thương nhân phải đứng
trước bờ vực có nguy cơ mất trắng những tài sản có giá trị lớn kể cả hàng hóa,
việc khôi phục sản xuất trở lại là điều vô cùng khó khăn, trong trường hợp xấu
nhất là phá sản. Thời gian vừa qua đã xảy ra nhiều vụ cháy chợ, khu công nghiệp
lớn như Trung tâm thương mại Hải Dương, chợ Quảng Ngãi, chợ Phố Hiến –
Hưng Yên, khu công nghiệp Quang Minh, nhà máy pháo hoa Phú Thọ.
Trong những mất mát đó thiệt hại về con người là không có gì bù đắp được,
nhưng những thiệt hại về tài sản chúng ta hoàn toàn có thể bù đắp được bằng cách
tham gia bảo hiểm cháy, nổ cho hàng hóa. Tuy không thể bù đắp được những mất
mát về tinh thần và con người, nhưng bảo hiểm cháy nổ sẽ giúp thương nhân khôi
phục đời sống, sản xuất kinh doanh. Đó là một vai trò rất quan trọng của bảo
hiểm cháy, nổ đối với hàng hóa.
Vậy mà không phải ai cũng nhận thấy được lợi ích từ việc tham gia bảo
hiểm cháy, nổ trong việc bảo vệ an toàn cho hàng hóa, nhiều thương nhân vẫn tìm
1

A.Th, Bảo hiểm cháy nổ - Đã đến lúc cần nhìn nhận đúng

[truy cập ngày 21/11/2014].

GVHD:Đoàn Nguyễn Minh Thuận

Trang 1

SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Tiên


Luận văn tốt nghiệp-Quy chế pháp lý về bảo hiểm cháy, nổ đối với hàng hóa
cách né tránh việc tham gia bảo hiểm cháy, nổ khi hàng hóa của họ thuộc danh
mục phải mua bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc. Kinh doanh bảo hiểm nói chung và
bảo hiểm cháy, nổ đối với hàng hóa nói riêng là một lĩnh vực khá đa dạng và
phức tạp, nếu không có một hệ thống pháp luật hoàn thiện để điều chỉnh thì
không những ảnh hưởng quyền lợi của các chủ thể tham gia mà còn không thực
hiện được những chủ trương chính sách của Nhà nước trong hoạt động phòng
cháy chữa cháy.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, cùng với kiến thức đã học,
người viết chọn đề tài: “Quy chế pháp lý về bảo hiểm cháy nổ đối với hàng
hóa” làm luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Phạm vi nghiên cứu
Trong luận văn này, người viết tập trung nghiên cứu các quy định của pháp
luật điều chỉnh vấn đề bảo hiểm cháy, nổ đối với hàng hóa bao gồm bảo hiểm
cháy nổ tự nguyện và bảo hiểm cháy nổ bắt buộc. Cụ thể là nghiên cứu các quy
định của pháp luật về đối tượng, phạm vi bảo hiểm, vấn đề số tiền bảo hiểm, phí
bảo hiểm, vấn đề giám định và bồi thường tổn thất cũng như quyền và nghĩa vụ
của thương nhân với tư cách là bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp kinh doanh
bảo hiểm. Từ đó liên hệ đến thực tiễn và đưa ra những kiến nghị nhằm góp phần
hoàn thiện các quy định của pháp luật giúp cho bảo hiểm cháy, nổ ngày càng phát
triển.

3. Mục đích nghiên cứu
Trong nghiên cứu này, người viết làm rõ các quy định của pháp luật điều
chỉnh các vấn đề của bảo hiểm cháy, nổ đối với hàng hóa, thông qua đó bảo vệ
quyền lợi của các bên khi tham gia bảo hiểm đồng thời xem xét tính chính xác,
đúng đắn và hiệu quả của các quy định. Từ cơ sở đó, người viết ghi nhận những
điểm chưa phù hợp, chưa rõ ràng và đưa ra những kiến nghị đối với những bất
cập đang tồn tại. Mục đích lớn nhất của việc nghiên cứu này là đóng góp một
phần nhỏ vào việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý để bảo vệ quyền lợi của
bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm trong hoạt động bảo
hiểm cháy, nổ đối với hàng hóa một cách hiệu quả nhất.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, người viết sử dụng các phương pháp như phân
tích luật viết, phương pháp lịch sử, phương pháp liệt kê, phương pháp so sánh
tổng hợp, phương pháp thu thập và xử lý thông tin, nghiên cứu thêm nhiều tài liệu
để trang bị thêm kiến thức. Có nghĩa là trên cơ sở quy định của pháp luật, người
viết vận dụng kiến thức mình đã được học để phân tích làm sáng tỏ vấn đề, giải
GVHD:Đoàn Nguyễn Minh Thuận

Trang 2

SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Tiên


Luận văn tốt nghiệp-Quy chế pháp lý về bảo hiểm cháy, nổ đối với hàng hóa
thích và chỉ rõ các ưu điểm cũng như tồn tại trong quy định pháp luật trong bảo
hiểm cháy, nổ. Ngoài ra, người viết thu tập những sự kiện và thống kê các số liệu
thực tế để chứng minh cho vấn đề đã nêu đồng thời đưa ra cái nhìn tổng quát
đúng bản chất vấn đề.
5. Bố cục đề tài
Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ lục,

luận văn được chia làm ba chương:
Chương 1: Lý luận chung về bảo hiểm cháy, nổ đối với hàng hóa. Ở
chương này, người viết đề cập đến khái niệm, đặc điểm và hợp đồng của bảo
hiểm cháy, nổ đối với hàng hóa từ đó nêu lên sự cần thiết của loại hình bảo hiểm
này đối với các chủ thể tham gia và cả nền kinh tế. Đồng thời người viết cũng đã
trình bày khái quát vấn đề pháp luật điều chỉnh bảo hiểm cháy, nổ nói chung và
bảo hiểm cháy, nổ đối với hàng hóa nói riêng. Điều đó nhằm giúp cả người viết
và người đọc nắm được quá trình hình thành những quy định của pháp luật điều
chỉnh để dễ dàng tiếp cận chương 2 của luận văn.
Chương 2: Pháp luật về bảo hiểm cháy, nổ đối với hàng hóa. Chương 2
này, người viết đi sâu vào phân tích những quy định của pháp luật về đối tượng,
phạm vi, số tiền và phí bảo hiểm, kể cả các quy định về giám định và bồi thường
tổn thất. Đặc biệt quan trọng là người viết còn đề cập đến các quy định của pháp
luật về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng bảo hiểm cháy, nổ đối với
hàng hóa. Từ việc phân tích các nội dung trên sẽ giúp cho người viết đưa ra
những mặt còn tồn tại của pháp luật về bảo hiểm cháy, nổ đối với hàng hóa. Đó
cũng chính là cơ sở để người viết đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện những
quy định của pháp luật ở chương 3.
Chương 3: Thực trạng và kiến nghị nhằm hoàn thiện chế định bảo hiểm
cháy, nổ đối với hàng hóa. Trong chương cuối này, người viết dựa trên những cơ
sở lý luận chung ở chương 1, kết hợp với việc phân tích pháp luật ở chương 2 và
đối chiếu những vấn đề đang còn tồn tại của pháp luật so với điều kiện thực tế khi
áp dụng, người viết đã đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện hơn quy
định về bảo hiểm cháy, nổ.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, với sự nỗ lực của bản thân nhưng do hạn
chế về thời gian, tài liệu cũng như lần đầu tiên người viết nghiên cứu một đề tài
khoa học nên không thể tránh khỏi những thiếu sót. Người viết rất mong nhận
được sự đóng góp ý kiến của quý Thầy Cô và các bạn để cho luận văn được hoàn
thiện hơn.


