Tải bản đầy đủ (.doc) (71 trang)

Quy chế pháp lý về quản lý nợ trong hoạt động tín dụng ngân hàng và thực tiễn áp dụng tại ngânhàng NHNo&PTNT (AgriBank) chi nhánh Bắc Vĩnh Yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (331.45 KB, 71 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp
Lời mở đầu
Sự ra đời của tiền tệ và hoạt động ngân hàng đánh dấu một bước tiến lớn
trong lịch sử nhân loại. Nó thúc đẩy quan hệ trao đổi hàng hoá ngày càng phát
triển. Ngân hàng và hoạt động ngân hàng còn được coi là một trong những
kênh quan trọng cho việc huy động vốn và tập trung các nguồn lực tài chính,
những đồng tiền nhàn rỗi của mọi tổ chức, cá nhân đầu tư cho các hoạt động
kinh tế xã hội, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần của nhân dân. Trong nền kinh tế thị trường, ngân hàng là một
chủ thể không thể thiếu vắng cho sự vận hành thị trường tiền tệ và thị trường
chứng khoán. Hoạt động ngân hàng cũng là một loại hình hoạt động kinh tế,
do vậy trong nền kinh tế thị trường nó cũng chịu sự tác động và điều tiết bởi
các quy luật của nền kinh tế thị trường. Hoạt động ngân hàng, kinh doanh tiền
tệ là loại hình kinh doanh đặc biệt, tác động dây chuyền đến các hoạt động
kinh tế khác, liên quan đến lợi ích của nhiều chủ thể và luôn tiềm ẩn nguy cơ
rủi ro cao, một khi xảy ra rủi ro thì thường có tính chất dây chuyền tác động
đến nhiều hoạt động nhiều mặt trong đời sống kinh tế xã hội. Do vậy ngay từ
thửa ban đầu, để vận hành được nó cũng cần đến sự can thiệp, điều tiết và
kiểm soát từ phía nhà nước nhằm tạo lập những bảo đảm và an toàn pháp lý.
Đối với ngân hàng đó là việc quản lý nợ bảo toàn vốn hạn chế rủi ro. Đây
không chỉ là mối quan tâm của các ngân hàng thương mại mà còn là sự quan
tâm chung của toàn ngành ngân hàng.
Nhận thức rõ tính cấp thiết của vấn đề, tôi lựa chọn đề tài : “Quy chế
pháp lý về quản lý nợ trong hoạt động tín dụng ngân hàng và thực tiễn
áp dụng tại NHNo&PTNN chi nhánh Bắc Vĩnh Yên” làm chuyên đề tốt
nghiệp của mình. Nội dung của chuyên đề được kết cấu thành 3 phần :
Chương 1 : Quy chế pháp lý về quản lý nợ trong hoạt động tín dụng ngân hàng.
Chương 2 : Thực trạng quản lý nợ tại NHNo&PTNN chi nhánh Bắc Vĩnh Yên.
Chương 3 : Một số khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nợ tại
NHNo&PTNN chi nhánh Bắc Vĩnh Yên.
Mặc dù có nhiều cố gắng để hoàn thành bài viết song trong quá trình


nghiên cứu lý luận cơ bản áp dụng vào thực tiễn muôn màu muôn vẻ nên khó
tránh khỏi những thiếu sót, do vậy tôi chân thành cảm ơn sự giúp đỡ chỉ bảo
tận tình của thầy PGS.TS Trần Văn Nam và các thầy cô giáo trong khoa Luật,
Vũ Thị Lan Hương Lớp: Luật kinh doanh K45
1
Chuyên đề tốt nghiệp
cùng các cô, các anh chị công tác tại chi nhánh NHNo & PTNT Bắc Vĩnh
Yên thời gian qua.
CHƯƠNG 1 : QUY CHẾ PHÁP LÝ VỀ QUẢN LÝ NỢ TRONG HOẠT
ĐỘNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG.
1. Hoạt động tín dụng Ngân hàng của các ngân hàng thương
mại.
1.1. Khái niệm
Tín dụng là một phạm trù kinh tế, tồn tại một cách khách quan, phát
sinh khi một bên (chủ nợ ), sử dụng một số tiền nhất định, đến hạn trả nợ,
người vay phải trả cho người cho vay số tiền đã vay kèm theo một khoản lãi
mà hai bên đã thoả thuận trước.
Tín dụng được biểu hiện ra bằng sự vận động của vốn cho vay diễn ra
dưới hai hình thức : tín dụng thương mại và tín dụng Ngân hàng.
Tín dụng thương mại phát sinh khi các thương nhân, các doanh nghiệp
bán chịu cho nhau và nó phụ thuộc vào khả năng thanh toán của người bán và
khả năng trả nợ của người mua. Trong tín dụng thương mại, vốn cho vay là
các hàng hoá chứ không phải là tiền, thường có kì hạn tương đối ngắn trong
phạm vi một chu kì sản xuất. Công cụ lưu thông của tín dụng thương mại chủ
yếu là các thương phiếu. Thương phiếu bao gồm hối phiếu và lệnh phiếu. Nói
chung tín dụng thương mại không phát triển lắm vì những nhược điểm của
nó : quy mô bị hạn chế vì số lượng hàng bán chịu thường chỉ trong một thời
không lớn, đối tác phải là người có uy tín, có quá trình làm ăn lâu dài với nhà
cung cấp, mặt khác tín dụng thương mại thường chỉ có thời hạn trong một chu
kì sản xuất, nên nếu sản xuất đình trệ dù chỉ một chu kì thì cũng có thể gây

khó khăn cho cả hai phía. Do các nhược điểm như vậy nên tín dụng thương
mại tỏ ra kém hiệu quả hơn tín dụng Ngân hàng.
Tín dụng ngân hàng là một giao dịch bằng tiền giữa Ngân hàng với bên
đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay
chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng tài sản trong một thời hạn nhất
Vũ Thị Lan Hương Lớp: Luật kinh doanh K45
2
Chuyên đề tốt nghiệp
định theo thoả thuận, bên di vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc
và lãi bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
1.2. Đặc điểm và bản chất của tín dụng ngân hàng
+Đặc điểm
Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân
hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp
tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán.(khoản 7 Điều 20 Luật các tổ
chức tín dụng sửa đổi bổ sung năm 2004)
Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng vốn tự có, nguốn
vốn huy động để cấp tín dụng. (khoản 8 Điều 20 Luật các tổ chức tín dụng
sửa đổi bổ sung năm 2004).
Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thoả thuận để khách hàng sử dụng
một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết
khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác.(Khoản
10 Điều 20 Luật các tổ chức tín dụng sửa đổi bổ sung năm 2004)
Khi thực hiện hoạt động huy động vốn Ngân hàng trở thành người đi
vay, đi gom mọi nguồn tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế, ngược lại trong hoạt
động cho vay Ngân hàng trở thành người cho vay, nhà tài trợ cho các dự án
của các thành phần kinh tế. Cả huy động vốn và cho vay đều được thực hiện
dưới hình thái tiền và đó chính là đặc điểm nổi bật nhất để phân biệt Ngân
hàng với các doanh nghiệp khác. Ngoài ra trong quan hệ tín dụng người cho
vay (Ngân hàng ) chỉ trao quyền sử dụng vốn chứ không trao quyền sở hữu

