Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

đề tài: quyền tham gia quản lý nhà nước của người dân tộc thiểu số trong lĩnh vực lập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (757.05 KB, 62 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
NIÊN KHÓA: 2011-2015
Đề tài:

QUYỀN THAM GIA QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC CỦA
NGƢỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ TRONG LĨNH VỰC LẬP
PHÁP

Giảng viên hƣớng dẫn:

Sinh viên thực hiện :

ThS. Thạch Huôn

Danh Thị Hồng Ngoan

Bộ môn: Luật Thƣơng Mại

MSSV: 5117329
Lớp: HG1165A1

Cần Thơ, Tháng 12/2014


LỜI CẢM ƠN

Như chúng ta đã biết, không có sự thành công đi đến bước cuối cùng nào trong quá


trình học tập mà không gắn liền với sự hỗ trợ từ thầy cô, gia đình và bạn bè. Bản thân
người viết cũng vậy, thời gian qua người viết đã nhận được rất nhiều sự quan tâm, giúp
đỡ, động viên từ đó người viết có động lực hoàn thành luận văn tốt nghiệp của mình.
Với lòng biết ơn sâu sắc nhất, người viết xin gởi lời cảm ơn chân thành đến thầy
Thạch Huôn, người thầy đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo cho người viết rất nhiều trong
suốt quá trình nghiên cứu luận văn. Nhờ có sự hướng dẫn và giúp đỡ từ thầy hôm nay
người viết mới hoàn thành tốt luận văn tốt nghiệp của mình. Đồng thời, người viết xin
gởi lời cảm ơn đến quý thầy cô Khoa Luật, Khoa Phát Triển Nông Thôn nơi người viết
gắn bó, học tập trong suốt thời gian khó khăn nhất khi về Hòa An, đã được thầy cô chỉ
bảo, chăm lo rất nhiều. Bên cạnh đó, người viết xin đặc biệt cảm ơn đến quý thầy cô
trong Hội đồng bảo vệ luận văn tốt nghiệp đã cung cấp thêm cho người viết những kiến
thức mới để người viết có thể phát hiện ra sai sót và hoàn thiện bài luận văn tốt nghiệp
của mình. Bởi, do kiến thức có hạn và thời gian hoàn thành đề tài nghiên cứu không
nhiều vì thế không tránh khỏi những thiếu sót, nên người viết rất mong nhận được sự
thông cảm từ quý thầy cô và xin ghi nhận những ý kiến đóng góp quý báo từ phía thành
viên Hội đồng để người viết bổ sung kiến thức tốt hơn trong cuộc sống cũng như trong
công việc sau này.
Lời sau cùng, người viết xin chúc quý thầy cô Khoa Luật, Khoa Phát Triển Nông
Thôn cùng các bạn sinh viên nhiều sức khỏe và nhiều thành công trong cuộc sống.
Xin chân thành cảm ơn.

Cần Thơ, ngày 10 tháng 12 năm 2014
Sinh viên thực hiện
Danh Thị Hồng Ngoan


NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƢỚNG DẪN

..........................................................................................................................
..........................................................................................................................

..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
Cần Thơ, ngày 10 tháng 12 năm 2014


NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG BẢO VỆ LUẬN VĂN

..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................

..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
Cần Thơ, ngày 10 tháng 12 năm 2014


PHỤ LỤC
Bảng thống kê số lượng Đại biểu Quốc Hội là người dân tộc thiểu số từ khóa I đến khóa
IX.
TT


Dân tộc

Tổng số dân

Đại biểu các khóa
I

II

III

IV

V

VI VII VIII IX

3

4

5

6

7

8

9


10

11

12

1. Tày

1.190.224

8

13

10

12

14

7

10

13

12

2. Thái


1.040.549

6

8

7

10

11

6

7

4

5

3. Mường

914.596

2

7

11


9

9

6

7

7

6

4. Hoa (Hán)

900.185

1

2

3

2

3

6

3


1

2

5. Khơme

895.294

1

0

0

1

1

5

6

4

5

6. Nùng

705.709


3

6

4

9

8

4

5

4

3

7. Mông

558.058

2

6

5

10


6

4

4

5

5

8. Dao

473.945

1

7

7

6

5

3

4

5


4

9. GiaRai

242.291

2

1

1

1

0

2

2

2

2

10. Ê Đê

194.710

2


2

2

2

1

2

2

2

3

11. Ba Na

136.859

3

2

1

1

0


2

2

3

2

12. Sán Chay

114.012

1

2

1

1

2

1

2

1

1


13. Chăm

98.971

1

0

0

1

1

1

2

1

1

14. Xơ Đăng

96.766

0

0


0

0

0

2

2

1

1

15. Sán Dìu

94.630

0

1

0

1

1

0


2

1

0

1

2

(Cao Lan)


16. Hrê

94.259

1

0

1

0

1

1


1

1

1

17. CơHo

92.190

0

0

0

0

0

1

1

1

1

18. GiaRai


71.696

0

0

0

0

0

0

1

1

1

19. M Nông

67.340

0

0

0


0

0

1

1

0

1

20. Thổ

51.274

0

0

0

0

0

0

1


1

1

21. Xtiêng

50.194

0

0

0

0

0

0

1

1

1

22. Khơmú

42.853


0

1

0

1

1

1

1

0

2

23. Bru – Vân
Kiều

40.132

0

1

1

1


1

2

1

1

1

24. Giáy

37.964

0

0

0

1

1

1

1

1


1

25. Cơ Tu

36.967

0

0

0

0

0

1

1

2

0

26. Gié – Triêng

26.924

0


0

0

0

0

0

1

2

1

27. Tàôi

26.044

0

0

0

0

0


0

1

0

0

28. Mạ

25.436

0

0

0

0

0

1

1

2

1


29. Co

22.649

0

0

0

0

0

1

1

0

0

30. Chơ Ro

15.022

0

0


0

0

0

0

2

1

1

31. Hà Nhì

12.489

0

1

2

2

1

1


1

1

1

32. Xinh Mun

10.890

0

0

0

1

1

1

1

1

0

33. La Chí


7.863

0

0

0

0

0

0

0

1

0

34. Lô Lô

3.134

0

0

1


0

1

1

1

0

0


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU .................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................................... 1
2. Mục đích nghiên cứu .................................................................................................. 2
3. Phạm vi nghiên cứu .................................................................................................... 2
4. Phƣơng pháp nghiên cứu ........................................................................................... 2
5. Kết cấu đề tài ............................................................................................................... 2
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN THAM GIA QUẢN LÝ NHÀ
NƢỚC CỦA NGƢỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ ................................................................. 3
1.1. Khái niệm chung về ngƣời dân tộc thiểu số tham gia quản lý Nhà nƣớc .......... 3
1.1.1. Khái niệm quyền con người .............................................................................. 3
1.1.2. Khái niệm dân tộc thiểu số ................................................................................ 5
1.1.3. Khái niệm quyền của người dân tộc thiểu số ................................................... 6
1.1.4. Khái niệm quyền tham gia quản lý Nhà nước ................................................. 8
1.2. Sự phát triển của chế định quyền con ngƣời dân tộc thiểu số .......................... 11
1.2.1. Sự phát triển chế định quyền của con người thiểu số trên thế giới .............. 12

1.2.2. Sự phát triển chế định quyền con người thiểu số ở Việt Nam ...................... 16
1.2.3. Mối liên hệ giữa pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về quyền con
người .......................................................................................................................... 21
1.3. Khái quát về tình hình tham gia quản lý Nhà nƣớc của ngƣời dân tộc thiểu số
ở Việt Nam. ................................................................................................................... 22
1.4. Mục đích, ý nghĩa của việc bảo vệ quyền của ngƣời dân tộc thiểu số ở Việt
Nam ................................................................................................................................ 25
1.4.1. Mục đích bảo vệ quyền của người dân tộc thiểu số ....................................... 25
1.4.2. Ý nghĩa của việc bảo vệ quyền của người dân tộc thiểu số ........................... 26
CHƢƠNG 2. NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN THAM GIA
QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC CỦA NGƢỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ TRONG LĨNH VỰC
LẬP PHÁP ........................................................................................................................ 27