GVHD:Đoàn Nguyễn Minh Thuận

Trang 3

SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Tiên


Luận văn tốt nghiệp-Quy chế pháp lý về bảo hiểm cháy, nổ đối với hàng hóa

CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM CHÁY, NỔ
ĐỐI VỚI HÀNG HÓA
Nhu cầu an toàn đối với các cá nhân và tổ chức trong xã hội là vĩnh cửu.
Lúc nào con người cũng tìm cách để bảo vệ chính bản thân và tài sản của mình
trước những bất hạnh của số phận và những biến cố bất ngờ xảy ra trong sản xuất
kinh doanh. Để tránh những rủi ro không lường trước được, bảo hiểm ra đời như
một giải pháp tối ưu mang đến sự an toàn, khắc phục những tổn thất mà rủi ro
mang lại.
Với sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa ở mức độ cao thành nền kinh tế
thị trường, hoạt động bảo hiểm với tư cách là một dịch vụ tài chính ngày càng
phát triển thành một ngành kinh doanh đặc biệt. Nguồn gốc phát sinh của hoạt
động bảo hiểm chính là sự tồn tại của các rủi ro trong thực tế. Xã hội con người
ngày càng phát triển, nhu cầu của con người ngày càng cao do đó họ không chỉ
muốn mang đến an toàn cho bản thân và gia đình mà còn muốn xóa bỏ rủi ro cho
công việc kinh doanh nên từ đó bảo hiểm hàng hóa ra đời. Thực tế cho thấy có rất
nhiều loại rủi ro và tổn thất có thể ảnh hưởng đến sự an toàn của hàng hóa, cháy
nổ cũng là một trong những rủi ro luôn tìm ẩn gây thiệt hại không nhỏ đối với
thương nhân. Bảo hiểm cháy, nổ cần được thương nhân lựa chọn để bảo vệ cho
hàng hóa của họ.
1.1. Lý luận chung về bảo hiểm cháy, nổ đối với hàng hóa
1.1.1. Khái niệm bảo hiểm cháy, nổ đối với hàng hóa

Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000, sửa đổi, bổ sung năm 2010 không đưa
khái niệm thế nào là bảo hiểm cháy, nổ đối với hàng hóa song có thể hiểu vấn đề
này thông qua một số thuật ngữ sau: “ cháy, nổ”, “hàng hóa”.
Người ta cho rằng nhà bác học người Nga Mikhain – Valixếp – Lômônôxốp
(1711 – 1765) là người có giải thích đúng đắn về sự cháy. Theo ông: “Cháy là
một phản ứng hóa học có tỏa nhiệt và chiếu sáng”. Nó được đặc trưng bởi ba yếu
tố là có sự biến đổi hóa học – tỏa nhiệt – phát ra ánh sáng.
Quá trình nghiên cứu sau Lômônôxốp, người ta nhận thấy cháy không chỉ
cháy với oxy mà còn có thể cháy trong môi trường của những chất oxy hóa khác
như: Clo, Brôm, Lưu huỳnh. Do vậy ngày nay người ta đã định nghĩa: “Cháy là
tổng hợp của các quá trình biến đổi lý hóa phức tạp có tỏa nhiệt và phát ra ánh
GVHD:Đoàn Nguyễn Minh Thuận

Trang 4

SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Tiên


Luận văn tốt nghiệp-Quy chế pháp lý về bảo hiểm cháy, nổ đối với hàng hóa
sáng”.
Theo Luật phòng cháy chữa cháy Số 27/2001 thì “Cháy được hiểu là trường
hợp xảy ra cháy không kiểm soát được có thể gây thiệt hại về người, tài sản và
ảnh hưởng môi trường.”2 Cách hiểu này là phù hợp vì theo quan niệm thông
thường, lửa phải đến một mức độ nào đó mới gọi là một vụ cháy. Lửa phải đến
mức độ không kiểm soát được và làm hư hại hàng hóa hoặc gián đoạn quá trình
vận chuyển, lưu kho.
Nổ là phản ứng hóa học gây ra việc giải phóng khí và năng lượng đột ngột
với khối lượng lớn đồng thời phát ra âm thanh và ảnh hưởng vật lý đến các vật
xung quanh.3 Nổ có nhiều hiện tượng, cơ bản có hai loại chính là nổ lý học và nổ
hóa học. Nổ lý học là trường hợp nổ do áp xuất trong một thể tích tăng lên quá

cao, vỏ thể tích không chịu được áp lực nên bị nổ. Nói một cách khác có thể coi
hiện tượng nổ là một việc san bằng bất thình lình sự khác nhau về áp lực giữa hai
khối khí. Nổ hóa học là hiện tượng nổ do cháy quá nhanh (một phần nghìn hay
một phần vạn giây đồng hồ) tỏa ra nhiều sức nóng, sinh ra nhiều hơi.4 Nổ có đủ
ba dấu hiệu của sự cháy đó là có phản ứng hóa học, có tỏa nhiệt và phát ra ánh
sáng. Vì vậy nổ hóa học thực chất cũng là hiện tượng cháy nhưng cháy với tốc độ
nhanh. Cho nên trong bảo hiểm thường ghép chung lại là bảo hiểm cháy, nổ.
Theo giáo trình những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác – Lênin, “hàng
hóa là sản phẩm của lao động, thỏa mãn một nhu cầu nào đó của con người thông
qua trao đổi, mua bán”. Hàng hóa có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị
trao đổi.5 Giá trị sử dụng của hàng hóa là công dụng của hàng hóa có thể thỏa
mãn một nhu cầu nào đó cho việc sản xuất hoặc tiêu dùng cá nhân. Giá trị trao
đổi là sự tương quan về số lượng, là tỉ lệ giữa hàng hóa này với hàng hoá khác
trong trao đổi.
Khái niệm hàng hóa cũng được ghi nhận trong luật pháp các quốc gia trên
thế giới hiện nay, mặc dù có những nét khác biệt song điều có xu hướng mở rộng
các đối tượng là hàng hóa được phép lưu thông trên thị trường. Theo pháp luật
thương mại của đa số các nước và trong nhiều điều ước quốc tế (như Hiệp định
GATT, Hiệp định thành lập khối thị trường chung Châu Âu, Công ước Viên năm
2

Khoản 1 Điều 3 Luật phòng cháy chữa cháy số 27/2001.
Khoản 4 Điều 4 Thông tư 220/2010/TT-BTC ngày 30 tháng 12 năm 2010 Hướng dẫn thực hiện chế độ
bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc.
4
Trương Mộc Lâm, Những vấn đề cơ bản về bảo hiểm hàng hóa, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2002, trang 64.
5
Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009,
trang 190-191.
3