vốn cho người khác.
+Bản chất
Tín dụng ngân hàng ra đời có một vai trò vô cùng quan trọng đó là điều
hoà nhu cầu tạm thời về vốn, chuyển đồng vốn từ những người có nó nhưng
hiện chưa có nhu cầu chi tiêu sang những người cần có nó ngay để chi tiêu
cho đầu tư nhờ vậy xã hội sẽ phát triển không ngừng, đồng vốn luôn có cơ hội
Vũ Thị Lan Hương Lớp: Luật kinh doanh K45
3
Chuyên đề tốt nghiệp
được sinh lời. Như vậy có thể nói bản chất của tín dụng là quan hệ phân phối
dựa trên nguyên tắc hoàn trả vốn.
1.3. Vai trò của tín dụng ngân hàng :
+Tập trung mọi nguồn vốn nhàn rỗi đầu tư vào sản xuất kinh doanh và
hỗ trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Vốn bao giờ cũng là điều kiện cần đầu tiên trong mọi giai đoạn của sản
xuất, hiện tượng thừa vốn, thiếu vốn vẫn luôn tồn tại song song với quá trình
sản xuất, doanh nghiệp thừa vốn ở giai đoạn này lại thiếu vốn ở giai đoạn
khác. Đối với các nhà đầu tư họ luôn muốn vốn của họ sinh lời ngay cả khi
họ chưa có nhu cầu đầu tư trực tiếp, trong khi đó những nhà đầu tư khác lại
cần vốn để trực tiếp đầu tư và sẵn sàng trả phí sử dụng vốn cho người có nó.
Như vậy nếu có sự chuyển nhượng từ người nọ sang người kia thì cả hai cùng
có lợi, hai bên có thể trực tiếp gặp nhau song thông thường là rất khó tốn kém
thời gian, tiền bạc. nếu có một người khác đứng làm trung gian chủ động tìm
hai người kia thì mọi việc sẽ đơn giản hơn rất nhiều.chính vì vậy Ngân hàng
ra đời đảm nhận vai trò trung gian. Thông qua Ngân hàng mọi nguồn tiền
nhàn rỗi được Ngân hàng thu gom lại, trao cho nhà đầu tư, đồng vốn luôn
được lưu thông, sinh lời không chỉ cho nhà đầu tư mà còn cho cả người không
đầu tư nhưng sở hữu nó.
+Tài trợ cho các ngành kinh tế mũi nhọn
Đảng và Nhà nước ta đang thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện

hoá đất nước, nên việc tập trung đầu tư cho các ngành kinh tế trọng diểm là
hết sức cần thiết để tạo dựng thế mạnh cho đất nước, thực hiện điều đó chỉ sử
dụng vốn ngân sách thôi thì chưa đủ, mà cần có sự tham gia của hệ thống
Ngân hàng, Ngân hàng bằng các nghiệp vụ của nó thu gom các nguồn vốn
nhàn rỗi trong dân cư lại và đầu tư tập trung có định hướng của Chính phủ
nhờ đó các công trình đồ sộ của đất nước, các công trình trọng điểm luôn có
đủ vốn để hoạt động.
+Nâng cao chế độ hoạch toán kinh tế của doanh nghiệp :
Vũ Thị Lan Hương Lớp: Luật kinh doanh K45
4
Chuyên đề tốt nghiệp
Khi đem vốn đi cho vay, Ngân hàng đòi hỏi ở doanh nghiệp phải quan
tâm sát sao hơn trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, giảm chi
phí, tăng vòng quay của vốn. Tức là phải thực hiện nghiêm ngặt chế độ hoạch
toán kinh tế, bởi vì có như vậy kết quả kinh doanh của doanh nghiệp mới đảm
bảo khả năng hoàn trả nợ cho Ngân hàng đúng hạn. Thực tế đây là nguyên tắc
bắt buộc của các tổ chức tín dụng khi cho khách hàng vay, song chúng ta thấy
rõ rằng nguyên tắc đó một cách không cố ý đã đã nâng cao hiệu quả hoạt
động cho doanh nghiệp và thực tế đã có không ít khách hàng sau khi làm việc
với Ngân hàng họ đã cải thiện được tình hình kinh doanh.
+Kiềm chế và đẩy lùi lạm pháp
Lạm phát được sinh ra và phát triển song song cùng với sự tồn tại của
kinh tế thi trường đôi khi lạm phát có lợi và đôi khi lại có hại đặc biệt khi nó
ở mức cao. Nếu ở mức cao lạm phat có thể khiến đông tiền mất giá làm giá cả
tăng vọt, sản xuất đình trệ trong khi thị trường lại khan hiếm, hiện tượng này
có thể thấy rõ ở Áchentina trong mấy năm trước, chính vì vật rất cần một
“bàn tay” nào đó có đủ khả năng ngăn chặn và đẩy lùi lạm phát.
Ngân hàng với chức năng của mình có thể huy động mọi nguồn tiền
của xã hội lại và lại tung ra thị trường đầu tư, có thể hạn chế đầu tư bằng việc
tăng mức lãi suất để giữ tiền không cho lưu thông hay khuyến khích đầu tư

bằng hạ thấp lãi suất để thả tiền ra lưu thông, chính nhờ khả năng đó Chính
phủ luôn coi Ngân hàng như là mọt công cụ đắc lực để điều chỉnh lạm phát,
nếu lạm phát xảy ra Chính phủ có thểbuộc Ngân hàng tăng mức lãi suất huy
động và cho vay như vậy tiền lưu thông sẽ giảm xuống lạm phát được hạn chế
và có thể bị đẩy lùi.
+Là cầu nối thúc đẩy quan hệ giao lưu kinh tế trong nước và thế giới
Toàn cầu hoá trở thàn xu thế tất yếu đối với hầu hết các quốc gia và
luôn kèm theo nó luôn là sự chuyển dịch đầu tư từ quốc gia này sang quốc gia
khác với một lượng vốn vô cùng lớn bên cạnh những dòng vào, ra hàng hoá
và Ngân hàng luôn được đề cập đến trong mọi hoạt động chuyển vốn và thanh
Vũ Thị Lan Hương Lớp: Luật kinh doanh K45
5
Chuyên đề tốt nghiệp
toán quốc tế nhờ đó các hoạt động này được thực hiện trôi chảy và hỗ trợ đắc
lực cho việc phát triển kinh tế toàn cầu.
Tóm lại : tín dụng ngân hàng là nhân tố có vai trò tích cực trong nền
kinh tế nói chung và đôi với hoạt động sản xuất kinh doanh của từng danh
nghiệp để từ đó doanh nghiệp có động lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh, nâng
cao lợi nhuận, mở rộng thi trường trong nước và quốc tế; Từ đó đóng góp vào
sự phát triển chung của đất nước và nền kinh tế toàn cầu.
1.4. Các nguyên tắc của hoạt động tín dụng ngân hàng
a ) Nguyên tắc vốn vay phải được đảm bảo bằng giá trị vật tư, hàng hoá
tương đương.
Cho vay có bảo đảm biểu hiện bằng việc cho vay có cầm cố thế chấp
động sản, bất động sản và các khoản phải thu ... Yêu cầu của tài sản bảo đảm
là phải dễ chuyển thành tiền.Tuy vậy không phải nhất thiết khách hàng nào
cũng cần phải có giá trị tài sản mới được vay Ngân hàng. Điều này quan trọng
là khách hàng phải có dự án khả thi có uy tín trong kinh doanh.
Còn tài sản bảo đảm là nhằm giảm bớt rủi ro, mất mát cho Ngân hàng
trong trường hợp người vay không muốn hoặc không có khả năng trả nợkhi