2.1. Quyền tham gia quản lý Nhà nƣớc của dân tộc thiểu số trong lĩnh vực lập
pháp ở Việt Nam ........................................................................................................... 27
2.1.1. Quyền tham gia bầu cử, ứng cử vào Quốc hội và Hội đồng nhân dân các
cấp........................................................................................................................................ 28
2.1.2. Quyền giám sát hoạt động của Bộ máy Nhà nước ........................................... 31
2.1.3. Quyền tiếp cận thông tin ....................................................................................... 33
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật ................................................................................ 38
2.2.1. Quyền tham gia bầu cử, ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân các
cấp........................................................................................................................................ 38
2.2.2. Quyền giám sát hoạt động của Bộ máy Nhà nước ........................................... 40
2.2.3. Quyền tiếp cận thông tin ....................................................................................... 41
2.3. Một số hạn chế và giải pháp nhằm phát huy quyền dân tộc thiểu số............... 44
2.3.1. Hạn chế và một số nguyên nhân .................................................................... 44
2.3.1.1. Hạn chế trong quy định của pháp luật ........................................................... 44
2.3.1.2. Hạn chế trong thực hiện pháp luật ................................................................. 46
2.3.1.3. Nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại ...................................................... 46

2.3.2. Giải pháp .......................................................................................................... 48
2.3.2.1. Rà soát và hệ thống hóa thường xuyên và có chất lượng các văn bản pháp
luật liên quan đến các quyền cơ bản của các dân tộc thiểu số ................................. 48
2.3.2.2. Sửa đổi, bổ sung những quy định của pháp luật chưa phù hợp trong thực
tế nhằm đảm bảo quyền tham gia quản lý Nhà nước của dân tộc thiểu số. ............ 48
2.3.2.3. Có biện pháp chống hành vi kỳ thị, phân biệt đối xử ................................... 49
2.3.2.4. Tăng cường giáo dục, nâng cao nhận thức về các dân tộc thiểu số và các
quyền của người thiểu số ............................................................................................... 50
KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 51
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


Đề tài: Quyền tham gia quản lý Nhà nước của người dân tộc thiểu số trong lĩnh vực
lập pháp
LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử quyền con người đã từng là vấn đề xuyên suốt của các cuộc đấu tranh
giai cấp, đấu tranh dân tộc và cho đến nay nó vẫn là một trong những vấn đề nỗi bật của
thời đại chúng ta. Trước hết, quyền con người được hiểu là những quyền cho mỗi cá
nhân, quyền làm chủ bản thân, quyền khẳng định mình là một chủ thể với những quyền
lợi, nghĩa vụ như mọi khác. Trong số những quyền con người thì quyền chính trị, quyền
được tham gia quản lý Nhà nước luôn được đề cập đầu tiên và dĩ nhiên đó cũng là quyền
vô cùng quan trọng đối với mỗi người.
Đặc biệt hơn đối với một quốc gia đa dân tộc, các dân tộc có mối quan hệ chung
sống gắn bó lâu đời bên nhau và có những đóng góp hết sức to lớn vào công cuộc đấu
tranh chống ngoại xâm để giành và giữ gìn độc lập, xây dựng tổ quốc như Việt Nam.
Muốn giữ gìn và phát triển truyền thống tốt đẹp trong suốt tiến trình hàng nghìn năm lịch
sử đó trước sự nghiệp đổi mới hiện nay, các dân tộc thiểu số cùng sát cánh dân tộc đa số
phấn đấu vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” thì
quyền tham gia quản lý Nhà nước cần phải được đảm bảo hơn đối với các dân tộc thiểu

số.
Nhận thức rõ điều đó, nên ngay khi bản Hiến pháp đầu tiên của Việt Nam ta năm
1946 được ban hành đã lập tức ghi nhận các dân tộc đều có quyền ngang nhau về mọi
phương diện cũng như đảm bảo sự bình đẳng trước pháp luật của các dân tộc. Tuy nhiên,
mặc dù đã ghi nhận quyền bình đẳng giữa các dân tộc, có thể là do nhiều nguyên nhân
lịch sử để lại và trên thực tế một số người vẫn tồn tại những định kiến xấu đối với dân tộc
thiểu số và còn ảnh hưởng nặng nề, đã gây trở ngại, khó khăn đến đời sống chính trị, kinh
tế, văn hóa và xã hội. Ngoài ra, một phần do sự phân hóa giàu nghèo giữa các dân tộc vẫn
còn ở khoảng cách khá xa, đặc biệt là giữa dân tộc đa số và các dân tộc thiểu số. Vì vậy,
nhận thức của phần lớn các dân tộc thiểu số về những quyền cụ thể của mình, đặc biệt là
quyền chính trị còn rất hạn chế. Từ đó, cơ bản là ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển
của đất nước, đòi hỏi Nhà nước phải thay đổi kịp thời cũng như sự hoàn thiện của Hiến
pháp và pháp luật về quyền của các dân tộc thiểu số cụ thể là quyền tham gia quản lý Nhà
nước, đó là một trong những bước đi quan trọng nhất.
Tổng hợp những lí do trên, người viết tìm hiểu về “Quyền tham gia quản lý Nhà
nước của người dân tộc thiểu số trong lĩnh vực lập pháp” để hoàn thành luận văn tốt
nghiệp với mong muốn được góp một phần nhỏ vào công tác xây dựng hệ thống pháp
luật về quyền con người, những quan niệm cũng như thái độ, cách ứng xử của người dân
GVHD: ThS. Thạch Huôn

1

SVTH: Danh Thị Hồng Ngoan


Đề tài: Quyền tham gia quản lý Nhà nước của người dân tộc thiểu số trong lĩnh vực
lập pháp
tộc thiểu số về vấn đề “quyền” mà mình được hưởng đồng thời, hiểu biết một cách đúng
đắn và sâu sắc về quyền của các dân tộc thiểu số mà pháp luật quy định.
2. Mục đích nghiên cứu

Mục đích người viết nghiên cứu về quyền tham gia quản lý Nhà nước của người dân
tộc thiểu số trong lĩnh vực lập pháp là mong muốn được góp chút hiểu biết của mình để
làm rõ thêm quy định của pháp luật về những quyền vốn có của người dân tộc thiểu số
trong lĩnh vực chính trị. Đồng thời qua đó người viết cũng muốn rút ra được những tồn
tại, thiếu sót cần được khắc phục và đề xuất phương hướng giải pháp nhằm đổi mới việc
thực hiện chính sách dân tộc của Đảng đối với đồng bào dân tộc thiểu số ở trong nước
Việt Nam ta.
3. Phạm vi nghiên cứu
Trong giới hạn thời gian để hoàn thành luận văn tốt nghiệp cho phép, ngoài đi khái
quát chung về quyền con người và dân tộc thiểu số thì khi xem xét quyền của dân tộc
thiểu số trong hệ thống pháp luật Việt Nam người viết chỉ tập trung chủ yếu vào những
quyền mà người dân tộc thiểu số được tham gia quản lý Nhà nước theo pháp luật quy
định và thực tiễn áp dụng pháp luật cho lĩnh vực cụ thể này, sau đó đề xuất một số giải
pháp nhằm phát huy và đảm bảo quyền của dân tộc thiểu số trong hệ thống pháp luật Việt
Nam.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu thông qua những chủ trương, chính sách đúng đắn của
Đảng và Nhà nước ta, cùng với phương pháp phân tích luật viết, phương pháp nghiên cứu
tổng hợp từ các tạp chí, sách báo cũng như những tài liệu nghiên cứu từ các thông tin
pháp lý trên Internet… Bên cạnh đó, người viết còn tham khảo một số sự kiện xảy ra thực
tế trong lĩnh vực tham gia quản lý Nhà nước của người dân tộc thiểu số trên các phương
tiện thông tin đại chúng để phục vụ cho việc nghiên cứu.
5. Kết cấu đề tài
Ngoài phần Lời nói đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo thì nội dung luận văn gồm
hai chương.
Chương 1. Khái quát chung về quyền tham gia quản lý Nhà nước của người dân tộc
thiểu số.
Chương 2. Những quy định của pháp luật về quyền tham gia quản lý Nhà nước của
người dân tộc thiểu số trong lĩnh vực lập pháp.