GVHD:Đoàn Nguyễn Minh Thuận

Trang 5

SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Tiên


Luận văn tốt nghiệp-Quy chế pháp lý về bảo hiểm cháy, nổ đối với hàng hóa
1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế) hàng hóa là đối tượng của mua bán
thương mại được hiểu bao gồm những loại tài sản có hai thuộc tính cơ bản là: có
thể đưa vào lưu thông và có tính chất thương mại. Theo pháp luật Mỹ, hàng hóa
bao gồm mọi thứ có thể dịch chuyển được vào thời gian xác định theo hợp đồng
mua bán hàng hóa, nó có thể ở hiện tại hoặc tương lai.6
Theo pháp luật Việt Nam, Luật thương mại năm 1997 quy định, hàng hóa
bao gồm: “máy móc, thiết bị, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, hàng tiêu dùng, các
động sản khác được lưu thông trên thị trường, nhà ở dùng để kinh doanh dưới
hình thức cho thuê, mua, bán”7. Khái niệm hàng hóa theo cách hiểu này hẹp hơn
so với quan niệm phổ biến trên thế giới. Khắc phục sự bất cập của Luật thương
mại năm 1997 về khái niệm hàng hóa, Luật thương mại năm 2005 đã quy định: “
Hàng hóa bao gồm: Tất cả các loại động sản, kể cả các loại động sản hình thành
trong tương lai, những vật gắn liền với đất đai”.8 Thế thì động sản là gì thì Điều
174 Bộ luật Dân sự 2005 đã có quy định: “Động sản là những tài sản không phải
là bất động sản. Bất động sản bao gồm đất đai, các tài sản gắn liền với đất đai,
các tài sản gắn liền với nhà ở hay công trình xây dựng đó, các tài sản khác gắn
liền với đất đai và các tài sản khác do pháp luật quy định”. Như vậy động sản
hình thành trong tương lai cũng là hàng hóa. Thế thì hàng hóa ở đây có thể là
hàng hóa hiện đang tồn tại hoặc hàng hóa sẽ có trong tương lai.
Tuy nhiên không phải tất cả những gì được gọi là hàng hóa điều là đối
tượng của hợp đồng bảo hiểm cháy, nổ đối với hàng hóa. Bởi lẽ trong thực tế, khi

đối tượng của hợp đồng là vật chưa hình thành vào thời điểm giao kết thì hợp
đồng đó không thể được xác lập trong bảo hiểm tài sản. Cụ thể hơn là đối tượng
của hợp đồng bảo hiểm tài sản nói chung hay hợp đồng bảo hiểm cháy, nổ đối với
hàng hóa nói riêng phải là hàng hóa có thực. Nó được suy ra từ quy định về đối
tượng hợp đồng bảo hiểm tài sản tại Điều 40 Luật kinh doanh bảo hiểm năm
2000, sửa đổi bổ sung năm 2010 “Đối tượng của hợp đồng bảo hiểm tài sản là tài
sản, bao gồm vật có thực”. Hàng hóa được đề cập trong đề tài này là động sản có
thực, không bao gồm động sản hình thành trong tương lai mà trong quá trình sản
xuất, lưu kho, vận chuyển có thể gặp những rủi ro như cháy, nổ. Cho nên, chủ sở
hữu hàng hóa hoặc người chủ sở hữu ủy quyền nên mua bảo hiểm cháy, nổ cho
hàng hóa để chuyển giao rủi ro cho doanh nghiệp bảo hiểm.

6

Dương Kim Thế Nguyên,Giáo trình Luật thương mại 1A, trường Đại học Cần Thơ, 2006, trang 21.
Khoản 3 Điều 5 Luật thương mại năm 1997.
8
Khoản 3 Điều 3 Luật thương mại năm 2005.
7

GVHD:Đoàn Nguyễn Minh Thuận

Trang 6

SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Tiên


Luận văn tốt nghiệp-Quy chế pháp lý về bảo hiểm cháy, nổ đối với hàng hóa
Tóm lại, bảo hiểm cháy, nổ đối với hàng hóa trong phạm vi nghiên cứu này
được hiểu là một loại hình bảo hiểm mà theo đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp

nhận các rủi ro về hàng hóa của bên mua bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm
đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường cho người được bảo
hiểm khi xảy ra cháy, nổ.
1.1.2. Đặc điểm của bảo hiểm cháy, nổ đối với hàng hóa
 Giới hạn trách nhiệm theo giá trị hàng hóa
Hàng hóa chỉ có thể được bảo hiểm khi xác định được giá trị của nó. Trường
hợp giá trị hàng hóa không thể xác định trực tiếp bằng thước đo giá cả thị trường
thông thường, giá cả sẽ được ước tính bằng các phương pháp thỏa thuận thích
hợp với từng loại đối tượng thích hợp với từng loại hàng hóa. Giá trị của đối
tượng bảo hiểm là một yếu tố cơ bản quyết định đến việc thỏa thuận về số tiền
bảo hiểm của hợp đồng bảo hiểm. Về nguyên tắc, doanh nghiệp bảo hiểm chỉ
chấp nhận giao kết hợp đồng bảo hiểm với số tiền bảo hiểm tối đa bằng giá trị đối
tượng bảo hiểm. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn xuất hiện các hiện tượng bảo hiểm
trên giá trị và bảo hiểm dưới giá trị.9 Vấn đề này người viết sẽ trình bày cụ thể
hơn ở 2.2.1. Số tiền bảo hiểm, chương 2.
 Áp dụng nguyên tắc bồi thường
Để ngăn ngừa trục lợi, bồi thường của hợp đồng bảo hiểm không được tạo
ra cơ hội kiếm lời hoặc có lợi bất hợp lý cho các bên liên quan đến sự kiện bảo
hiểm. Cho nên, số tiền bồi thường mà người được bảo hiểm có thể nhận được
trong mọi trường hợp không lớn hơn thiệt hại của họ trong sự kiện bảo hiểm.
Nghĩa là doanh nghiệp bảo hiểm chỉ có thể chi trả số tiền bồi thường tương ứng
với thiệt hại thực tế xảy ra. Ví dụ như một doanh nghiệp A sản xuất giầy da mua
bảo hiểm cháy, nổ cho toàn bộ số hàng trong xưởng giầy da của mình là 10 tỷ
đồng. Sau một vụ cháy, tổn thất thực tế là 4 tỷ đồng, nên số tiền bồi thường mà
doanh nghiệp A nhận được từ phía doanh nghiệp bảo hiểm trong trường hợp này
là 4 tỷ đồng.

9

Võ Thị Pha, Giáo trình lý thuyết bảo hiểm, Nxb Tài Chính, Hà Nội, 2005, trang 93.


GVHD:Đoàn Nguyễn Minh Thuận

Trang 7

SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Tiên


Luận văn tốt nghiệp-Quy chế pháp lý về bảo hiểm cháy, nổ đối với hàng hóa
 Áp dụng nguyên tắc thế quyền
Trong trường hợp người thứ ba có lỗi gây thiệt hại cho người được bảo
hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm đã trả tiền bồi thường cho người được bảo hiểm
thì người được bảo hiểm phải chuyển quyền yêu cầu người thứ ba bồi hoàn khoản
tiền mà mình đã nhận bồi thường cho doanh nghiệp bảo hiểm.10 Quy định này
nhằm bảo vệ quyền lợi cho người được bảo hiểm, đồng thời ngăn cản người có
hành vi gây thiệt hại mà không chịu trách nhiệm khi có lỗi. Ngoài ra, quy định
này còn kiểm soát được trường hợp người mua bảo hiểm vừa đòi tiền người thứ
ba bồi thường, đồng thời vừa nhận tiền bồi thường của doanh nghiệp bảo hiểm.
Thế thì người mua bảo hiểm sẽ cùng lúc nhận được cả hai khoản tiền, đó là nguồn
thu nhập bất hợp pháp.
Tuy nhiên, nguyên tắc thế quyền có một số ngoại lệ. Đó là khi người thứ ba
gây thiệt hại là cha, mẹ, vợ, chồng, con, anh, chị, em ruột của người được bảo
hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm không được yêu cầu họ bồi hoàn khoản tiền mà
doanh nghiệp bảo hiểm đã trả cho người được bảo hiểm, trừ trường hợp những
người này cố ý gây ra thiệt hại.11
 Bảo hiểm trùng
Bảo hiểm trùng là trường hợp đối tượng bảo hiểm được bảo hiểm đồng thời
bằng nhiều hợp đồng bảo hiểm, phạm vi bảo hiểm của các hợp đồng bảo hiểm có
một hoặc nhiều sự kiện được bảo hiểm giống nhau.12
Xuất phát từ lợi ích kinh tế của bên mua bảo hiểm mà bảo hiểm trùng ra đời.