đến hạn. Mỗi một khoản tín dụng đều chứa đựng những rủi ro nhất định do
những yếu tố khách quan mà ta không lường trước được tác động đến kế
hoạch sản xuất kinh doanh của khách hàng, chính vì thế kế hoạch trả nợ
không còn đúng như trong hợp đồng tín dụng hoặc có thể dẫn đến khách hàng
không trả được nợ. Vì vậy bảo đảm sẽ giúp cho Ngân hàng thu lại được vốn
của mình. Bảo đảm bằng tài sản chủ yếu áp dụng với khách hàng còn mới đối
với Ngân hàng, khách hàng có nhu cầu vốn lớn hoặc khách hàng có hệ thống
tài chính không đảm bảo, trong trường hợp này bảo đảm là cơ sở để thu hồi
vốn khi khoản tín dụng cấp cho khách hàng không thể thu hồi.
b ) Nguyên tắc vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích và có hiệu
quả kinh tế.
Vũ Thị Lan Hương Lớp: Luật kinh doanh K45
6
Chuyên đề tốt nghiệp
Khi trình hồ sơ xin vay vốn khách hàng phải gửi tới Ngân hàng các giấy tờ
cần thiết theo pháp luật quy định và trong đó nhất thiết phải có kế hoạch sử dụng
vốn hiệu quả, mục đích của yêu cầu này là để đảm bảo rằng đồng vốn mà Ngân
hàng cấp cho khách hàng phải có khả năng thu hồi. Chính vì vậy sau khi cấp tín
dụng cho khách hàng Ngân hàng luôn giám sát kế hoạch sử dụng vốn xem khách
hàng có sử dụng vốn có đúng mục đích hay không. Nếu trong thực tế sử dụng vốn
Ngân hàng phát triển khách hàng phát hiện khách hàng sử dụng sai so với kế
hoạch sử dụng vốn Ngân hàng có thể yêu cầu khách hàng hoàn trả ngay khoản tín
dụng đã cấp.
c ) Nguyên tắc vốn vay được hoàn trả cả gốc và lãi đúng hạn.
Nguyên tắc này xuất phát từ thực tế Ngân hàng trước khi là nhà cho
vay cũng là người đi vay, vì đi vay nên Ngân hàng cũng phải cam kết với
những người đưa tiền cho Ngân hàng rằng đến thời hạn do hai bên thoả thuận
Ngân hàng phải hoàn trả cho họ cả gốc và khoản lãi. Do đó Ngân hàng cũng
phải yêu cầu khách hàng vay mình phải hoàn trả gốc- lãi đúng hạn để Ngân
hàng thực hiện nghĩa vụ của họ với những người đưa tiền cho Ngân hàng.

Trong điều kiện kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt như hiện nay
việc thực hiện hợp đồng đúng thời hạn là cơ sở để tạo uy tín của doanh nghiệp
và đồng thời cùng với yêu cầu buộc thực hiện hợp đòng đúng thời hạn còn
buộc Ngân hàng và mọi doanh nghiệp phải cố gắng hoạt động hiệu quả hơn
có vậy mới mong tồn tại trong cơ chế thị trường ngày nay.
d ) Nguyên tắc phân tán rủi ro không dồn vốn cho mọi loại tổ chức kinh tế
vay.
Nguyên tắc này nhằm mục đích đa dạng khách hàng phân tán rủi ro
tránh tình trạng tập trung dồn vốn cho một số ít khách hàng lớn.
Giả sử rằng Ngân hàng dồn vốn cho một số khách hàng như vậy đồng
nghĩa với việc Ngân hàng đã gắn số phận của nó với khách hàng của nó tức là
nếu số khách hàng đó bị phá sản thì Ngân hàng cũng bị phá sản theo.
Vũ Thị Lan Hương Lớp: Luật kinh doanh K45
7
Chuyên đề tốt nghiệp
Chính vì vậy Ngân hàng cần thiết phải đa dạng khách hàng và đối với
mỗi khách hàng mức tín dụng cấp tối đa không vượt quá 15% vốn tự có của
tổ chức tín dụng , trừ trường hợp đối với những khoản vay từ nguồn vốn uỷ
thác của Chính phủ, của tổ chức, cá nhân hoặc trường hợp khách hàng vay là
tổ chức tín dụng khác, hoặc trường hợp nhu cầu vốn của khách hàng vượt
quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng hoặc khách hàng có nhu cầu huy
động vốn từ nhiều nguồn thì các tổ chức tín dụng được cho vay hợp vốn theo
quy định của Thống đốc ngân hàng Nhà nước (Điều 79 Luật các tổ chức tín
dụng sửa đổi bổ sung năm 2004 ). Mục đích của quy định trên là nhằm tạo
cho Ngân hàng phát triển bền vững lâu dài.
2. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động quản lý nợ tại chi nhánh
NHNo&PTNT Bắc Vĩnh Yên
Quản lý nợ là kết quả của một quá trình kết hợp hoạt động giữa con
người trong một tổ chức, giữa các tổ chức với nhau vì một mục đích chung,
do đó để đạt chất lượng cần có sự quản lý. Để có chất lượng trong hoạt động

kinh doanh cao, cần có sự quản lý chất lượng đồng bộ, đây là cách quản lý
mới, nó không chỉ nhằm đảm bảo chất lượng tín dụng mà còn nhằm cải tiến
tính hiệu quả và linh hoạt của toàn bộ cơ sở kinh doanh ngay càng dáp ứng
yêu cầu của khách hàng ở mọi công đoạn, bên trong cũng như bên ngoài.
2.1.Các yếu tố bên ngoài
*Yếu tố kinh tế : Một nền kinh tế ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho
hoạt động tín dụng, nền kinh tế ổn dịnh làm cho quá trình sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp tiến hành một cách bình thường, không bị ảnh hưởng bởi
các yếu tố lạm phát, khủng hoảng làm cho khả năng tín dụng và khả năng trả
nợ không biến động lớn, trong trường hợp này thì chất lượng tín dụng phụ
thuộc chủ yếu vào khả năng quản lý nợ của bản thân các Ngân hàng thương
mại.
Vũ Thị Lan Hương Lớp: Luật kinh doanh K45
8
Chuyên đề tốt nghiệp
Vốn nước ngoài cũng ảnh hưởng đến chất lượng quản lý. Do tình trạng
thiếu vốn để phát triển kinh tế, các nước kém phát triển phải tìm mọi cách để
huy động vốn nước ngoài để đầu tư
Bản chất của hoạt động kinh doanh tiền tệ là”vay để cho vay”,do đó
hiệu quả tín dụng còn phụ thuộc vào hiệu quả đầu tư dự án. Tín dụng là cầu
nối giữa hoạt động kinh doanh của Ngân hàng với hoạt động của lĩnh vực sản
xuất vật chất và kinh doanh dịch vụ trong nền kinh tế.Do đó mỗi biểu hiện
không tốt của khách hàng sẽ có ảnh hưởng tương ứng tới hoạt động tín dụng
thông qua cơ chế tác động của những mối quan hệ tín dụng : với khách hàng
sản xuất kinh doanh có lãi, có xu thế phát triển, có khả năng chiếm lĩnh thị
trường và có quan hệ tín dụng tốt (vay trả xòng phẳng) thì cầu nối giữa đi vay
và cho vay sẽ thông suốt và ngày càng mở rộng
Chu kỳ phát triển kinh tế có tác động không nhỏ tới hoạt động quản lý
nợ. Mức độ phù hợp giữa lãi suất Ngân hàng với mức lợi nhuận của các
doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh hàng hoá dịch vụ trong nền kinh tế cũng

ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng . Khi nước ta ra nhập WTO sẽ buộc các
Ngân hàng thương mại trong nước phải nâng cao năng lực quản trị của mình
có sự liên kết với nhau để hạn chế cạnh tranh lãi suất kém lành mạnh.Việc các
Ngân hàng thương mại trong nước không liên kết với nhau như hiện nay đang
tự làm yếu sức cạnh tranh của mình hệ lụy là các Ngân hàng phải cạnh tranh
về giá. Điều này khá rủi ro, đặc biệt là trong bối cảnh nhiều ngân hàng để đảm
bảo có chênh lệch lãi suất phù hợp đã phải sử dụng cả vốn huy động ngắn
hạn, cho vay trung và dài hạn. Thị trường chứng khoán thời gian qua tăng
trưởng quá nóng, lợi nhuận thu được từ đầu tư chứng khoán quá cao khiến lãi
suất tiền gửi trở nên không có ý nghĩa cũng là nguyên nhân khiến các ngân
hàng thương mại phải tăng lãi suất. Nhưng với mức lãi suất cao hơn mức độ
lợi nhuận của doanh nghiệp thu được từ hoạt động sản xuất kinh doanh, các
doanh nghiệp sẽ không có khả năng trả nợ cho ngân hàng, ảnh hưởng tới quá
trình tái xản xuất và tái sản xuất mở rộng của doanh nghiệp nói riêng và của
Vũ Thị Lan Hương Lớp: Luật kinh doanh K45
9
Chuyên đề tốt nghiệp
nền kinh tế nói chung, hoạt động tín dụng lúc này không còn là đòn bẩy để
thúc đẩy sản xuất phát triển và theo đó chất lượng tín dụng cũng bị ảnh
hưởng.
*Yếu tố chính trị xã hội
Khách hàng: là chủ thể đại diện cho bên cung về vốn tín dụng, đồng
thời cũng là đại diện cho bên cầu về vốn vay với tư cách là người cung vốn
tín dụng, họ mong muốn nhận được từ Ngân hàng một khoản lãi tiền gửi hay
những dịch vụ thanh toán thuận tiện. Đối với người vay, họ đến Ngân hàng
với mong muốn nhu cầu vay của mình được đáp ứng để có được một khoản
tín dụng sử dụng cho mục đích kinh doanh với sự rõ ràng về số lượng tiền
vay, thời hạn vay, và lãi suất - giá cả của việc sử dụng vốn vay có thể chấp
nhận được.
Ngân hàng : là chủ thể đại diện cho bên cầu về vốn huy động để cho