GVHD: ThS. Thạch Huôn

2

SVTH: Danh Thị Hồng Ngoan


Đề tài: Quyền tham gia quản lý Nhà nước của người dân tộc thiểu số trong lĩnh vực
lập pháp
CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN THAM GIA QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC CỦA
NGƢỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ
1.1. Khái niệm chung về ngƣời dân tộc thiểu số tham gia quản lý Nhà nƣớc
1.1.1. Khái niệm quyền con người
Quyền con người là những yếu tố cơ bản, là nền tảng của một xã hội dân chủ, văn
minh. Tư tưởng về quyền con người đã hình thành từ rất sớm trong lịch sử nhân loại.
Nhưng không phải trong bất cứ hình thái kinh tế - xã hội nào, trong bất cứ kiểu Nhà nước
nào nó cũng tồn tại và được thừa nhận một cách đầy đủ. Vì thế, quyền con người là một
phạm trù lịch sử và là kết quả của cuộc đấu tranh không ngừng của toàn nhân loại vươn
tới những lý tưởng, giải phóng hoàn toàn con người nhằm xây dựng một xã hội thật sư
công bằng, dân chủ, nhân đạo.
Chính vì quyền con người được sinh ra từ khác vọng bảo vệ nhân phẩm của con
người và để hàng triệu con người sinh ra có thể biết được quyền của mình bao gồm
những quyền gì nên hàng loạt những khái niệm, định nghĩa về quyền con người được nêu
ra.
Một trong số đó có định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên Hiệp Quốc về quyền con
người “Quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá
nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân
phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người”. 1 Đây là định nghĩa được
nhìn nhận ở cấp độ quốc tế với nội dung quyền được công nhận trên phạm vi toàn cầu và

một điều rõ ràng ở đây chính là những giá trị cao cả của mọi thành viên trong nhân loại
luôn được tôn trọng, bảo vệ. Bởi quyền con người là một vấn đề khá phức tạp liên quan
đến nhiều lĩnh vực như đạo đức, chính trị, pháp lý…vì vậy một định nghĩa khác rất phổ
biến thường được trích dẫn bởi các học giả theo học thuyết quyền tự nhiên: “Quyền con
người là những quyền cơ bản, không thể tước bỏ mà một người vốn được thừa hưởng
đơn giản vì họ là con người”, nhằm khẳng định mọi người khi sinh ra đều có quyền được
bình đẳng như mọi người khác và tạo hóa đã ban cho họ những quyền cơ bản nhất như
quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc… họ được quyền sử dụng quyền
của chính mình để bảo đảm cuộc sống của bản thân, họ được làm bất cứ điều gì mà mình
cho là đúng đắn hợp lý mà không ai có quyền tước đi những quyền đó.
Một số định nghĩa về quyền con người khác cũng được nêu ra tại Việt Nam do một
số chuyên gia, cơ quan nghiên cứu. Tuy không hoàn toàn giống nhau nhưng nhìn chung
1

United Nations, Human Rights: Questions and Answers, New York and Geneva, 2006, tr.4.

GVHD: ThS. Thạch Huôn

3

SVTH: Danh Thị Hồng Ngoan


Đề tài: Quyền tham gia quản lý Nhà nước của người dân tộc thiểu số trong lĩnh vực
lập pháp
quyền con người thường được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con
người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc
tế.2 Ngoài ra, theo Từ điển bách khoa Việt Nam “Quyền con người, tổng hợp các quyền
và các tự do cơ bản để đánh giá về địa vị pháp lí của cá nhân. Các quyền kinh tế - xã hội
là cốt lõi của quyền con người…”.3 Hay “Quyền con người là nhân phẩm, các nhu cầu

(vật chất và tinh thần), lợi ích cùng với nghĩa vụ của con người được thể chế hóa trong
các quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia”.4
Tuy có nhiều cách định nghĩa khác nhau nhưng cơ bản nhất thì quyền con người
chính là quyền không bị phân biệt quốc tịch, nơi cứ trú, giới tính, nguồn gốc quốc gia hay
dân tộc, màu da, tôn giáo, ngôn ngữ hay bất kỳ một thân phận nào khác. Mọi người được
hưởng các quyền của mình một cách bình đẳng và không phân biệt đối xử. Những quyền
này có mối quan hệ, phụ thuộc lẫn nhau và không thể tách rời. Dưới bình diện đạo đức,
quyền con người là giá trị xã hội cơ bản, vốn có (những đặc quyền) của con người như
nhân phẩm, bình đẳng xã hội, tự do...; dưới bình diện pháp lý, để trở thành quyền, những
đặc quyền phải được thể chế hóa bằng các chế định pháp luật quốc tế và pháp luật quốc
gia.
Từ các định nghĩa nêu trên ta thấy những người theo quan niệm của học thuyết về tự
nhiên (natural rights112) mà tiêu biểu là các tác giả như Zeno (333-264 TCN), Thomas
Hobbes (1588- 1679), John Locke (1632-1704), Thomas Paine (1731- 1809) thì cho rằng
quyền con người là bẩm sinh, vốn có mà mọi cá nhân sinh ra đều được hưởng, chỉ đơn
giản bởi họ là thành viên của gia đình nhân loại.5 Nó không phụ thuộc vào phong tục, tập
quán, truyền thống văn hóa hay ý chí của bất cứ cá nhân, giai cấp, tầng lớp, tổ chức, cộng
đồng hay nhà nước nào. Vì vậy, không một chủ thể nào, kể cả các nhà nước, có thể ban
phát hay tước bỏ các quyền con người bẩm sinh, vốn có của các cá nhân. Ngược lại,
những người theo quan niệm của học thuyết về pháp lý (legal rights) trong đó có các tác
giả như Edmund Burke (1729- 1797), Jeremy Bentham (1748 -1832) lại cho rằng, các
quyền con người không phải là những gì bẩm sinh, vốn có một cách tự nhiên mà phải do
các nhà nước xác định và pháp điển hóa thành các quy phạm pháp luật hoặc xuất phát từ
truyền thống văn hóa. Như vậy, theo học thuyết về pháp lý, phạm vi, giới hạn và ở góc độ
nhất định, cả thời hạn hiệu lực của các quyền con người phụ thuộc vào ý chí của tầng lớp
thống trị và các yếu tố như phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa... của các xã hội.

2

Nguyễn Đăng Dung: Hỏi đáp về quyền con người, Nxb Hồng Đức, Hà Nội, 2011, tr. 23- 24.