Họ cho rằng khi giao kết nhiều hợp đồng bảo hiểm thì khi xảy ra sự kiện bảo
hiểm họ sẽ nhận được số tiền bồi thường nhiều hơn giá trị của hàng hóa mua bảo
hiểm. Tuy nhiên Luật kinh doanh bảo hiểm đã điều chỉnh vấn đền này, khoản 2
Điều 44 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000, sửa đổi, bổ sung năm 2010 có quy
định: “Trong trường hợp các bên giao kết hợp đồng bảo hiểm trùng, khi xảy ra sự
kiện bảo hiểm, mỗi doanh nghiệp bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm bồi thường theo
tỷ lệ giữa số tiền bảo hiểm đã thỏa thuận trên tổng số tiền bảo hiểm của tất cả các
hợp đồng mà bên mua bảo hiểm đã giao kết. Tổng số tiền bồi thường của các
doanh nghiệp bảo hiểm không được vượt quá giá trị thiệt hại thực tế của tài sản”.
Quy định này đã góp phần giúp cho các doanh nghiệp bảo hiểm giảm được số
10

Khoản 1 Điều 49 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000, sửa đổi bổ sung năm 2010.
Khoản 3 Điều 49 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000, sửa đổi bổ sung năm 2010.
12
Võ Thị Pha, Giáo trình lý thuyết bảo hiểm, Nxb Tài chính, Hà Nội, 2005, trang 96-97.
11

GVHD:Đoàn Nguyễn Minh Thuận

Trang 8

SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Tiên


Luận văn tốt nghiệp-Quy chế pháp lý về bảo hiểm cháy, nổ đối với hàng hóa
tiền bồi thường vì rủi ro đã được san sẻ cho nhiều doanh nghiệp bảo hiểm khác.
1.1.3. Hợp đồng bảo hiểm cháy, nổ đối với hàng hóa
1.1.3.1. Khái niệm về hợp đồng bảo hiểm cháy, nổ đối với hàng hóa
Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận ý chí của các bên để thống nhất một vấn

đề nhất định trong giao dịch dân sự cũng như trong thương mại. Hợp đồng là một
bằng chứng pháp lý ghi nhận việc giao kết trong giao dịch dân sự, đồng thời là cơ
sở để các bên thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. Bộ Luật dân sự năm
2005 quy định: “ Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập,
thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”.13 Đây là quy định chung, còn
hợp đồng bảo hiểm thì được ghi nhận trong Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000
sửa đổi bổ sung năm 2010 quy định: “ Hợp đồng bảo hiểm là sự thỏa thuận giữa
bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm, theo đó bên mua bảo hiểm phải
đóng phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ
hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”.14
Quan hệ bảo hiểm cháy, nổ đối với hàng hóa trong nước cũng được xác lập
và thực hiện thông qua hình thức pháp lý là hợp đồng. Hợp đồng bảo hiểm cháy,
nổ đối với hàng hóa cũng có bản chất chung của hợp đồng. Luật kinh doanh bảo
hiểm năm 2000, sửa đổi, bổ sung năm 2010 không đưa ra định nghĩa thế nào là
hợp đồng bảo hiểm cháy, nổ đối với hàng hóa song có thể xác định bản chất pháp
lý của hợp đồng này trên cơ sở quy định của Luật kinh doanh bảo hiểm năm
2000, sửa đổi, bổ sung năm 2010 về hợp đồng bảo hiểm. Có thể hiểu như sau:
Hợp đồng bảo hiểm cháy, nổ đối với hàng hóa là sự thỏa thuận giữa bên mua bảo
hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm, bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm,
doanh nghiệp bảo hiểm phải bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra
cháy, nổ đối với hàng hóa.
1.1.3.2. Đặc điểm của hợp đồng bảo hiểm cháy, nổ đối với hàng hóa
 Về chủ thể hợp đồng
Chủ thể của hợp đồng là các bên tham gia trong hợp đồng. Hợp đồng bảo
hiểm cháy, nổ đối với hàng hóa được thiết lập giữa hai chủ thể là doanh nghiệp
kinh doanh bảo hiểm và bên mua bảo hiểm. Trong đề tài này, người viết chủ yếu
nghiên cứu hợp đồng bảo hiểm cháy, nổ đối với hàng hóa được xác lập một bên
13
14


Điều 388 Bộ luật dân sự 2005.
Khoản 1 Điều 12 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 sửa đổi, bổ sung năm 2010.

GVHD:Đoàn Nguyễn Minh Thuận

Trang 9

SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Tiên


Luận văn tốt nghiệp-Quy chế pháp lý về bảo hiểm cháy, nổ đối với hàng hóa
là doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm, một bên là bên mua bảo hiểm phải là
thương nhân.
Theo quy định của Luật thương mại năm 2005, “thương nhân bao gồm tổ
chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách
độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh”.15 So với quy định về thương
nhân tại khoản 1 Điều 5 Luật thương mại 1997 khái quát và chính xác hơn
“Thương nhân bao gồm cá nhân, pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình có đăng ký
kinh doanh hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên”.Thương nhân
của hợp đồng bảo hiểm này có thể là thương nhân Việt Nam hoặc thương nhân
nước ngoài. Theo quy định của luật này thì thương nhân là tổ chức, cá nhân thực
hiện hành vi thương mại một cách độc lập thường xuyên như một nghề nghiệp và
đăng ký kinh doanh như một nghĩa vụ của thương nhân. Như vậy, thương nhân
phải đáp ứng đủ các đặc điểm sau:
Thứ nhất, các chủ thể pháp luật có thể trở thành hoặc được xem là thương
nhân bao gồm cá nhân và tổ chức kinh tế. Trong đó, việc xác định cá nhân là ai
căn cứ theo pháp luật dân sự. Tổ chức kinh tế là một chủ thể nhân tạo, được thành
lập hợp pháp theo quy định của pháp luật, mà mục đích thành lập chủ thể đó là
tiến hành hoạt động kinh tế.
Thứ hai, để được xem là thương nhân thì cá nhân hay tổ chức kinh tế phải

tiến hành hoạt động thương mại.
Thứ ba, cá nhân và tổ chức kinh tế phải hoạt động thương mại một cách độc
lập. Tính độc lập ở đây là độc lập về mặt pháp lý. Điều đó có nghĩa cá nhân hay
tổ chức đó phải tham gia vào hoạt động thương mại với tư cách là chủ thể pháp
luật độc lập. Cho nên văn phòng đại diện và chi nhánh khỏi khái niệm thương
nhân, bởi vì chúng chỉ là đơn vị phụ thuộc.
Thứ tư, các hoạt động thương mại mà cá nhân hay tổ chức kinh tế đó tiến
hành phải có tính thường xuyên. Tính thường xuyên nói chung đòi hỏi hoạt động
có tính lien tục trong khoảng thời gian dài có xác định hoặc không xác định. Đối
với cá nhân thì hoạt động thương mại là nghề nghiệp chính và tạo ra thu nhập
chính của mình. Đối với tổ chức kinh tế thì tính thường xuyên đã bao hàm trong
mục đích thành lập, nếu tổ chức kinh tế có ý định tạm ngừng hoạt động trong một
khoảng thời gian quá dài thì phải báo ngay cho cơ quan quản lý nhà nước.
15

Khoản 1 Điều 6 Luật thương mại năm 2005.