vay, đồng thời cũng cung cấp về tín dụng. Quy mô và phạm vi hoạt động của
tín dụng phụ thuộc vào nguồn vốn tự có của Ngân hàng, khả năng huy động
vốn ( về quy mô và thời hạn) cũng như uy tín và trình độ quản lý của Ngân
hàng
Bên cạnh đó, sự biến động của tình hình kinh tế chính trị ở nước ngoài
cũng ảnh hưởng tới chất lượng quản lý trong điều kiện hiện nay. Vì vậy, mọi
sự biến đổi về kinh tế, văn hoá xã hội ở nước ngoài đều ảnh hưởng trực tiếp
hoặc gián tiếp đến chất lượng quản lý, ví dụ như sự kiện Đông Âu làm hàng
loạt các hợp đồng tiêu thụ của các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu bị
phá vỡ hay do hàng nội địa không cạnh tranh được với hàng nhập lậu về giá
cả, chất lượng và chủng loại dẫn tới hàng sản xuất ra không tiêu thụ được gây
khó khăn cho việc trả nợ; các yếu tố về môi trường tự nhiên như thời tiết, dịch
bệnh.
2.2 Các yếu tố bên trong
Các yếu tố bên trong có thể khái quát thành 7 yếu tố chính:
Vũ Thị Lan Hương Lớp: Luật kinh doanh K45
10
Chuyên đề tốt nghiệp
-Cơ chế, quy chế tín dụng: chính sách cơ chế quy chế là cơ sở đảm bảo
cho hoạt động tín dụng đi đúng quỹ đạo, một cơ chế quy chế tín dụng đung
đăn sẽ có tác dung thu hút nhiều khách hàng đảm bảo khă năng sinh lời của
hoạt động tín dụng trên cơ sở phân tán rủi ro tuân thủ pháp luật, đường lối
chính sách của nhà nước và đảm bảo công bằng xã hôi
-Công tác tổ chức của Ngân hàng đuợc sắp xếp một cách khoa học,
đảm bảo sự phối hợp chăt chẽ nhịp nhàng trong từng Ngân hàng, trong toàn
bộ hệ thống Ngân hàng cũng như giữa Ngân hàng với các cơ quan khác như:
tài chính, thuế, pháp lý… sẽ tạo điều kiện đáp ứng kịp thời nhu cầu khách
hàng quản lý chặt chẽ các khoản vốn huy động cũng như các khoản cho vay.
Tổ chức Ngân hàng theo nguyên tắc tập trung có phân cấp chính là một khâu
trong quá trinh quản lý chất lượng tín dụng đông bộ, góp phần thực hiện

chính sách tiền tệ của nhà nước trong từng thời kỳ
-Chất lượng nguồn nhân lực : Con người là nhân tố quan trọng trong
quá trình sản xuất, kinh doanh của xã hội, trong hoạt động Ngân hàng con
người là yếu tố quyết định đến sự thành bại trong quản lý vốn tín dụng cũng
như các hoạt động khác của Ngân hàng .Xã hội ngày càng phát triển đòi hỏi
chất lượng quản lý nhân sự ngày càng cao có đạo đức nghề nghiệp tốt, giỏi về
chuyên môn,am hiểu sâu sắc lĩnh vực khoa học kỹ thuật kiến thức ngoài
ngành( có năng lực phân tích và xử lý nhu cầu xin vay cảu khách hàng, đánh
giá tài sản thế chấp, giám sát số tiền cho vay ngay từ khi cấp tiền cho tới khi
thu hồi được…) sẽ giúp cho Ngân hàng có thể ngăn ngừa được những sai
phạm có thể xảy ra khi thực hiện chu kỳ khép kín của một khoản tín dụng
được cấp.
-Quy trình tín dụng
Quy trình tín dụng bao gồm những quy định vè trình tự công việc cần
phải thực hiện trong quá trình cho vay, thu nợ nhằm đảm bảo an toàn tín
dụng, nó được bắt đầu từ khi chuẩn bị cho vay, (tiếp nhận đơn, thẩm định các
điều kiện của khách hàng vay), phát tiền vay, kiểm tra quá trình cho vay, thu
Vũ Thị Lan Hương Lớp: Luật kinh doanh K45
11
Chuyên đề tốt nghiệp
hồi nợ. Chất lượng tín dụng có đảm bảo hay không tuỳ thuộc vào việc thực
hiện tốt cá quy định của từng bước và sự phối hợp chặt chẽ nhịp nhàng giữa
các bước
-Thông tin tín dụng
Nhờ có thông tin tín dụng, người quản lý có thể đưa ra những quyết
định cần thiết liên quan đến việc cho vay, theo dõi và quản lý các tài sản vay.
Thông tin có thể có sẵn ở Ngân hàng( như hồ sơ vay vốn, thông tin giữa các
tổ chức tín dụng, phân tích đánh giá…) Từ khách hàng ( theo chế độ báo cáo
goặc trao đổi trực tiếp) Các nguồn tin khác như báo chí, khách hàng khác
-Kiểm soát nội bộ

Các lĩnh vực kiểm soát tín dụng bao gồm: kiểm soát việc thực hiện cơ
chế quy chế chính sách tín dụng và các thủ tục có liên quan đến các khoản
vay; kiểm tra định kỳ do kiểm toán viên nội bộ thực hiện kiểm soát đột xuất
việc sử dụng vốn vay, tài sản thế chấp của khách hàng để đánh giá hiệu quả
sử dụng vốn và các khoản đảm bảo vốn vay
-Trang thiết bị phục vụ cho các hoạt động quản lý nợ. trong hoạt động
kinh doanh: Trang thiết bị tiên tiến phù hợp với khả năng tài chính và phạm
vi, quy mô hoạt động của Ngân hàng sẽ giúp cho hoạt động quản lý được tốt
hơn. Nó bao gồm hệ thống nhà làm việc,kho tiền,quầy giao dịch, hệ thống
mạng vi tính, phương tiện làm việc trong Ngân hàng
2. 3. Các dạng rủi ro làm ảnh hưởng đến hoạt động quản lý nợ, cần quan tâm
-Rủi ro do thiếu kiến thức và kỹ năng quản trị kinh doanh : Muốn kinh
doanh tốt phải có kiến thức và năng lực quản trị kinh doanh, sự am hiểu về
quản lý kinh tế , pháp luật của nhà nước chủ trương chính sách cảu Đảng và
Chính phủ
-Rủi ro do yếu kém trong cạnh tranh và ảnh hưởng của mặt trái cơ chế
thị trường : Sụ ảnh hưởng của mặt trái cơ chế thị trường như : buôn lậu trốn
thuế, các tệ nạn xã hội như đánh đề, trộm cắp… đều tác động đến việc quản lý
nợ.
Vũ Thị Lan Hương Lớp: Luật kinh doanh K45
12
Chuyên đề tốt nghiệp
-Rủi ro do thiếu thông tin hoặc thông tin không được tin cậy
-Rủi ro do cơ chế quản lý vĩ mô: Trong nội bộ quản lý mỗi ngành, các
cơ chế quy chế chậm được ban hành, chậm sửa đổi bổ sung cho phù hợp với
điều kiện thực tế và xu hướng pháp luật hoá cúng là nguyên nhân gây không
ít kho khăn cho doanh nghiệp bên dưới , thậm chí còn làm mất tài sản của
doanh nghiệp
-Rủi do tín dụng: không thu hồi được các khoản vay của Ngân hàng,
các khoản nợ được bảo lãnh đến kỳ hạn, khách hàng, người xin bảo lãnh