Từ điển bách khoa Việt Nam tập 3, Nxb từ điển bách khoa, Hà Nội, 2003, tr. 77.
4
Võ Khánh Vinh: Quyền con người Tiếp cận đa ngành và liên ngành khoa học xã hội, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội, 2009, tr.19.
5
Nguyễn Đăng Dung – Vũ Công Giao – Lã Khánh Tùng: Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người, Nxb
Đại học quốc gia Hà Nội, 2009, tr. 39-40.
3

GVHD: ThS. Thạch Huôn

4

SVTH: Danh Thị Hồng Ngoan


Đề tài: Quyền tham gia quản lý Nhà nước của người dân tộc thiểu số trong lĩnh vực
lập pháp
Cho đến nay, cuộc tranh luận về tính đúng đắn của hai học thuyết trên vẫn còn xảy
ra. Việc phân định tính chất đúng, sai, hợp lý hay không hợp lý của hai học thuyết này là
không đơn giản do chúng liên quan đến một phạm vi rộng lớn các vấn đề triết học, chính
trị, xã hội, đạo đức, pháp lí… Mặc dù vậy, dường như quan điểm cực đoan phủ nhận
hoàn toàn bất cứ học thuyết nào trong hai học thuyết kể trên đều không phù hợp, bởi lẽ
trong khi về hình thức, hầu hết các văn kiện pháp luật của các quốc gia đều thể hiện các
quyền con người là các quyền pháp lý, thì trong Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con
người năm 1948 và một số văn kiện pháp luật ở một số quốc gia, quyền con người được
khẳng định một cách rõ ràng là các quyền tự nhiên, vốn có và không thể tước bỏ được
của mỗi cá nhân. Cụ thể, ở góc độ quốc tế, Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người
(đoạn 1, Lời mở đầu) nêu rằng: …thừa nhận phẩm giá vốn có và các quyền bình đẳng và
không thể tách rời của mọi thành viên trong gia đình nhân loại. Ở góc độ quốc gia,

Tuyên ngôn Độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (1776) nêu rằng: …mọi người sinh ra
đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa ban cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm
được, trong đó có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc…6
Dù nhìn dưới góc độ nào, ở cấp độ nào thì quyền con người cũng được xác định như
là những chuẩn mực được cộng đồng quốc tế thừa nhận và tuân thủ. Những chuẩn mực
này kết tinh những giá trị nhân văn của toàn nhân loại, chỉ áp dụng với con người, cho tất
cả mọi người. Nhờ có những chuẩn mực này, mọi thành viên trong gia đình nhân loại
mới được bảo vệ nhân phẩm và mới có điều kiện phát triển đầy đủ các năng lực của cá
nhân với tư cách là một con người.
Khái niệm quyền con người là một khái niệm năng động và thay đổi mở rộng. Tuy
nhiên cần phải duy trì bản chất của khái niệm này đó là mỗi cá nhân đều có những quyền
nhất định không thể chuyển nhượng và có thể được thi hành một cách hợp pháp.
1.1.2. Khái niệm dân tộc thiểu số
Trên thế giới ngày nay thường dùng các thuật ngữ như dân tộc bản địa, dân tộc thiểu
số bản địa, bộ lạc, bộ tộc, sắc tộc, tộc người, dân tộc thiểu số, dân tộc ít người… Sự tồn
tại của nhiều thuật ngữ này là do nhiều nguyên nhân khác nhau qua các thời kỳ lịch sử
của từng quốc gia và mỗi quốc gia có thể là có định nghĩa khác nhau tùy theo từng bộ
môn nghiên cứu hay quan điểm của mỗi quốc gia.
Trong đó “Dân tộc thiểu số” là một khái niệm khoa học được sử dụng phổ biến trên
thế giới hiện nay. Các học giả phương Tây quan niệm rằng, đây là một thuật ngữ chuyên
ngành dân tộc học (minority ethnic) dùng để chỉ những dân tộc có dân số ít. Trong một số
6

Nguyễn Đăng Dung – Vũ Công Giao – Lã Khánh Tùng: Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người, Nxb
Đại học quốc gia Hà Nội, 2009, tr. 40-41.

GVHD: ThS. Thạch Huôn

5


SVTH: Danh Thị Hồng Ngoan


Đề tài: Quyền tham gia quản lý Nhà nước của người dân tộc thiểu số trong lĩnh vực
lập pháp
trường hợp, người ta đánh đồng ý nghĩa “dân tộc thiểu số” với “dân tộc lạc hậu”, “dân tộc
chậm tiến”, “dân tộc kém phát triển”, “dân tộc chậm phát triển”… Có nhiều nguyên
nhân, trong đó có sự chi phối bởi quan điểm chính trị của giai cấp thống trị trong mỗi
quốc gia. Còn theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và xuất
phát từ nguyên tắc bình đẳng dân tộc thì khái niệm “dân tộc thiểu số” không mang ý
nghĩa phân biệt địa vị, trình độ phát triển của các dân tộc mà chỉ mang ý nghĩa đơn thuần
về mặt số lượng.
Như vậy, khái niệm “dân tộc thiểu số” dùng để chỉ những dân tộc có số dân ít,
chiếm tỉ trọng thấp trong tương quan so sánh về lượng dân số trong một quốc gia đa dân
tộc. Khái niệm “dân tộc thiểu số” cũng không có ý nghĩa biểu thị tương quan so sánh về
số dân giữa các quốc gia dân tộc trên phạm vi khu vực và thế giới. Một dân tộc có thể
được quan niệm là “đa số” ở quốc gia này, nhưng đồng thời có thể là “thiểu số” ở quốc
gia khác. Chẳng hạn người Việt (Kinh) được coi là “dân tộc đa số” ở Việt Nam, nhưng lại
được coi là “dân tộc thiểu số” ở Trung Quốc (vì chỉ chiếm tỉ lệ 1/55 dân tộc thiểu số của
Trung Quốc); ngược lại người Hoa (Hán), được coi là “dân tộc đa số” ở Trung Quốc,
nhưng lại là dân tộc thiểu số ở Việt Nam (người Hoa chiếm tỉ lệ 1/53 dân tộc thiểu số của
Việt Nam).7
Mặc dù, cho đến thời điểm này, vẫn chưa có một định nghĩa nào về “dân tộc thiểu
số” (minorities) được chính thức xác nhận trong bất cứ văn kiện quốc tế nào của Liên
Hiệp Quốc nhưng qua những điều phân tích trên hiện tại ở Việt Nam ta đã có khái niệm
thống nhất về dân tộc thiểu số, đó là những dân tộc có số dân ít hơn so với dân tộc đa số
trên phạm vi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.8
1.1.3. Khái niệm quyền của người dân tộc thiểu số
Cho đến thời điểm này, vẫn chưa có một định nghĩa nào về “dân tộc thiểu số”
(minorities) được chính thức xác nhận trong bất cứ văn kiện quốc tế nào của Liên Hiệp

Quốc.9 Tuy nhiên, những quyền dành cho các dân tộc thiểu số được thể hiện rất nhiều
qua điều Công ước và tuyên bố. Chẳng hạn như điều 27 của Công ước quốc tế về dân sự,
chính trị nêu rõ “ở các quốc gia có các nhóm thiểu số về sắc tộc, tôn giáo và ngôn ngữ,
những thành viên của các nhóm thiểu số đó, cùng với các thành viên khác của cộng đồng
mình, không bị khước từ quyền có đời sống văn hóa riêng, quyền được theo và thực hành
tôn giáo riêng, hoặc quyền được sử dụng ngôn ngữ riêng của họ”… Hay ngay Trong
7

Lô Quốc Toản: Quan niệm về “dân tộc thiểu số” và “cán bộ dân tộc thiểu số” hiện nay,
[truy cập ngày 12-8-2014 ].
8
Nghị định 05/2011/NĐ-CP, ngày 14 tháng 01 năm 2011 của Chính phủ quy định về công tác dân tộc, điều 4,
khoản 2.
9
Võ Khánh Vinh: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về các quyền mới xuất hiện trong quá trình phát triển, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội, 2012, tr. 35.