GVHD:Đoàn Nguyễn Minh Thuận

Trang 10

SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Tiên


Luận văn tốt nghiệp-Quy chế pháp lý về bảo hiểm cháy, nổ đối với hàng hóa
Thứ năm, điểm cuối cùng là để trở thành thương nhân thì cá nhân phải đăng
ký kinh doanh, còn tổ chức kinh tế là thương nhân kể từ thời điểm được cấp giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh. Liên quan đến vấn đề đăng ký kinh doanh còn
có quy định “Thương nhân có nghĩa vụ đăng ký kinh doanh theo quy định của
pháp luật. Trường hợp chưa đăng ký kinh doanh, thương nhân vẫn phải chịu trách

nhiệm về mọi hoạt động của mình theo quy định của luật này và các quy định
khác của pháp luật có liên quan.”16 Nghĩa vụ đăng ký kinh doanh đề cập ở quy
định này chỉ là nghĩa vụ đăng ký thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh, nghĩa là
đăng ký thay đổi nội dung ghi trên giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh đã được
cấp, bao gồm cả ngành nghề kinh doanh trong quá trình hoạt động của thương
nhân. Cho nên không được phép hiểu nhầm lẫn rằng pháp luật Việt Nam thừa
nhận thương nhân thực tế, nghĩa là thừa nhận những chủ thể pháp luật tiến hành
các hoạt động thương mại nhưng không có đăng ký kinh doanh là thương nhân.17
Do đặc điểm thương nhân phải có đăng ký kinh doanh, nên các cá nhân hoạt
động thương mại mà theo quy định tại Nghị định 39/2007/NĐ-CP không phải
đăng ký kinh doanh thì không phải là thương nhân. Đó là những cá nhân buôn
bán rong, buôn bán vặt, bán quà vặt, buôn chuyến, thực hiện các dịch vụ như
đánh giầy, bán vé số, sửa khóa, sửa chữa xe, trông giữ xe, rửa xe, cắt tóc, vẽ
tranh, chụp ảnh và các dịch vụ khác có hoặc không có địa điểm cố định. Do tính
chất độc lập và thường xuyên nên nên các hoạt động này vẫn được xem là hoạt
động thương mại. Nhưng với tính chất nhỏ lẻ và thu nhập thường chỉ đủ để trang
trãi các chi tiêu cơ bản cho bản thân và gia đình nên pháp luật loại trừ các hoạt
động này khỏi nghĩa vụ đăng ký kinh doanh với điều kiện các cá nhân đó phải tự
mình thực hiện các hoạt động thương mại nói trên mà không thuê mướn người
khác.18
Chủ thể thứ hai trong hợp đồng bảo hiểm cháy, nổ đối với hàng hóa là
doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm. Doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm là doanh
nghiệp được Bộ tài chính cấp giấy phép thành lập và hoạt động. Doanh nghiệp
bảo hiểm là bên có quyền thu phí bảo hiểm khi giao kết hợp đồng bảo hiểm và
phải có trách nhiệm bồi thường theo sự thỏa thuận khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.
Doanh nghiệp bảo hiểm là chủ thể không thể thiếu trong hợp đồng bảo hiểm.
16

Điều 7, Luật thương mại năm 2005.
Phan Huy Hồng, Giáo trình pháp luật về thương mại hàng hóa và dịch vụ, trường ĐH Luật Thành phố

Hồ Chí Minh, trang 18.
18
Phan Huy Hồng, Giáo trình pháp luật về thương mại hàng hóa và dịch vụ, trường ĐH Luật Thành phố
Hồ Chí Minh, trang 19.
17

GVHD:Đoàn Nguyễn Minh Thuận

Trang 11

SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Tiên


Luận văn tốt nghiệp-Quy chế pháp lý về bảo hiểm cháy, nổ đối với hàng hóa
Theo Luật doanh nghiệp thì doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có
tài sản, có trụ sở ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật
nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.19 Cũng giống như doanh
nghiệp, doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm cũng thực hiện việc kinh doanh tìm
kiếm lợi nhuận từ việc bán sản phẩm bảo hiểm. Theo đó “doanh nghiệp bảo hiểm
là doanh nghiệp được thành lập, tổ chức và hoạt động theo quy định của luật kinh
doanh bảo hiểm và các quy định khác của pháp luật có liên quan để kinh doanh
bảo hiểm.” 20 Từ đó cho thấy rằng, điều kiện đầu tiên để doanh nghiệp bảo hiểm
là chủ thể của hợp đồng bảo hiểm phải được thành lập và hoạt động hợp pháp
theo Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000, sửa đổi, bổ sung năm 2010, Luật
doanh nghiệp năm 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Doanh nghiệp bảo
hiểm là một tổ chức có đầy đủ tư cách pháp nhân, được nhà nước cho phép tiến
hành hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
 Về hình thức của hợp đồng
Những điều khoản mà các bên cam kết thỏa thuận phải được thể hiện ra bên
ngoài bằng một hình thức nhất định. Hay nói cách khác, hình thức của hợp đồng

là phương tiện để ghi nhận nội dung mà các chủ thể đã xác định. Tùy thuộc vào
nội dung, tính chất của từng hợp đồng cũng như tùy thuộc vào độ tin cậy lẫn nhau
mà các bên có thể lựa chọn một hình thức xác định trong việc giao kết hợp đồng
cho phù hợp với từng trường hợp cụ thể. Theo điều 401 Bộ luật dân sự 2005 thì
hợp đồng được thể hiện bằng các hình thức như: bằng lời nói, bằng văn bản hay
bằng hành vi cụ thể.
Theo quy định kinh doanh bảo hiểm, hợp đồng bảo hiểm nói chung và hợp
đồng bảo hiểm cháy, nổ nói riêng phải được lập thành văn bản. Văn bản là một
căn cứ vững chắc cho việc giao kết hợp đồng, cũng là nơi chứa đựng quyền và
nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mà bất kỳ sự làm trái nào so với hợp đồng
đều là bằng chứng rõ ràng cho việc vi phạm hợp đồng. Bằng chứng giao kết hợp
đồng bảo hiểm là giấy chứng nhận bảo hiểm, đơn bảo hiểm, điện báo, telex, fax
và các hình thức khác do pháp luật quy định.21
Tóm lại, hình thức của hợp đồng bảo hiểm cháy, nổ phải được lập thành văn
bản, chúng có thể ở dạng là giấy chứng nhận bảo hiểm, đơn bảo hiểm, điện báo,

19

Khoản 1 Điều 4 Luật doanh nghiệp 2005.
Khoản 5 Điều 3 Luật kinh doanh bảo hiểm 2000, sửa đổi, bổ sung năm 2010.
21
Điều 14 Luật kinh doanh bảo hiểm 2000, sửa đổi, bổ sung năm 2010.
20