không thanh toán hoặc không trả nợ cho Ngân hàng. Hiện nay đây là loại rủi
ro lớn nhất và thương xuyên xảy ra, vì hơn 2/3 số nguồn vốn của Ngân hàng
được đem cho vay, nó đem lại thu nhập chủ yếu cho Ngân hàng. Nguyên nhân
chủ yểu của loại rủi ro này là do người vay không có khả năng trả nợ, tạm
thời khó khăn về ngân quỹ vì ứ đọng sản phẩm, bị chiếm dụng vốn, kinh
doanh thô lỗ…hoặc bị rủi ro thuần tuý như lũ lụt, hoả hoạn, sâu bệnh, lừa
đảo…
-Rủi ro lãi suất:
-Rủi ro do bị đọng vốn:
-Rủi ro về thiếu vốn
-Các rủi ro thuẩn tuý
3. Chế độ pháp lý về xủ lý nợ trong các ngân hàng thương mại.
Thực tiễn kinh tế thị trường đã chứng minh pháp luật đã trở thành một
bộ phận không thể thiếu được, không có pháp luật hoặc không có pháp luật
phù hợp với những yêu cầu phát triển của nền kinh tế thì nền kinh tế đó không
thể tiến hành trôi chảy được. Pháp luật có nhiệm vụ tạo ra một môi trường
pháp lý cho mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh tiến hành thuận tiện và đạt
hiệu quả kinh tế cao; là cơ sở giải quyết các vấn đề khiếu nại khi có các vấn
đề tranh chấp xảy ra.Vì vậy, yếu tố pháp luật có vị trí hết sức quan trọng đối
với hoat động Ngân hàng. Chỉ trong điều kiện các chủ thể tuân thủ pháp luật
một cách nghiêm chỉnh thì quan hệ tín dụng mới đem lại lợi ích cho cả 2 phía
Vũ Thị Lan Hương Lớp: Luật kinh doanh K45
13
Chuyên đề tốt nghiệp
và chất lượng nợ trong hoạt động kinh doanh mới đảm bảo, nó góp phần hạn
chế rủi ro, bảo toàn vốn, nâng cao thu nhập và lợi nhuận.
Khi ngân hàng có nợ thì tức cán bộ tín dụng ngân hàng phải tiến hành
tìm hiểu, phân loại các khoản nợ đó theo nguyên nhân làm phát sinh nợ quá
hạn và từ đó lựa chọn biện pháp xử lý nợ cho phù hợp như khoanh nợ, xoá
nợ, điều chỉnh kì hạn trả nợ … phù hợp với các quy định của ngân hàng, và

của pháp luật.
3.1. Khoanh nợ
Khoanh nợ là biện pháp mà Chính phủ cho phép ngân hàng không tính
lãi suất trong một thời gian nhất định đối với những khoản nợ do nguyên nhân
khách quan, khó có khả năng thu hồi. Những khoản nợ được Chính phủ cho
phép khoanh nợ sẽ được chuyển dư nợ từ ngân hàng sang tài khoản phải thu
của ngân hàng nhà nước.
Khoanh nợ được quy định trong khoản 1 Mục B, phần II Thông tư
liên tịch số 03/ 1997/TTLT-NHNN-BTC ngày 22/11/1997 về xử lý nợ quá
hạn trong các ngân hàng thương mại quốc doanh qua trấn chỉnh hoạt động
ngân hàng sau thanh tra.
* Phạm vi đối tượng xử lý :
Đối tượng được khoanh nợ là các doanh nghiệp nhà nước do thay đổi
cơ cấu chính sách, mất thị trường, doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả,
ngừng hoạt động nhưng không giải thể hoặc chưa được sắp xếp lại.
* Nguyên tắc :
Chỉ khoanh nợ đối với các khoản nợ do nguyên nhân khách quan.
Không tính lãi khoanh nợ được khoanh.
Khoản nợ được khoanh sẽ được chuyển từ dư nợ NHTM sang tài khoản
phải thu của ngân hàng nhà nước hoặc được bù đắp bằng quỹ dự phòng rủi ro.
• Hồ sơ thủ tục :
Theo thông tư liên tịch số 03/1997/TTLT-NHNN-BTC thì đối tượng
được khoanh nợ phải lập hồ sơ như sau :
Vũ Thị Lan Hương Lớp: Luật kinh doanh K45
14
Chuyên đề tốt nghiệp
-Các văn bản liên quan trực tiếp đến việc phát sinh nợ quá hạn của
doanh nghiệp, quyết định ngừng hoạt động của các cấp thẩm quyền mà cụ thể
là ra quyết định thành lập.
-Đề nghị các doanh nghiệp, có xác nhận của cơ quan nhà nước có thẩm

quyền về nguyên nhân phát sinh nợ quá hạn. Đây là căn cứ quan trọng để
tránh việc doanh nghiệp lợi dụng việc khoanh nợ của nhà nước cố tình lừa bịp
trốn tránh trách nhiệm trả nợ ngân hàng.
-Phương án kinh doanh có hiệu quả về kế hoạch trả nợ ngân hàng sau
khi hết hạn khoanh nợ.
-Khế ước vay vốn
Hồ sơ sẽ được gửi lên Ban chỉ đạo xử lý nợ quá hạn của NHTM.
Đối với những khoản nợ sau khi được Ban chỉ đạo xử lý nợ quá hạn
đồng ý cho khoanh nợ thì NHTM yêu cầu khách hàng đến ký biên bản bổ
sung hợp đồng tín dụng để xác định lại lịch trả nợ.
3.2. Xoá nợ
Xoá nợ là biện pháp áp dụng nếu việc nợ khoanh vẫn không được giải
quyết thu hồi và một số khoản nợ không có khả năng thu hồi.
Theo quy định trong Khoản 2 Mục B, phần II Thông tư liên tịch số 03/
1997/TTLT-NHNN-BTC ngày 22/11/1997 thì xoá nợ là việc xoá bỏ các
khoản nợ có vấn đề ra khỏi bảng cân đối kế toán. Đây là biện pháp xử lý nợ
nhằm loại bổhàn toàn khoản nợ tồn đọng tại ngân hàng
• Phạm vi đối tượng xử lý
Khoản nợ của khách hàng là doanh nghiệp, hợp tác xã, cá nhân, hộ gia
đình do nguyên nhân bất khả kháng như : thiên tai lũ lụt, mất mùa, dịch bệnh
dẫn đến không có khả năng trả nợ ngân hàng.
Doanh nghiệp nhà nước có quyết định tuyên bố phá sản của toà án nhân
dân hoặc quyết dịnh giải thể không còn khả năng trả nợ ngân hàng.
Vũ Thị Lan Hương Lớp: Luật kinh doanh K45
15
Chuyên đề tốt nghiệp
Khách hàng là cá nhân bị Toà án tuyên bố là đã chết theo quy định tại
điều 91 Bộ luật Dân sự hoặc tuyên bố mất tích tại điều 88 mà không còn
người thừa kế tài sản theo quy định của pháp luật.
* Hồ sơ thủ tục