GVHD: ThS. Thạch Huôn

6

SVTH: Danh Thị Hồng Ngoan


Đề tài: Quyền tham gia quản lý Nhà nước của người dân tộc thiểu số trong lĩnh vực
lập pháp
Hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa trước đây và của nước Cộng Hòa Xã
Hội Chủ Nghĩa Việt Nam ngày nay, việc khẳng định quyền bình đẳng của các dân tộc
thiểu số đều được ghi tại các chương đầu: Chương I (Hiến pháp năm 1959, 1992) hoặc
Chương II (Hiến pháp năm 1946, 1980, 2013) sau khi khẳng định: Nước Việt Nam là một

nước độc lập, có chủ quyền, là một khối thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, không thể chia
cắt, mỗi công dân Việt Nam có quyền, nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc. Qua văn bản, dễ nhận
thấy các bản Hiến pháp đã bám sát các mục tiêu, nhiệm vụ mà lịch sử dân tộc đang đòi
hỏi ở những giai đoạn cách mạng khác nhau nhưng đều nhất quán nêu bật tinh thần: Các
dân tộc thiểu số có quyền bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau để cùng tiến bộ.
Mặc dù đã được đề cập với ý nghĩa là chủ thể của các quyền con người nói chung,
song có những đặc trưng riêng, dân tộc thiểu số được coi là một trong các nhóm xã hội
rất dễ bị tổn thương, cần phải được bảo vệ đặc biệt.
Từ khi Liên hợp quốc được thành lập, người thiểu số đã được thừa nhận là những
chủ thể bình đẳng trong việc hưởng thụ các quyền con người như những nhóm, cộng
đồng khác trong gia đình nhân loại. Người thiểu số cũng là những chủ thể bình đẳng
trong việc hưởng thụ các quyền con người, tức là đã được bảo vệ bằng các cơ chế, văn
kiện quốc tế trên lĩnh vực này. Tuy nhiên, vẫn phải thiết lập các cơ chế văn kiện về quyền
của người thiểu số.
Tuy chưa có định nghĩa chính thức chung nào đưa ra về quyền dân tộc thiểu số
nhưng có một số quan điểm cho rằng quyền của dân tộc thiểu số chỉ được xem xét dưới
góc độ cá nhân, bởi hầu hết các văn kiện quốc tế cơ bản nhất có liên quan đến bảo vệ
người thiểu số như Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền 1948, Công ước quốc tế về các
quyền dân sự, chính trị 1966 (Điều 27), Tuyên ngôn về quyền của những người thuộc
nhóm thiểu số về chủng tộc hoặc dân tộc, ngôn ngữ hoặc tôn giáo năm 1992… đều đề
cập đến vấn đề cá nhân, và thường với một cách diễn đạt là “… quyền của những người
thuộc nhóm thiểu số về dân tộc, chủng tộc, tôn giáo hoặc ngôn ngữ” (the rights of
persons belonging to national or ethnic, religious or linguistic minỏities), 10 chứ không
phải đề cập đến quyền của người thiểu số với ý nghĩa là các quyền của nhóm hoặc các
quyền tập thể. Quan niệm này phản ánh lo ngại của các quốc gia về những rắc rối có thể
phát sinh như dẫn tới hành động đòi ly khai của các dân tộc thiểu số, đe dọa sự toàn vẹn
lãnh thổ của đất nước nếu thừa nhận các quyền của dân tộc thiểu số với ý nghĩa là quyền
tập thể. Bên cạnh đó, cũng có quan điểm cho rằng: quyền dân tộc thiểu số không chỉ
được xem xét thông qua các cá nhân, mà còn phải được xem xét như một nhóm (group),
một cộng đồng (community) hoặc một dân tộc (people) và vì vậy, các quyền của người

10

Vũ Công Giao, Một số vấn đề xung quanh nhận thức về khái niệm “người thiểu số” và quyền của người thiểu
số” trong luật quốc tế, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 10, 2002, tr. 71

GVHD: ThS. Thạch Huôn

7

SVTH: Danh Thị Hồng Ngoan


Đề tài: Quyền tham gia quản lý Nhà nước của người dân tộc thiểu số trong lĩnh vực
lập pháp
thiểu số cần được xem xét dưới cả hai góc độ các quyền cá nhân và các quyền của nhóm
hay các quyền tập thể.
Theo quan điểm của người viết thì quan điểm thứ hai mang nhiều yếu tố hợp lý hơn.
Trên thực tế, không nên và không thể chia tách vấn đề quyền của người thiểu số thành hai
khía cạnh riêng biệt: quyền của cá nhân hay quyền của nhóm hoặc quyền của tập thể bởi
lẽ, con người tồn tại trong thể thống nhất giữa mặt cá nhân và mặt xã hội. Không có con
người riêng lẻ mà chỉ có con người với nghĩa là những thành viên của xã hội loài người.
Mặc dù cách diễn đạt trong hầu hết các văn kiện quốc tế liên quan đến người thiểu
số đúng là nhấn mạnh tính chất của các quyền cá nhân, tuy nhiên các văn kiện này cũng
đồng thời xác định, các cá nhân thuộc nhóm các dân tộc thiểu số có thể thụ hưởng các
quyền đó một mình hoặc cùng với thành viên khác của dân tộc mình. Bên cạnh đó các
văn kiện này cũng đồng thời thừa nhận một loạt các quyền của người thiểu số mà xét về
cách thức thực hiện, hưởng thụ, chúng mang tính chất quyền của nhóm hoặc các quyền
tập thể (ví dụ như quyền được hưởng thụ nền văn hóa, được thực hành tôn giáo, được sử
dụng tiếng nói, chữ viết riêng…)
Tóm lại, dù xét dưới góc độ là quyền cá nhân hay quyền của nhóm thì quyền của

dân tộc thiểu số cũng đều hướng đến nhu cầu và lợi ích của người thiểu số. Tuy nhiên,
cũng cần nhắc lại giới hạn của khái niệm này, mặc dù có lúc được diễn đạt bằng thuật
ngữ “Các dân tộc thiểu số”, nhưng trong luật quốc tế về nhân quyền, các quyền của người
thiểu số không bao gồm quyền độc lập, tự quyết về chính trị, 11 với ý nghĩa là quyền của
một quốc gia dân tộc – chủ thể cơ bản của công pháp quốc tế.
1.1.4. Khái niệm quyền tham gia quản lý Nhà nước
Để hiểu rõ về khái niệm “quyền tham gia quản lý Nhà nước”, trước tiên chúng ta
nên lần lượt tìm hiểu về các khái niệm: Quyền là gì? Quản lý là gì? Nhà nước là gì? Và,
quản lý Nhà nước là gì?
Theo từ điển tiếng Việt, “Quyền” là những cái mà pháp luật, xã hội, phong tục hay
lẽ phải cho phép hưởng thụ, vận dụng, thi hành… và, khi thiếu được yêu cầu để có, nếu
bị tước đoạt có thể đòi hỏi để giành lại…
Vậy quản lý là gì? Xét trên phương diện nghĩa của từ quản lý thường được hiểu là
chủ trì hay phụ trách một công việc nào đó. Mặt khác, quản lý trong xã hội nói chung là
quá trình tổ chức điều hành các hoạt động nhằm đạt được những mục tiêu và yêu cầu nhất
định dựa trên những quy luật khách quan. Bản thân khái niệm quản lý có tính đa nghĩa

11

Vũ Công Giao, Một số vấn đề xung quanh nhận thức về khái niệm “người thiểu số” và quyền của người thiểu số”
trong luật quốc tế, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 10, 2002, tr. 72