GVHD:Đoàn Nguyễn Minh Thuận

Trang 12

SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Tiên



Luận văn tốt nghiệp-Quy chế pháp lý về bảo hiểm cháy, nổ đối với hàng hóa
telex, fax. Tuy nhiên, hợp đồng bảo hiểm cháy nổ đối với hàng hóa thông thường
được cấu thành từ nhiều bộ phận như: giấy yêu cầu bảo hiểm, quy tắc bảo hiểm,
giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc đơn bảo hiểm, điều khoản bổ sung, phụ lục hợp
đồng. Quan hệ giữa các bên trong hợp đồng bảo hiểm đều được xác định rõ trong
tất cả các giấy tờ đó.
 Về đối tượng bảo hiểm
Đối tượng của hợp đồng bảo hiểm cháy, nổ đối với hàng hóa là hàng hóa
đang tồn tại vào thời điểm giao kết hợp đồng và phải có giá xác định được bằng
tiền mà trong quá trình sản xuất, lưu kho, bảo quản hay lưu thông trên thị trường
mà xảy ra rủi ro cháy, nổ thuộc phạm vi bảo hiểm thì sẽ được doanh nghiệp bảo
hiểm bồi thường. Hàng hóa đó chính là tài sản của thương nhân. Hàng hóa như
thế nào mới trở thành đối tượng của hợp đồng bảo hiểm thì người viết đã trình
bày ở mục 1.1.1. về khái niệm của bảo hiểm cháy, nổ đối với hàng hóa.
Khác với những loại hình bảo hiểm khác, bảo hiểm cháy, nổ có hai loại là
bắt buộc và tự nguyện. Hàng hóa là đối tượng phải mua bảo hiểm cháy, nổ bắt
buộc là những hàng hóa được liệt kê trong phụ lục II Nghị định số 79/2014/NĐCP ngày 31 thang 7 năm 2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số
điều của Luật phòng cháy và chữa cháy và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Phòng cháy và chữa cháy. Khi mua bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc thì hàng hóa
phải có giấy chứng nhận đủ điều kiện về phòng cháy và chữa cháy hoặc có biên
bản kết luận cơ sở đủ điều kiện về phòng cháy và chữa cháy của Cơ quan Cảnh
sát Phòng cháy và chữa cháy. Còn những hàng hóa chưa có những giấy tờ trên thì
có thể mua bảo hiểm cháy, nổ tự nguyện khi doanh nghiệp bảo hiểm khảo sát
đánh giá thấy đủ điều kiện tham gia.
 Về nội dung của hợp đồng
Hợp đồng bảo hiểm cháy, nổ đối với hàng hóa là một loại hợp đồng bảo
hiểm, nên nó phải có những nội dung cơ bản của một hợp đồng bảo hiểm theo
quy định của pháp luật. Điều 13 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000, sửa đổi, bổ
sung năm 2010 quy định rõ điều đó. Pháp luật cho phép doanh nghiệp bảo hiểm

được soạn thảo hợp đồng mẫu với những điều khoản cụ thể, nhất là phần điều
kiện chung. Vì vậy, thông thường thì bên mua bảo hiểm chỉ có thể đồng ý giao
kết hoặc từ chối giao kết dựa trên hợp đồng mẫu. Lý do mà Nhà nước trao quyền
cho doanh nghiệp bảo hiểm được phép soạn thảo hợp đồng mẫu là do dựa vào
khả năng chấp nhận bảo hiểm và đặc điểm kỹ thuật của bản thân mình, doanh
GVHD:Đoàn Nguyễn Minh Thuận

Trang 13

SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Tiên


Luận văn tốt nghiệp-Quy chế pháp lý về bảo hiểm cháy, nổ đối với hàng hóa
nhiệp bảo hiểm xác định được những điều khoản cơ bản để chấp nhận bảo hiểm,
quy định quyền lợi và nghĩa vụ của hai bên. Còn người tham gia bảo hiểm thường
không biết rõ về bảo hiểm, nên rất khó có ý kiến thắc mắc về điều khoản bảo
hiểm.22
Tuy nhiên điều này hoàn toàn không có nghĩa là người tham gia bảo hiểm
luôn bị thiệt thòi, doanh nghiệp bảo hiểm luôn được lợi. Ngoài những nội dung
quy định, hợp đồng bảo hiểm có thể có các nội dung khác do các bên thỏa
thuận.23 Trên thực tế, nội dung của các điều khoản chủ yếu do doanh nghiệp bảo
hiểm quy định căn cứ vào bộ quy tắc, điều khoản bảo hiểm, biểu phí bảo hiểm do
doanh nghiệp bảo hiểm ban hành. Trong một thị trường cạnh tranh, với một loại
nghiệp vụ bảo hiểm, quy tắc bảo hiểm của doanh nghiệp nào có lợi hơn cho
khách hàng sẽ được đông đảo khách hàng hưởng ứng và lựa chọn.
1.1.3.3. Nguyên tắc thực hiện hợp đồng
Khi có hiệu lực, những thỏa thuận trong hợp đồng sẽ có giá trị ràng buộc
các bên. Các bên phải thực hiện nghĩa vụ đúng theo những thỏa thuận trong hợp
đồng. Để đảm bảo thực hiện hợp đồng mang lại lợi ích cho các bên đồng thời
không xâm phạm đến lợi ích mà pháp luật cần bảo vệ, pháp luật quy định những

nguyên tắc có tính chất bắt buộc phải tuân theo đối với các chủ thể trong quá trình
thực hiện hợp đồng. Theo quy định của Bộ luật dân sự 2005, việc thực hiện hợp
đồng dân sự nói chung và hợp đồng bảo hiểm cháy, nổ nói riêng phải tuân thủ các
nguyên tắc sau:
 Thực hiện đúng hợp đồng, đúng đối tượng, và các thỏa thuận khác.
 Thực hiện một cách trung thực, theo tinh thần hợp tác và có lợi nhất
cho các bên, đảm bảo tin cậy lẫn nhau.
 Không được xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng,
quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.24
1.1.3.4. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng
Luật kinh doah bảo hiểm năm 2000, sửa đổi, bổ sung năm 2010 không quy
định cụ thể các điều kiện để hợp đồng bảo hiểm cháy, nổ đối với hàng hóa có
hiệu lực. Cho nên, khi xem xét hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm cháy, nổ đối với
22

Trương Mộc Lâm, Lưu Nguyên Khánh, Một số điều cần biết về pháp lý trong kinh doanh bảo hiểm,
Nxb Thống kê, Hà Nội, 2000, trang 72.
23
Khoản 2 Điều 13 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000, sửa đổi, bổ sung năm 2010.
24
Điều 412 Bộ luật dân sự 2005.

GVHD:Đoàn Nguyễn Minh Thuận

Trang 14

SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Tiên


Luận văn tốt nghiệp-Quy chế pháp lý về bảo hiểm cháy, nổ đối với hàng hóa

hàng hóa cần dựa vào các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự quy định
trong bộ luật dân sự năm 2005. Chúng ta có thể dựa vào Điều 122 Bộ luật dân sự
2005 để xác định một hợp đồng bảo hiểm cháy, nổ có hiệu lực khi có đủ các điều
kiện sau đây:
Thứ nhất, các chủ thể ký kết hợp đồng phải hợp pháp. Chủ thể của quan hệ
pháp luật dân sự mà cụ thể ở đây là quan hệ hợp đồng bảo hiểm là những người
tham gia vào quan hệ đó. Phạm vi người tham gia quan hệ hợp đồng đó bao gồm:
cá nhân, pháp nhân, hộ kinh doanh, hợp tác xã. Điều kiện để hợp đồng có hiệu
lực là “người tham gia hợp đồng phải có năng lực hành vi dân sự”25. Như vậy,
“người” ở đây phải được nhìn nhận dưới góc độ pháp lý tức là không chỉ là cá
nhân mà còn bao gồm pháp nhân, hộ kinh doanh, hợp tác xã. Trong phạm vi đề
tài này, người viết chỉ đề cập đến chủ thể tham gia hợp đồng là các thương nhân
bao gồm bên mua bảo hiểm và bên bán bảo hiểm. Tức là thương nhân là chủ thể
trong hợp đồng phải có năng lực hành vi dân sự. Nếu là người đại diện các bên
giao kết hợp đồng bảo hiểm cháy, nổ thì phải đúng thẩm quyền.
Thứ hai, chủ thể ký kết hợp đồng phải hoàn toàn tự nguyện26 tức là xuất
phát từ ý chí thực, từ sự tự do ý chí của các bên trong các thỏa thuận hợp đồng
đó. Điều này cũng được thể hiện trong nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa
thuận.27 Theo đó quyền này được pháp luật bảo đảm nếu cam kết, thỏa thuận
không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Trong hợp
đồng các chủ thể tham gia hoàn toàn tự nguyện, không bên nào đươc ép buộc,
cưỡng ép, đe dọa, ngăn cản bên nào. Những hành vi đó đều dẫn đến hợp đồng bảo
hiểm cháy, nổ đối với hàng hóa không có hiệu lực.
Thứ ba, mục đích và nội dung của hợp đồng không vi phạm điều cấm của
pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Hàng hóa là đối tượng của hợp đồng không
bị cấm kinh doanh theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, nội dung của hợp
đồng phải cụ thể, bởi vì việc xác lập nghĩa vụ trong hợp đồng phải cụ thể và có
tính khả thi.
Thứ tư, hình thức của hợp đồng phải phù hợp với quy định của pháp luật.
Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 sửa đổi, bổ sung năm 2010 quy định về hình