Các đối tượng thuộc diện được xoá nợ phải lập hồ sơ theo quy dịnh tại
Khoản 1 Phần B Thông tư liên tịch số 03 bao gồm :
- Biên bản xác nhận vay vốn tại ngân hàng
- Biên bản xác nhận thiệt hại do thiên tai, lũ lụt, dịch bệnh, mất mùa
đối với đối tượng vay vốn, trong đó ghi rõ mức độ và số vốn bị thiệt
hại, có đề nghị hoặc xác nhận của cơ quan có thẩm quyền tại địa
phương nơi xảy ra thiệt hại. Cụ thể như sau :
Doanh nghiệp nhà nước : có xác nhận của UBND Tỉnh, Thành phố, xác
nhận của cơ quan chức năng liên quan đến nguyên nhân này ở địa phương,
xác nhận của ngân hàng nhà nước tỉnh, thành phố và ngân hàng cho vay vốn.
Nếu là doanh nghiệp nhà nước đã giải thể phá sản thì phải có quyết
định giải thể hoặc phá sản của Toà án. Kèm theo phương án giải thể, phân
chia tài sản của doanh nghiệp, báo cáo quyết toán quá trình giải thể.
- Khế ước vay vốn
Việc xoá nợ đối với khách hàng vay vốn tại ngân hàng thương mại sẽ
giải quyết dứt điểm các khoản nợ không có khả năng thu hồi tạo điều kiện cho
các khách hàng vay vốn không may mắn có cơ hội làm lại không bị gánh nặng
nợ nần. Song với hồ sơ thủ tục như trên thì khách hàng thuộc diện được xoá
nợ phải có quá nhiều giấy chứng minh xác nhận của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền khác nhau. Tuy các giấy tờ xác minh là điều cần thiết để tránh
khách hàng lợi dụng rút tiền của nhà nước nhưng cũng nên đơn giản bớt
thủ tục để tạo điều kiện cho khách hàng không tốn kém quá nhiều thời
gian, tiền của khi làm hồ sơ thủ tục xin xoá nợ.
3.3 Gia hạn nợ, điều chỉnh kì hạn trả nợ
Vũ Thị Lan Hương Lớp: Luật kinh doanh K45
16
Chuyên đề tốt nghiệp
Điều 3, Quyết định 1627/2001/QĐ-TTg ngày 31/12/2001 của Thống đốc
NHNN về việc ban hành quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng quy
định :

Gia hạn nợ là việc tổ chức tín dụng chấp nhận kéo dài thêm một
khoảng thời gian ngoài thời gian cho vay đã thoả thuận trong hợp đồng tín
dụng.
Điều chỉnh kì hạn trả nợ là việc tổ chức tín dụng và khách hàng thoả
thuận về việc thay đổi kỳ hạn trả nợ đã thoả thuận từ trước trong hợp đồng tín
dụng. trong khái niệm này kỳ hạn trả nợ được hiểu là các khoảng thời gian
trong thời hạn cho vay giữa tổ chức tín dụng và khách hàng mà tại cuối mỗi
khoảng thời gian đó khách hàng phải trả một phần hoặc toàn bộ vốn vay cho
tổ chức tín dụng.
Sự khác nhau giữa gia hạn nợ và điều chỉnh kì hạn trả nợ là : gia hạn
nợ sẽ làm thay đổi kỳ hạn trả nợ cuối cùng theo như thoả thuận trong hợp
đồng còn điều chỉnh kì hạn trả nợ thì không làm thay đổi kỳ hạn trả nợ cuối
cùng mà chỉ làm thay đổi kỳ hạn trả nợ từng phần trong hợp đồng.
Gia hạn nợ, điều chỉnh kì hạn trả nợ là hình thức xử lý đơn giản nhanh
chóng vừa giảm nợ quá hạn tại ngân hàng vừa tạo điều kiện cho khách hàng
có thêm thời gian để thu xếp nguồn tiền trả nợ. Điều này đặc biệt có ý nghĩa
đối với những doanh nghiệp vay vốn do một nguyên nhân nào đó làm chậm
chu kỳ kinh doanh, làm đọng vốn ở khách hàng hoặc sản phẩm hàng hoá
không kịp thu hồi để trả nợ.
• Phạm vi đối tượng : là các khoản nợ do nguyên nhân khách quan
mà khách hàng không trả được nợ đúng hạn và khách hàng có nhu
cầu kéo dài thời hạn trả nợ.
• Thủ tục gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn trả nợ
- Khách hàng lập giấy đề nghị gia hạn, điều chỉnh kỳ hạn trả nợ gửi
cho ngân hàng nơi vay trước ngày đến hạn trả nợ.
Vũ Thị Lan Hương Lớp: Luật kinh doanh K45
17
Chuyên đề tốt nghiệp
- Cán bộ tín dụng thẩm định, trình trưởng phòng tín dụng và giám
đốc.

- Giám đốc xem xét và quyết định.
Các trường hợp ngân hàng đồng ý gia hạn nợ, điều chỉnh thời hạn trả
nợ thì ngân hàng với khách hàng thoả thuận bổ sung vào hợp đồng tín dụng.
3.4 Thanh lý tài sản
Ngoài các biện pháp xử lý trên thì đối với những khoản nợ có tài sản
bảo đảm Ngân hàng có thể thanh lý tài sản để thu hồi nợ. Việc thanh lý tài sản
áp dụng theo Thông tư liên tịch số 03/2001/TTLT-BTP-BCA-BTC-TCĐC
ngày 23/04/2001 của NHNN, Bộ tư pháp, Bộ Công an, Bộ Tài chính, Tổng
cục địa chính hướng dẫn xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ cho các tổ chức
tín dụng và các văn bản khác có liên quan.
* Phạm vi áp dụng
Áp dụng đối với các khoản nợ vay có tài sản bảo đảm.
*Nguyên tắc áp dụng
Xử lý tài sản bảo đảm phải đảm bảo nguyên tắc công khai, đơn giản,
thuận tiện, nhanh chóng, đảm bảo quyền lợi cho các bên và tiết kiệm chi phí.
* Thủ tục xử lý
Việc xử lý tài sản bảo đảm có thể do hai bên thoả thuận hoặc do Ngân
hàng toàn quyền xử lý tuỳ thuộc vào từng khoản nợ và việc xử lý phải tuân
theo các quy định khác nhau.
+Xử lý tài sản bảo đảm theo thoả thuận : Được quy định tại Mục I,
Phần B Thông tư liên tịch số 03/2001/TTLT-BTP-BCA-TCĐC. Ngân hàng và
bên bảo đảm tại hợp đồng hoặc hợp đồng bảo đảm có thể thoả thuận sửa đổi
bổ sung hoặc thoả thuận mới về xử lý tài sản bảo dảm. Trước khi xử lý Ngân
hàng, tổ chức tín dụng phải thông báo bằng văn bản cho bên bảo đảm và đăng
ký thông báo yêu cầu xử lý tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật về
đăng ký giao dịch bảo đảm(Nội dung thông báo được quy định tại điểm 2,
Mục I, Phần B-Thông tư liên tịch số 03/2001).
Vũ Thị Lan Hương Lớp: Luật kinh doanh K45
18
Chuyên đề tốt nghiệp