GVHD: ThS. Thạch Huôn

8

SVTH: Danh Thị Hồng Ngoan


Đề tài: Quyền tham gia quản lý Nhà nước của người dân tộc thiểu số trong lĩnh vực

lập pháp
nên có sự khác biệt giữa nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Hơn nữa, do sự khác biệt về thời đại,
xã hội, chế độ nghề nghiêp nên quản lý cũng có nhiều giải thích, lý giải khác nhau. Bởi
vai trò đặc biệt quan trọng của quản lý đối với sự phát triển kinh tế, xã hội đã xuất hiện
rất nhiều công trình nghiên cứu về lý thuyết và thực hành quản lý với nhiều cách tiếp cận
khác nhau. Có thể nêu ra một số cách tiếp cận như sau: tiếp cận theo kinh nghiệm; tiếp
cận theo hành vi quan hệ cá nhân; tiếp cận theo lý thuyết quyết định; tiếp cận toán học;
tiếp cận theo các vai trò quản lý…
Từ những cách tiếp cận khác nhau đó, có nhiều khái niệm khác nhau về quản lý
như:
- Quản lý là nghệ thuật nhằm đạt mục đích thông qua nỗ lực của người khác.
- Quản lý là hoạt động của các cơ quan quản lý nhằm đưa ra các quyết định.
- Quản lý là công tác phối hợp có hiệu quả các hoạt động của những cộng sự trong
cùng một tổ chức.
- Quản lý là chức năng vốn có của mọi tổ chức, mọi hành động của các cá nhân, các
bộ phận trong tổ chức có sự điều khiển từ trung tâm, nhằm thực hiện mục tiêu chung của
tổ chức.
- Quản lý là sự tác động có chủ đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý một
cách liên tục, có tổ chức, liên kết các thành viên trong tổ chức hành động nhằm đạt tới
mục tiêu với kết quả tốt nhất.
- Quản lý là quá trình phối hợp các nguồn lực nhằm đạt được những mục đích của
tổ chức, hoặc đơn giản hơn nữa, quản lý là sự có trách nhiệm về một cái gì đó….
Theo cách tiếp cận hệ thống, mọi tổ chức (cơ quan quản lý nhà nước, đơn vị sự
nghiệp, doanh nghiệp…) đều có thể được xem như một hệ thống gồm hai phân hệ: chủ
thể quản lý và đối tượng quản lý. Như vậy, theo cách hiểu chung nhất thì quản lý là sự tác
động của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu quản lý. Việc tác
động theo cách nào còn tuỳ thuộc vào các góc độ khoa học khác nhau, các lĩnh vực khác
nhau cũng như cách tiếp cận của người nghiên cứu.
Từ đó có thể đưa ra khái niệm: Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích
của chủ thể quản lý lên đối tượng và khách thể quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất

các nguồn lực, các thời cơ của tổ chức để đạt mục tiêu đặt ra trong điều kiện môi trường
luôn biến động.
Khái niệm Nhà nước được hiểu là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, một
bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện các chức năng quản lý đặc biệt
GVHD: ThS. Thạch Huôn

9

SVTH: Danh Thị Hồng Ngoan


Đề tài: Quyền tham gia quản lý Nhà nước của người dân tộc thiểu số trong lĩnh vực
lập pháp
nhằm duy trì trật tự xã hội, thực hiện mục đích bảo vệ địa vị của giai cấp thống trị trong
xã hội. Do đó quản lý nhà nước là khâu rất quan trọng trong quá trình phát triển nhà
nước. Hiểu theo nghĩa rộng, quản lý nhà nước là hoạt động tổ chức, điều hành của bộ
máy nhà nước nghĩa là sự tác động, tổ chức quyền lực nhà nước trên các phương diện lập
pháp, hành pháp, tư pháp. Hay nói cách khác, quản lý nhà nước là sự chỉ huy, điều hành
xã hội của các cơ quan nhà nước (lập pháp, hành pháp và tư pháp) để thực thi quyền lực
nhà nước, thông qua các văn bản quy phạm pháp luật. Theo cơ chế này, quản lý nhà nước
được đặt trong cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân lao động làm chủ".
Theo nghĩa hẹp, quản lý nhà nước chủ yếu là quá trình tổ chức, điều hành của hệ thống
cơ quan hành chính nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con
người theo pháp luật nhằm đạt được những mục tiêu yêu cầu nhiệm vụ quản lý nhà nước.
Giáo trình quản lý hành chính nhà nước đưa ra khái niệm: “Quản lý nhà nước là sự
tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực Nhà nước đối với các quá trình xã hội
và hành vi hoạt động của con người để duy trì và phát triển các mối quan hệ xã hội và
trật tự pháp luật nhằm thực hiện những chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước trong công
cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc XHCN”.12
Như vậy, quản lý nhà nước là hoạt động mang tính chất quyền lực nhà nước, được

sử dụng quyền lực nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Quản lý nhà nước được
xem là một hoạt động chức năng của nhà nước trong quản lý xã hội và có thể xem là hoạt
động chức năng đặc biệt.
Tuy quản lý nhà nước là một dạng quản lý xã hội đặc biệt, mang tính quyền lực nhà
nước do các cơ quan trong bộ máy nhà nước thực hiện nhưng, Nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân và
mục tiêu quản lý nhà nước là phục vụ Nhân dân, duy trì sự ổn định và phát triển của toàn
xã hội nên Nhân dân có quyền tham gia quản lý nhà nước. Do vậy, theo quan điểm của
người viết không chỉ có các cơ quan quyền lực nhà nước có quyền tham gia quản lý nhà
nước mà quyền tham gia quản lý nhà nước ở đây còn là quyền của mọi công dân Việt
Nam.
Mặc dù chưa có khái niệm cụ thể nào đưa ra về quyền tham gia quản lý nhà nước
nhưng qua các khái niệm và những phân tích nêu trên theo cách hiểu của người viết thì:
Quyền tham gia quản lý nhà nước là quyền tham gia xây dựng bộ máy nhà nước và các
tổ chức xã hội; tham gia bàn bạc, tổ chức thực hiện, giám sát và đánh giá các hoạt động
của Nhà nước và xã hội.

12

Học viện hành chính quốc gia, Giáo trình quản lý hành chính nhà nước tập 1, Nxb H. : Lao động, 2011, tr. 407

GVHD: ThS. Thạch Huôn

10

SVTH: Danh Thị Hồng Ngoan


Đề tài: Quyền tham gia quản lý Nhà nước của người dân tộc thiểu số trong lĩnh vực
lập pháp

Bên cạnh đó, một định nghĩa trong Từ điển Luật học do nhà xuất bản Từ điển Bách
Khoa của Việt Nam ấn hành năm 1999 cho rằng, quyền chính trị là: “quyền tham gia
quản lý nhà nước của công dân” tức đồng nghĩa với quyền tham gia quản lý nhà nước là
một phần của quyền chính trị, hay nói cách khác quyền tham gia quản lý nhà nước là một
tập con của quyền chính trị. Đó là quyền quan trọng nhất của công dân, đảm bảo cho
công dân thực hiện quyền làm chủ nhà nước, làm chủ xã hội, được thực hiện bằng nhiều
hình thức khác nhau như: quyền bầu cử, quyền ứng cử vào các cơ quan quyền lực nhà
nước; quyền đóng góp ý kiến vào việc xác định các chính sách để xây dựng và phát triển
mọi mặt kinh tế, văn hóa xã hội, an ninh quốc phòng, đối nội, đối ngoại của đất nước;
quyền tham gia xây dựng pháp luật, tham gia giám sát các hoạt động của cơ quan nhà
nước, các tổ chức xã hội; kiến nghị với cơ quan nhà nước, biểu quyết khi Nhà nước tổ
chức trưng cầu dân ý….13
1.2. Sự phát triển của chế định quyền con ngƣời dân tộc thiểu số
Ý thức về nhân quyền và thực hiện nhân quyền là một quá trình lịch sử lâu dài gắn
với lịch sử phát triển loài người và giải phóng con người qua các hình thái kinh tế - xã
hội và các giai đoạn đấu tranh giai cấp qua đó quyền con người trở thành giá trị chung
của toàn nhân loại.
Jacques Mourgon – một học giả nỗi tiếng thế giới đã cho rằng “…quyền con người
không có lịch sử… vì lịch sử, nếu có, thì hình như rất hỗn độn. Nó pha lẫn những lập lại,
những xen kẽ, những tương phản và những đứt đoạn giữa những bước tiến triển và
những bước thụt lùi”.14 Thế nhưng quyền con người nói chung không phải là điều gì siêu
nhiên xa rời thực tế, có lẽ tư tưởng về quyền con người được khởi tạo từ nền văn minh cổ
đại của xã hội loài người chúng ta và chế định quyền con người thiểu số cũng vậy. Sự
phát triển của nó hoàn toàn phụ thuộc vào hình thái xã hội loài người, bước qua từng thời
kỳ, nhân quyền ngày càng được hoàn thiện hơn.
1.2.1. Sự phát triển chế định quyền của con người thiểu số trên thế giới
Được chính thức pháp điển hóa trong luật quốc tế kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ
hai, quyền con người hiện đã trở thành một hệ thống các tiêu chuẩn pháp luật quốc tế có
tính chất bắt buộc với mọi quốc gia, và việc tôn trọng, bảo vệ các quyền con người hiện
đã trở thành thước đo căn bản về trình độ văn minh của các nước và các dân tộc trên thế

giới. Thúc đẩy, bảo vệ quyền con người, cả trong pháp luật và thực tiễn, là nghĩa vụ và
cần sự đóng góp của tất cả các quốc gia, dân tộc, giai cấp, tầng lớp và cá nhân, chứ không
phải chỉ riêng của một quốc gia, dân tộc, giai cấp hay nhóm người nào. Để đạt được
13