thức của hợp đồng bảo hiểm nói chung và hợp đồng bảo hiểm cháy, nổ đối với
25

Điêm a Khoản 1 Điều 122 Bộ luật dân sự 2005.
Điểm c Khoản 1 Điều 122 Bộ luật dân sự 2005.
27
Điều 4 Bộ luật dân sự 2005.
26

GVHD:Đoàn Nguyễn Minh Thuận

Trang 15

SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Tiên


Luận văn tốt nghiệp-Quy chế pháp lý về bảo hiểm cháy, nổ đối với hàng hóa
hàng hóa nói riêng phải được lập thành văn bản. Trường hợp các bên không tuân
thủ đúng quy định về hình thức thì cần chỉnh sửa lại cho đúng quy định. Hợp
đồng sẽ không bị vô hiệu trong trường hợp có vi phạm về hình thức, trừ trường
hợp pháp luật có quy định khác.28
1.2. Sự cần thiết của bảo hiểm cháy, nổ đối với hàng hóa
Cháy, nổ là một trong những rủi ro mang tính chất thảm họa và khi xảy ra
hậu quả để lại rất nặng nề. Việc khắc phục nó đòi hỏi phải có nguồn tài chính
khổng lồ. Theo số liệu thống kê, hằng năm trên thế giới có khoảng 5 triệu vụ
cháy, nổ lớn nhỏ gây thiệt hại hằng trăm tỷ đô la.29 Nơi có nền kinh tế phát triển,
nền khoa học, công nghệ đã đạt đến đỉnh cao của sự hiện đại và an toàn như Anh,
Pháp, Mỹ thì cháy vẫn xảy ra. Nó ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc sống và hoạt
động sản xuất kinh doanh của con người.
Ở Việt Nam, các vụ cháy, nổ xảy ra nhiều, gây thiệt hại lớn đặc biệt tại các

khu vực kinh tế phát triển như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh. Theo thống kê
của Bộ Công an, trong 10 năm trở lại đây, cả nước đã xảy ra 16.767 vụ cháy ở
các nhà máy, xí nghiệp, kho tàng, cơ quan, trường học, bệnh viện, nhà dân và
6.109 vụ cháy rừng, làm chết 688 người, bị thương 1.848 người,30 về tài sản ước
tính trị giá 4.187 tỷ đồng và 42.332 ha rừng có giá trị kinh tế. Như vậy, trung bình
mỗi năm những vụ cháy gây ra cái chết cho khoảng hơn 60 người. Ấy là chưa kể
đến nỗi đau thương tột cùng mà gia đình phải chịu đựng khi người thân không
may qua đời. Đáng chú ý một số vụ cháy như: Vụ cháy chợ trung tâm TP Quảng
Ngãi ngày 9/2/2012 thiệt hại khoảng 150 tỷ đồng, vụ cháy Trung tâm Thương
mại Hải dương ngày 15/9/2013 thiệt hại ước tính hơn 500 tỷ đồng, gần đây nhất
là vụ cháy chợ Phố Hiến, TP Hưng yên ngày 19/3/2014 thiệt hại ước tính khoảng
50 tỷ đồng. Năm 2013 là năm xảy ra nhiều vụ cháy nổ đặc biệt nghiêm trọng, cả
nước xảy ra 2700 vụ cháy nổ, làm chết 100 người và bị thương gần 200 người,
thiệt hại ước tính 1.700 tỷ đồng. Riêng vụ nổ nhà máy pháo hoa ở Phú Thọ
12/10/2013 đã làm chết 24 người và gần 100 người bị thương, toàn bộ nhà máy bị
san bằng, thiệt hại ước tính 52 tỷ đồng.31
28

Điều đó được suy ra từ Điều 401 về hình thức hợp đồng dân sự.
Theo số liệu của Tổng cục thống kê 2012.
30
A.Th, Bảo hiểm cháy nổ - Đã đến lúc cần nhìn nhận đúng,
[truy cập ngày 5/11/2014].
31
Công Hậu, Báo nhân dân, 2.700 vụ cháy nổ xảy ra trong năm 2013 ,
/>29

GVHD:Đoàn Nguyễn Minh Thuận

Trang 16


SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Tiên


Luận văn tốt nghiệp-Quy chế pháp lý về bảo hiểm cháy, nổ đối với hàng hóa
Để đối phó với cháy nổ từ xa xưa con người đã sử dụng rất nhiều biện pháp
khác nhau như phòng cháy chữa cháy, đào tạo nâng cao trình độ kiến thức và
thông tin tuyên truyền về phòng cháy chữa cháy. Nhưng thực tế tình trạng cháy,
nổ vẫn diễn ra mà con người không lường trước được. Do vậy để đối phó hậu quả
của cháy, nổ gây ra thì bảo hiểm vẫn được coi là một trong những biện pháp an
toàn hữu hiệu nhất. Nếu xảy ra cháy lớn, đặc biệt là các thương nhân, họ phải
đương đầu với rất nhiều khó khăn tài chính, thậm chí có thể bị phá sản. Vì vậy
bên cạnh việc tích cực phòng cháy chữa cháy thì bảo hiểm cháy, nổ thực sự là
một giá đỡ cho các tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm nói chung và thương nhân
nói riêng.
Bảo hiểm cháy, nổ đối với hàng hóa là một loại hình của bảo hiểm tài sản,
trong đó đối tượng bảo hiểm là hàng hóa thường có giá trị bảo hiểm lớn. Nhưng
hiện tại loại hình bảo hiểm này chưa thực sự được thương nhân quan tâm, doanh
nghiệp kinh doanh bảo hiểm cũng không mấy mặn mà với nó. Bảo hiểm cháy, nổ
thực sự rất cần thiết cho người tham gia bảo hiểm, cũng như bên kinh doanh bảo
hiểm và cả nền kinh tế.
1.2.1. Đối với người tham gia bảo hiểm
Thứ nhất, bảo hiểm cháy, nổ khắc phục tổn thất từ đó góp phần ổn định sản
xuất kinh doanh. Trong các doanh nghiệp, quy mô sản xuất càng rộng, giá trị tài
sản càng lớn, hàng hóa càng nhiều thì khi có tổn thất do cháy gây ra thì hậu quả
thật khôn lường và ảnh hưởng lâu dài tới bản thân doanh nghiệp, cá nhân và đơn
vị khác có liên quan. Doanh nghiệp phải đứng trước bờ vực có nguy cơ mất trắng
những tài sản có giá trị lớn kể cả hàng hóa, việc khôi phục sản xuất trở lại là điều
vô cùng khó khăn, trong trường hợp xấu nhất là phá sản. Bảo hiểm cháy, nổ ra
đời giúp cho mỗi thương nhân ổn định cuộc sống cũng như hoạt động sản xuất

kinh doanh thông qua việc bồi thường một cách kịp thời thỏa đáng khi không
may có tổn thất, từng bước khắc phục hậu quả những thiệt hại xảy ra với họ. Trên
cơ sở người tham gia bảo hiểm cháy, nổ đóng góp một khoản phí với tỉ lệ nhỏ so
với giá trị hàng hóa của mình, các cá nhân doanh nghiệp sẽ nhận được cam kết
bồi thường từ phía công ty bảo hiểm khi có rủi ro cháy, nổ xảy ra.
Có thể nói bảo hiểm cháy, nổ là một trong những biện pháp hữu hiệu đảm
bảo nguồn tài chính cho thương nhân khi không may xảy ra sự cố bảo hiểm, giúp

[truy cập ngày 1/11/2014].