-Chuẩn bị xử lý tài sản
Tổ chức tín dụng lập biên bản xxử lý tài sản bảo đảm.
Ngân hàng, tổ chức tín dụng, khách hàng có thể thoả thuận phương
thức xử lý sau :Bán tài sản bảo đảm, tổ chức tín dụng nhận tài sản bảo đảm để
thay thế nghĩa vụ trả nợ, nhận các khoản tiền, tài sản mà bên thứ ba phải trả
hoặc phải giao cho bên bảo đảm.
- Sau khi xử lý tài sản bảo đảm xong tổ chức tín dụng xoá đăng kí
khoản vay xử lý tài sản, đăng ký giao dịch bảo đảm.
* Xử lý tài sản thuộc quyền xử lý tài sản bảo đảm của tổ chức tín dụng :
quy định tại Điều 34 Nghị định 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 về bảo
đảm tiền vay của các Tổ chức tín dụng và tại Mục II phần B Thông tư liên
tịch 03.
Đối với tài sản bảo đảm thuộc quyền xử lý của tổ chức tín dụng thì
khách hàng, bên bảo lãnh phải giao tài sản cho tổ chức tín dụng để xử lý theo
các biện pháp sau:
-Trực tiếp bán cho người mua
-Uỷ quyền bán đấu giá tài sản cho Trung tâm bán đấu giá tài sản theo
quy định của pháp luật về bán đấu giá tài sản.
-Uỷ quyền hoặc chuyển giao cho tổ chức có chức năng được mua bán
tài sản để bán.
-Nhận tài sản bảo đảm để thay thế cho nhiệm vụ trả nợ.
-Nhận tiền hoặc tài sản từ bên có nghĩa vụ trả nợ cho khách hàng vay.
Tài sản bảo đảm khi chưa được xử lý thì tổ chức tín dụng có quyền khai
thác sử dụng tài sản bảo đảm. Số tiền thu được từ khai thác, sử dụng tài sản
sau khi trừ chi phí sẽ dùng để thu hồi nợ.
3.5. Bán nợ
Bán nợ quá hạn được áp dụng theo quy chế mua bán nợ của các tổ chức
tín dụng ban hành kèm theo Quyết dịnh số 140/1999/QĐ-NHNN4 ngày
19/1/1999 của thống đốc Ngân hàng nhà nước.
Vũ Thị Lan Hương Lớp: Luật kinh doanh K45

19
Chuyên đề tốt nghiệp
Bán nợ là việc chuyển giao quyền đòi nợ đối với các khoản nợ từ tổ
chức tín dụng sang bên mua nợ.
* Phạm vi áp dụng
Bán nợ quá hạn chỉ áp dụng đối với các khoản nợ mà bên nợ đang hoạt
động, khoản nợ có khả năng thu hồi nhưng gặp khó khăn tạm thời về tình
hình sản xuất kinh doanh chưa trả được nợ gốc hoặc cả gốc và lãi khi đến hạn.
* Nguyên tắc
An toàn cho hoạt động của tổ chức tín dụng, phải phù hợp với những
quy định của pháp luật Việt Nam.
Bảo đảm quyền lợi hợp pháp của tổ chức tín dụng, bên mua nợ.
Khoản nợ được chuyển giao theo hợp đồng tín dụng hoặc khế ước vay.
* Thủ tục bán nợ
Ngân hàng xử lý nợ bằng biện pháp bán nợ phải đảm bảo đúng đối
tượng theo đúng nguyên tắc xử lý và tuân theo thủ tục bán nợ được quy định
tại Điều 8 - Quyết định 140/1999/QĐ-NHNN ngày 19/4/1999 của Thống đốc
NHNN ban hành qyu chế mua bán của các tổ chức tín dụng.
-Tổ chức tín dụng nợ thông báo cho bên mua nợ các nội dung liên quan
(số dư, lãi suất, thời hạn, giá cả mua bán).
-Bên mua phân tích các khoản nợ, tình hình hoạt động của con nợ
-Tổ chức tín dụng và bên mua thống nhất nội dung của hợp đồng. Nội
dung của hợp đồng được quy định tại Điều 9 Quyết định số 140/QĐ-
NHNH4.
-Tổ chức tín dụng gửi thông báo bằng văn bản về hợp đồng mua bán
cho bên nợ biết. Nội dung của thông báo được quy định tại Khoản 5, Điều 8,
Quyết định số 140/ QĐ-NHNN.
- Thực hiện hợp đồng mua bán: tổ chức tín dụng chuyển giao toàn bộ
hồ sơ có liên quan đến khoản nợ được bán, bên mua chuyển tiền cho bên bán
theo giá trị thoả thuận.

- Giải quyết các vấn đề tồn tại (nếu phát sinh).
Vũ Thị Lan Hương Lớp: Luật kinh doanh K45
20
Chuyên đề tốt nghiệp
Bán nợ không chỉ là một biện pháp xử lý nợ quá hạn mà còn là một
hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại cho phép các ngân hàng
thương mại bán các khoản nợ của mình và thu về một số tiền có thể là ít hơn
khoản nợ nhưng tránh được những rủi ro khi khách hàng xù nợ, chạy nợ
không thu hồi được. Bán nợ thực chất là sự chuyển rủi ro từ ngân hàng sang
bên mua nợ. Trong quy chế mua bán nợ thủ tục mua bán nợ đơn giản giống
như việc mua bán một hàng hoá thông thường, nợ được coi là hàng hoá điều
này hoàn toàn phù hợp với nền kinh tế thị trường hiện nay.
3.6. Thành lập công ty quản lý nợ và khai thác tài sản
Ngân hàng thương mại được phép thành lập Công ty quản lý nợ và khai
thác tài sản trực thuộc ngân hàng thương mại theo quyết định số 150/QĐ-TTg
ngày 5/10/2001 của Thủ Tướng Chính phủ về việc thành lập công ty quản lý
nợ và khai thác tài sản trực thuộc NHTM.
Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản là công ty con, công ty trực
thuộc Ngân hàng thương mại, có tư cách pháp nhân, hạch toán độc lập, hoạt
động trong lĩnh vực quản lý nợ và khai thác tài sản nợ vay. Trong định nghĩa
này chưa nêu rõ loại hình công ty và điều kiện để được thành lập công ty là
phải có ít nhất ba năm hoạt động, số vốn lớn đã kiến cho các Ngân hàng
thương mại cổ phần, Ngân hàng liên doanh không được phép thành lập công
ty quản lý nợ và khai thác tài sản. Điều này một phần là nhằm tạo điều kiện
cho hoạt động của các công ty quản lý và khai thác tài sản có hiệu quả và
vững chắc nhưng đồng thời nó tạo ra sự bất bình đẳng trong hệ thống các
ngân hàng thương mại tại Việt Nam.
*Nội dung hoạt động của công ty bao gồm
_Quản lý nợ và khai thác tài sản theo sự uỷ thác của Ngân hàng bao
gồm việc tiếp nhận quản lý các khoản nợ của Ngân hàng Thương mại để tiến

hành xử lý thay cho ngân hàng; tiếp nhận, quản lý tài sản thế chấp của Ngân
hàng Thương mại để tiến hành xử lý thay cho ngân hàng; tiếp nhận, quản lý
tài sản thế chấp của Ngân hàng Thương mại để cải tạo nâng cấp, sửa chữa,
Vũ Thị Lan Hương Lớp: Luật kinh doanh K45
21
Chuyên đề tốt nghiệp
khai thác, bán, cho thuê nhằm thu lại được số nợ mà khách hàng đã không trả
ngân hàng.
_Thu hồi các khoản nợ quá hạn theo sự uỷ thác của ngân hàng
_Thực hiện việc mua bán với các Ngân hàng Thương mại khác hoặc
với các công ty quản lý nợ và khai thác tài sản khác.
_Hoàn chỉnh hồ sơ các khoản nợ được khoanh, được xoá để giải quyết
dứt điểm các khoản nợ theo uỷ thác của Ngân hàng Thương mại.
_Quản lý khai thác bán các khoản nợ và tài sản của các công ty quản lý
nợ và khai thác tài sản khác.
_Thực hiện các hoạt động khác theo uỷ quyền của Ngân hàng.
Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản thực hiện xử lý nợ theo quy
định của pháp luật hiện hành.
3.7. Sử dụng Quỹ dự phòng rủi ro để bù đắp
Hoạt động kinh doanh tiền tệ là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro nhất
vì vậy Ngân hàng nhà nước đã ban hành quy định về trích lập và sử dụng quỹ
dự phòng rủi ro để bù đắp các khoản rủi ro có thể xẩy ra đảm bảo cho các
ngân hàng hoạt động an toàn và ổn dịnh. Việc trích lập và sử dụng quỹ dự
phòng rủi ro được quy trong Quyết định 448/2000/QĐ- NHNN ngày
27/11/2000 của Thống đốc NHNN về quy chế phân loại tài sản có trích lập và
sử dụng quỹ dự phòng để xử lý rủi ro.
Sử dụng quỹ dự phòng rủi ro để xử lý là việc hạch toán chuyển những
khoản rủi ro từ hạch toán nội bảng sang hoạch toán ngoại bảng. Xử lý rủi ro
bằng quỹ dự phòng rủi ro không làm giảm đi nghĩa vụ trả nợ của khách hàng
cũng như trách nhiệm thu hồi nợ của ngân hàng.