Từ điển Luật học Việt Nam, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội - năm 2004.
Jacques Mourgon, Quyền con người, Trung tâm nghiên cứu quyền con ngưởi – Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội, năm 1995, tr. 11.
14

GVHD: ThS. Thạch Huôn

11

SVTH: Danh Thị Hồng Ngoan


Đề tài: Quyền tham gia quản lý Nhà nước của người dân tộc thiểu số trong lĩnh vực
lập pháp
những mục tiêu trong lĩnh vực này, nhân loại đang hướng tới xây dựng một “nền văn hóa
nhân quyền” ở mọi cấp độ, trong đó kết hợp hài hòa những đặc thù và giá trị truyền thống
tốt đẹp của các dân tộc với các tiêu chuẩn pháp lý quốc tế được thừa nhận chung về nhân
phẩm và giá trị của con người.
Trong luật nhân quyền quốc tế, phần nội dung về quyền của các nhóm xã hội dễ bị
tổn thương chiếm vị trí rất quan trọng. Kể từ khi Liên Hợp Quốc thành lập (1945), nhiều
văn kiện quốc tế về nhân quyền đã được tổ chức này thông qua, trong đó có một số lượng
ngày càng nhiều văn kiện đề cập đến quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương, bao
gồm cả quyền của người dân tộc thiểu số. Sau đây là một số văn kiện tiêu biểu thể hiện
quyền của người dân tộc thiểu số mà người viết tìm hiểu.
* Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị năm 1966 (ICCPR)

Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị 1966 là một công ước quốc tế do
Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua ngày 16 tháng 12 năm 1966 và có hiệu lực từ
ngày 23 tháng 3 năm 1976, nêu tổng quan các quyền dân sự và chính trị cơ bản của con
người. Theo những nguyên tắc nêu trong Hiến chương Liên Hợp Quốc, công ước tiếp tục
công nhận phẩm giá vốn có và những quyền bình đẳng bất di dịch của mọi thành viên
trong cộng đồng nhân loại là nền tảng cho tự do, công lý và hoà bình trên thế giới. Bên
cạnh đó, nhận thấy được vẫn còn một số nhóm người yếu thế trong xã hội mặc dù hiện tại
đã có nhiều văn kiện nêu cao giá trị quyền con người như đã nêu trên, bao gồm cả “người
thiểu số” một trong những nhóm người dễ bị tổn thương trên thế giới đang cần lắm sự
quan tâm ủng hộ từ phía cộng đồng quốc tế.
Chính vì thế, tại điều 27 công ước đã ghi nhận quyền cụ thể của nhóm người này
như sau: “Ở những quốc gia có nhiều nhóm thiểu số về sắc tộc, tôn giáo và ngôn ngữ,
những cá nhân thuộc các nhóm thiểu số đó, cùng với những thành viên khác của cộng
đồng mình, không bị khước từ quyền có đời sống văn hoá riêng, quyền được theo và thực
hành tôn giáo riêng, hoặc quyền được sử dụng ngôn ngữ riêng của họ”. Như vậy, Điều 27
ICCPR đã ấn định nghĩa vụ của các quốc gia thành viên trong việc bảo vệ các quyền liên
quan đến bảo tồn phong tục tập quán; bảo tồn ngôn ngữ (tiếng nói, chữ viết); bảo tồn tôn
giáo, tín ngưỡng của các nhóm thiểu số. Tất cả các khía cạnh này, thực chất chỉ nhằm vào
một vấn đề chung là bảo tồn bản sắc theo nghĩa rộng nhằm chống sự đồng hoá các nhóm
thiểu số. Liên quan đến quy định của Điều 27, Uỷ ban nhân quyền – cơ quan giám sát
thực hiện ICCPR - trong Nhận định chung số 23 thông qua tại phiên họp lần thứ 55 năm

GVHD: ThS. Thạch Huôn

12

SVTH: Danh Thị Hồng Ngoan


Đề tài: Quyền tham gia quản lý Nhà nước của người dân tộc thiểu số trong lĩnh vực

lập pháp
1994 đã giải thích thêm một số khía cạnh, mà có thể tóm tắt những điểm quan trọng như
sau:15
- Thứ nhất: Điều 27 ICCPR đã xác lập một quyền của riêng các nhóm thiểu số
(quyền của nhóm), mà có tính chất khác với các quyền cá nhân được ghi nhận trong Công
ước. Tuy nhiên, quyền của người thiểu số không trùng lặp với quyền tự quyết dân tộc
được nêu ở Điều 1 cũng như với quyền bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo
vệ một cách bình đẳng như nêu ở Điều 26 ICCPR (các đoạn 1 và 2).
- Thứ hai: Sự khác nhau giữa quyền tự quyết dân tộc nêu ở Điều 1 và các quyền của
người thiểu số nêu ở Điều 27 là ở chỗ, quyền tự quyết dân tộc là quyền tập thể của cả dân
tộc, được quy định trong một phần riêng của ICCPR, và không thuộc phạm vi điều chỉnh
của Nghị định thư tùy chọn của Công ước; trong khi các quyền nêu ở Điều 27 là quyền
của các cá nhân thành viên của các nhóm thiểu số, được quy định trong phần chung về
các quyền cá nhân của ICCPR, và thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị định thư tùy chọn
của Công ước (đoạn 3).
- Thứ ba: Việc bảo đảm các quyền của người thiểu số nêu ở Điều 27 không làm tổn
hại đến chủ quyền hay toàn vẹn lãnh thổ của một quốc gia thành viên. Một hoặc nhiều
khía cạnh của các quyền của cá nhân được bảo vệ theo Điều 27 – cụ thể như quyền được
hưởng nền văn hóa riêng của cộng đồng - có thể bao gồm cả những khía cạnh về cách
sống của cộng đồng đó mà gắn liền với một vùng lãnh thổ và việc sử dụng các nguồn tài
nguyên thiên nhiên ở trên đó. Điều này đặc biệt đúng với các thành viên của các cộng
đồng người bản địa mà đồng thời là một nhóm thiểu số (đoạn 3).
- Thứ tư: Các quyền được bảo vệ theo Điều 27 cũng không đồng nhất với những
quyền được bảo vệ theo Điều 2(1) và Điều 26. Cụ thể, quyền không bị phân biệt đối xử
quy định trong Điều 2(1) và quyền bình đẳng trước pháp luật quy định ở Điều 26 được áp
dụng cho tất cả các cá nhân ở trong lãnh thổ hoặc nằm trong phạm vi tài phán của một
quốc gia, bất kể họ thuộc vào cộng đồng thiểu số hay không, trong khi các quyền quy
định ở Điều 27 chỉ áp dụng với những cá nhân thuộc các nhóm thiểu số. Liên quan đến
vấn đề này, một số quốc gia thành viên tuyên bố rằng, họ không phân biệt về các lĩnh vực
dân tộc, ngôn ngữ hay tôn giáo khi áp dụng các Điều 2(1) và Điều 26 và nhầm lẫn rằng

như vậy có nghĩa là, họ không có vấn đề gì cần làm thêm liên quan đến quyền của các
nhóm thiểu số (đoạn 4).
- Thứ năm: Các thuật ngữ được sử dụng trong Điều 27 chỉ rõ rằng, những người cần
được bảo vệ là những người thuộc một nhóm và có cùng một nền văn hóa, tín ngưỡng và
15

Nguyễn Đăng Dung – Vũ Công Giao – Lã Khánh Tùng, Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người, Nxb
Đại học quốc gia Hà Nội, 2009, tr. 321-323.