GVHD:Đoàn Nguyễn Minh Thuận

Trang 17

SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Tiên


Luận văn tốt nghiệp-Quy chế pháp lý về bảo hiểm cháy, nổ đối với hàng hóa
họ yên tâm sản xuất kinh doanh, tiến hành mở rộng đầu tư góp phần tăng trưởng
kinh tế.
Thứ hai, bảo hiểm cháy còn góp phần tích cực công tác đề phòng hạn chế
tổn thất, giúp cho hàng hóa an toàn hơn, giảm bớt nỗi lo cho mỗi thương nhân.
Rủi ro cháy, nổ có thể xảy ra bất cứ nơi đâu bất cứ khi nào. Vì vậy để giảm thiểu
xác xuất bồi thường cho khách hàng, các công ty bảo hiểm hết sức quan tâm đến
công tác quản trị rủi ro mà trong đó công tác phòng cháy chữa cháy đặt lên hàng
đầu.
Bằng một khoản trích theo tỷ lệ nhất định từ phần phí thu được, các công ty
bảo hiểm sẽ thực hiện các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất một cách hiệu quả
thông qua công tác thống kê tình hình tổn thất hằng năm, xác định nguyên nhân
tổn thất, tư vấn những khu vực có nguy hiểm cao về cháy, thường xuyên phối hợp

với khách hàng trong công tác tập huấn phòng cháy chữa cháy, hỗ trợ khách hàng
trang bị phương tiện phòng cháy chữa cháy. Để làm tốt công tác này công ty bảo
hiểm cần có những cán bộ chuyên môn giỏi về đánh giá và quản lý rủi ro, tích cực
hướng dẫn khách hàng các biện pháp đảm bảo an toàn.
Ngoài ra hằng năm các doanh nghiệp bảo hiểm cũng thường xuyên đóng
góp kinh phí cho hoạt động phòng cháy chữa cháy theo quy định của Nhà nước
để đầu tư trang bị phòng cháy chữa cháy, hỗ trợ tuyên truyền phổ biến kiến thức
pháp luật và kiến thức phổ thông về phòng cháy chữa cháy cho toàn dân. Hoạt
động này không chỉ có ý nghĩa đối với người tham gia trong công tác hạn chế rủi
ro mà còn có ý nghĩa đối với toàn xã hội.
Thứ ba, gia tăng ý thức bảo đảm an toàn cho hóa của thương nhân. Khi mua
bảo hiển cháy, nổ hàng hóa không những được an toàn hơn nhờ những biện pháp
quản trị rủi ro của doanh nghiệp bảo hiểm mà chính thương nhân cũng thêm phần
trách nhiệm đối với hàng hóa của mình. Hàng hóa của thương nhân phải đạt tiêu
chuẩn về an toàn phòng cháy chữa cháy thì hợp đồng bảo hiểm mới có thể giao
kết. Sau khi giao kết hợp đồng bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ thường
xuyên kiểm tra về công tác đảm bảo an toàn đối với hàng hóa đó. Nếu như
thương nhân lơ là trong công tác đảm bảo an toàn cho hàng hóa của mình tạo ra
nguy hiểm cao thì doanh nghiệp bảo hiểm có quyền chấm dứt hợp đồng bảo
hiểm.

GVHD:Đoàn Nguyễn Minh Thuận

Trang 18

SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Tiên


Luận văn tốt nghiệp-Quy chế pháp lý về bảo hiểm cháy, nổ đối với hàng hóa
Thứ tư, dịch vụ mà các doanh nghiệp bảo hiểm đáp ứng chính là sự đảm bảo

về mặt vật chất, tài chính trước rủi ro. Hơn nữa, vượt lên cả ý nghĩa tiền bạc, bảo
hiểm cháy còn là mang đến trạng thái an toàn về tinh thần cho thương nhân yên
tâm trong cuộc sống và hoạt động sản xuất kinh doanh. Việc triển khai bảo hiểm
cháy giúp thương nhân mạnh dạn đầu tư phát triển kinh tế vì đã có bảo hiểm
cháy, nổ bảo trợ. Từ đó tạo công ăn việc làm cho người lao động, đồng thời tránh
sự lo lắng, bất ổn của người dân sống xung quanh khu vực thường xuyên có cháy
và nguy cơ xảy ra cháy cao.
Bên cạnh đó bảo hiểm cháy ra đời còn giúp cho thương nhân tham gia thuận
tiện hơn trong các hoạt động vay vốn của các tổ chức tài chính, ngân hàng. Vì khi
tiến hành cho các thương nhân vay vốn để sản xuất kinh doanh thì các ngân hàng,
quỹ tài chính bao giờ cũng đòi hỏi có thế chấp. Thương nhân nào đã tham gia bảo
hiểm thì có thể trình hợp đồng bảo hiểm như một bằng chứng của sự đảm bảo để
vay vốn, giúp các ngân hàng, tổ chức tài chính yên tâm hơn đối với các khoản
cho vay. Bởi vì nếu có rủi ro xảy ra đối với hàng hóa của thương nhân thì thương
nhân đó sẽ nhận được bồi thường từ phía công ty bảo hiểm, đảm bảo khả năng trả
nợ cao hơn các thương nhân không tham gia bảo hiểm.
1.2.2. Đối với doanh nghiệp bảo hiểm
Thứ nhất, bảo hiểm cháy, nổ mang lại lợi nhuận không nhỏ cho doanh
nghiệp kinh doanh bảo hiểm. Khi bảo hiểm cháy, nổ ngày càng được mở rộng,
đặc biệt với sự chấp hành nghiêm chỉnh của các đối tượng tham gia bảo hiểm
cháy, nổ bắt buộc, khoản phí thu được từ khách hàng ngày càng gia tăng. Nếu
doanh nghiệp bảo hiểm đảm bảo tốt công tác an toàn cho đối tượng bảo hiểm mà
ở đây là hàng hóa thì số tiền bồi thường sẽ thấp hơn rất nhiều so với số phí mà
doanh nghiệp bảo hiểm thu vào. Ngoài ra đây là một thị trường rất tiềm năng, số
lượng khách hàng cần đến loại hình bảo hiểm này rất rộng. Các công ty bảo hiểm
chỉ giữ lại một khoản tiền nhất định trong quỹ để đảm bảo khả năng thanh toán,
số còn lại sẽ được mang đi đầu tư sinh lời. Với nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi
không nhỏ của các công ty bảo hiểm có thể cho vay, mua trái phiếu, đầu tư bất
động sản.
Thứ hai, đó là cơ hội để doanh nghiệp bảo hiểm thể hiện hình ảnh tốt đẹp

của mình trước công chúng. Vượt lên cả ý nghĩa tiền bạc, bảo hiểm cháy, nổ
mang đến trạng thái an toàn về tinh thần, giảm bớt sự lo âu trước rủi ro, bất trắc
cho hàng hóa của thương nhân, mang đến sự tinh tưởng cho người sử dụng dịch
GVHD:Đoàn Nguyễn Minh Thuận

Trang 19

SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Tiên


×