*Nguyên tắc
Xử lý nợ bằng qiũy dự phòng rủi ro là cách dùng quỹ này để bù đắp
vào phần nợ đã bị thất thu đảm bảo an toàn cho hoạt động của ngân hàngnên
phải tuân thủ các nguyên tắc về trích lập và xử lý rủi ro như :
-Xử lý rủi ro trong giới hạn quỹ dự phòng rủi ro
Vũ Thị Lan Hương Lớp: Luật kinh doanh K45
22
Chuyên đề tốt nghiệp
-Không điều chỉnh giảm số nợ trong hồ sơ cho vay đối với phần nợ đã
được xử lý điều này có nghĩa là việc xử lý nợ bằng phương pháp này chỉ là
việc tạm thời dùng quỹ dự phòng bù đắp để ổn định về tình hình tài chính của
ngân hàng mà không làmg thay đổi số nợ cũng như nghĩa vụ trả nợ của khách
hàng.
-Đảm bảo bí mật và tuyệt đối không được thông báo cho khách hàng để
tránh tình trạng khách hàng không thực hiện nghĩa vụ trả nợ ngân hàng.
-Ngân hàng tiếp tục theo dõi và có các biện pháp tích cực để thu hồi nợ.
*Phạm vi đối tượng xử lý
Trong Quyết định 448/2000/QĐ-NHNN ngày 27/11/2000 có quy định
rõ về từng đối tượng được sử dụng quỹ dự phòng rủi ro để bù đắp như sau :
- Khách hàng là tổ chức bị phá sản giải thể và đã hoàn thành việc
thanh toán tài sản nhưng không đủ bù dắp khoản nợ.
- Khách hàng vay vốn, người bảo lãnh, người được hưởng dịch vụ
thanh toán do nguyên nhân bất khả kháng không trả nợ được ngân
hàng.
- Những khoản nợ được Chính phủ cho phép xoá nợ nhưng chưa
được cấp nguồn vốn bù dắp.
Hồ sơ thủ tục :
Xử lý nợ quá hạn bằng quỹ dự phòng rủi ro phải tuân theo quy định về
trích lập và xử lý rủi ro theo Quyết định 448/2000/QĐ-NHNN ngày
27/11/2000 bao gồm :

-Hồ sơ cho vay và thu hồi nợ, các giấy tờ khác có liên quan đến những
rủi ro do ngân hàng lập trong quá trình kiểm tra việc sử dụng vốn.
-Hồ sơ xử lý tài sản cầm cố, thế chấp, xiết nợ nếu là tài sản phát mại.
-Khế ước vay vốn
Ngoài ra hồ sơ cần có cần có thêm các loại giấy tờ :
-Quyết định tuyên bố phá sản của toà án hoặc quyết định giải thể của
cơ quan có thẩm quyền.
Vũ Thị Lan Hương Lớp: Luật kinh doanh K45
23
Chuyên đề tốt nghiệp
-Đối với khoản nợ được Chính phủ cho phép xoá nợ thì phải có văn bản
của Chính phủ cho phép xoá nợ.
Hồ sơ sẽ được trìn lên hội đồng xử lý rủi ro xem xét và quyết định.
3.8. Yêu cầu toà án tuyên bố phá sản doanh nghiệp
Trong một số trường hợp khách hàng hoạt động không có hiệu quả dù
đã cố gắng nhưng vẫn không có khả năng trả nợ ngân hàng thì cho dù ngân
hàng có cố áp dụng các biện pháp xử lý nợ như đã nêu trên cũng không có
khả năng thu hồi nợ. Khi đó ngân hàng phải yêu cầu Toà án tuyên bố phá sản
doanh nghiệp và tài sản còn lại của doanh nghiệp được xử lý để thanh toán
công nợ theo quy định của Luật phá sản doanh nghiệp ngày 15/6/2004.
*Phạm vi áp dụng
Việc yêu cầu toà án tuyên bố phá sản doanh nghiệp chỉ áp dụng đối với
những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài, mất khả năng thanh toán nợ một
cách trầm trọng sau khi đã áp dụng mọi biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn
không có dấu hiệu phục hồi.
*Thủ tục :
Theo Luật Phá sản doanh nghiệp ngày 15/6/2004 thì ngân hàng muốn
yêu cầu Toà án tuyên bố doanh nghiệp phá sản để thu hồi nợ thì phải tuân
theo thủ tục sau :
-Ngân hàng Thương mại làm đơn yêu cầu Toà án tuyên bố phá sản đối

với doanh nghiệp. Nội dung đơn yêu cầu được quy định tại Điều 13 Luật phá
sản doanh nghiệp ngày 15/6/2004.
-Toà án kinh tế thuộc Toà án Nhân dân Tỉnh thụ lý đơn, xem xét và
quyết định.
-Việc xử lý tài sản của doanh nghiệp được quy định tại Luật phá sản
doanh nghiệp.
-Việc phân chia giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp theo thứ tự :
+Chi phí giải quyết phá sản
+Nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội.
Vũ Thị Lan Hương Lớp: Luật kinh doanh K45
24
Chuyên đề tốt nghiệp
+Nợ thuế, ngân sách nhà nước.
+Nợ các chủ nợ khác
Như vậy, sau khi tài sản còn lại của doanh nghiệp được dùng để chi trả
phí giải quyết tại toà, khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội, nợ
nhà nước nếu còn thì thanh toán đến các khoản nợ ngân hàng. Nếu tài sản của
doanh nghiệp không đủ bù đắp khoản nợ thì ngân hàng sẽ dùng quỹ dự phòng
rủi ro để bù đắp.
4. Đối với các khoản nợ quá hạn có dư nợ đến ngày 31/12/2000
Do tình hình nợ quá hạn tồn đọng tại các ngân hàng thương mại khá
cao và việc xử lý nợ gặp khó khăn. Bởi vậy theo đề nghị của các ngân hàng
thương mại về cơ cấu lại nợ xấu, lành mạnh tình hình tài chính, Thủ tướng
Chính phủ đã ra Quyết định 149/2001/QĐ-TTg ngày 05/10/2001 của Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt đề án xử lý nợ tại các ngân hàng thương mại. Nợ
quá hạn có dư nợ đến ngày 31/12/2000 gọi tắt là nợ tồn đọng được xử lý theo
quyết định này và các văn bản phát luật có liên quan bao gồm : nợ tồn đọng
có tài sản bảo đảm, nợ tồn đọng không có tài sản bảo đảm nhưng con nợ còn
tồn tại đang hoạt động.
4.1. Nợ tồn đọng có tài sản bảo đảm

* Nguyên tắc xử lý : Xử lý nợ tồn đọng có tài sản bảo đảm phải hoàn
toàn tuân thủ theo nguyên tắc chung về xử lý nợ tồn đọng được quy định tại
Điều 1 Quyết định 149/2001/QĐ-TTg. Việc xử lý nợ tồn đọng của các ngân
hàng thương mại phải bảo đảm vững chắc; không tái diễn, không gây mất ổn
định hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại và nền kinh tế. Phải có
biện pháp tận thu nợ tồn đọng của ngân hàng để hạn chế tối đa tổn thất tài sản
quốc gia và tiết kiệm cho ngân sách nhà nước.
Ngoài ra việc xử lý nợ có tài sản bảo đảm còn phải tuân thủ theo
nguyên tắc riêng như phải tiến hành xử lý công khai, nhanh chóng, đúng pháp
luật.
*Phạm vi xử lý
Vũ Thị Lan Hương Lớp: Luật kinh doanh K45
25

×