GVHD: ThS. Thạch Huôn

13

SVTH: Danh Thị Hồng Ngoan


Đề tài: Quyền tham gia quản lý Nhà nước của người dân tộc thiểu số trong lĩnh vực
lập pháp
cùng một ngôn ngữ. Thêm vào đó, những thuật ngữ này cũng chỉ rõ rằng, các cá nhân cần
được bảo vệ không nhất thiết phải là công dân của một quốc gia thành viên. Về mặt này,
nghĩa vụ quốc gia phát sinh từ Điều 2(1) cũng là thích hợp, vì một quốc gia thành viên
ICCPR được yêu cầu bảo đảm các quyền ghi nhận trong Công ước được áp dụng với tất
cả các cá nhân đang ở trong lãnh thổ và thẩm quyền tài phán của họ, ngoại trừ các quyền
chỉ áp dụng cho các công dân nước sở tại, ví dụ như: các quyền bầu cử và ứng cử nêu ở
Điều 25. Vì vậy, một quốc gia thành viên không thể tự giới hạn việc áp dụng các quyền
trong Điều 27 cho những cá nhân thuộc các nhóm thiểu số là công dân của nước mình.
Nói cách thành viên phải bảo đảm các quyền quy định trong Điều 27 được áp dụng với
các nhóm thiểu số khác như người lao động di trú, khách du lịch nước ngoài... (đoạn 5).
- Thứ sáu: Quyền của các cá nhân thuộc một nhóm thiểu số được sử dụng ngôn ngữ
của cộng đồng mình không đồng nhất với các quyền khác về ngôn ngữ được ghi nhận

trong ICCPR. Đặc biệt, quyền này phải được phân biệt với quyền tự do ngôn luận nêu ở
Điều 19. Quyền tự do ngôn luận ở Điều 19 áp dụng cho tất cả mọi người, bất kể họ thuộc
về nhóm thiểu số nào hay không, trong khi quyền về ngôn ngữ trong Điều 27 chỉ áp dụng
với thành viên của các nhóm thiểu số cụ thể. Quyền sử dụng ngôn ngữ thiểu số trong
Điều 27 cũng không đồng nhất với quyền sử dụng ngôn ngữ trước Tòa án nêu ở Điều 14
(3,f). Theo Điều 14 (3,f), không phải bất cứ trường hợp nào cũng cho phép người bị buộc
tội có quyền sử dụng ngôn ngữ họ lựa chọn trong quá trình xét xử, trong khi Điều 27
không giới hạn việc sử dụng ngôn ngữ thiểu số ở trong bất cứ môi trường nào (đoạn 5).
- Thứ bảy: Bản chất của các quyền được bảo vệ theo Điều 27 là các quyền cá nhân,
và khả năng thực hiện chúng phụ thuộc vào việc các nhóm thiểu số có thể giữ gìn được
nền văn hóa, ngôn ngữ hay tôn giáo của họ hay không. Do vậy, các quốc gia thành viên
cũng cần có các biện pháp tích cực, chủ động để bảo vệ bản sắc của các nhóm thiểu số.
Khi thực hiện các biện pháp tích cực như vậy, cần phải tôn trọng quy định ở các Điều
2(1) và Điều 26 và phải bảo đảm mối quan hệ bình đẳng giữa các nhóm thiểu số với nhau
và giữa các nhóm thiểu số với bộ phận dân cư còn lại (đoạn 6).
- Thứ tám: Quyền về văn hóa nêu ở Điều 27 thể hiện dưới nhiều hình thức, bao gồm
cả cách sống và đặc biệt liên quan tới cách sử dụng tài nguyên đất, nhất là trong trường
hợp áp dụng với những nhóm người bản địa. Cụ thể, quyền đó có thể bao gồm cả các
hoạt động truyền thống như đánh bắt cá, săn bắn thú rừng và quyền được sống trong các
khu bảo tồn riêng biệt được pháp luật bảo vệ (đoạn 7).
- Thứ chín: Điều 27 đặt ra những trách nhiệm cụ thể đối với các quốc gia thành viên
nhằm bảo đảm sự tồn tại và phát triển nền văn hóa, tôn giáo và bản sắc của các nhóm
thiểu số, qua đó làm phong phú bộ mặt của toàn xã hội. Vì vậy, việc bảo vệ các quyền
GVHD: ThS. Thạch Huôn

14

SVTH: Danh Thị Hồng Ngoan



Đề tài: Quyền tham gia quản lý Nhà nước của người dân tộc thiểu số trong lĩnh vực
lập pháp
trong Điều 27 không được đồng nhất với việc bảo vệ các quyền cá nhân khác nêu ở trong
ICCPR (đoạn 9).
Qua sự phân tích trên, Ủy ban cho rằng, việc bảo vệ các quyền theo Điều 27 là trực
tiếp nhằm bảo đảm sự sống còn và phát triển của nền văn hóa, tôn giáo và bản sắc của
các nhóm thiểu số, qua đó làm phong phú nền văn hóa của cả quốc gia. Vì vậy, Ủy ban
cho rằng các quyền theo Điều này phải được bảo vệ riêng, không được lẫn lộn với các
quyền cá nhân khác được quy định trong Công ước... Đồng thời khẳng định Điều 27 thiết
lập và công nhận một quyền của các nhóm thiểu số khác với các quyền khác, mà với tư
cách cá nhân giống như bao người khác, được hưởng theo Công ước.
* Tuyên bố về quyền của những người thuộc các nhóm thiểu số về dân tộc, chủng
tộc, tôn giáo và ngôn ngữ năm 1992
Bên cạnh Điều 27 ICCPR, Tuyên bố về quyền của những người thuộc các nhóm
thiểu số về dân tộc, chủng tộc, tôn giáo và ngôn ngữ năm 1992 được Đại Hội đồng Liên
Hợp Quốc công bố theo Nghị quyết 47/135 ngày 18 tháng 12 năm 1992 là một văn kiện
quan trọng về quyền của người thiểu số. Văn kiện này cụ thể hoá và mở rộng nội dung
Điều 27 của ICCPR cả về phạm vi chủ thể và nội hàm các quyền.
Về mặt chủ thể, Điều 2 (khoản 1) Tuyên bố kể trên đề cập đến thành bốn dạng
người thiểu số: thiểu số về sắc tộc (ethnic), tôn giáo (religious), ngôn ngữ (linguistic) và
dân tộc (national) (trong khi Điều 27 ICCPR chỉ đề cập ba dạng đầu).
Về mặt nội hàm của quyền, các khoản 2,3,4,5 Điều 2 Tuyên bố bổ sung một số
quyền với người thiểu số, bao gồm: (i) Quyền được tham gia vào đời sống chính trị, văn
hóa, tôn giáo, xã hội, kinh tế của quốc gia; và (ii) Quyền thiết lập và duy trì các mối quan
hệ giữa các thành viên của nhóm mình và nhóm khác. Điểm đáng ghi nhận ở đây chính là
quyền được tham gia vào đời sống chính trị của người thiểu số. Trước đây tại công ước
ICCPR chỉ mới đề cập đến quyền có đời sống văn hoá riêng, quyền được theo và thực
hành tôn giáo riêng, hoặc quyền được sử dụng ngôn ngữ riêng của họ chứ chưa mở rộng
thêm quyền tham gia chính trị. Điểm nỗi bật này đã nâng cao được vị thế của người thiểu
số trong Tuyên bố về quyền của những người thuộc các nhóm thiểu số về dân tộc, chủng

tộc, tôn giáo và ngôn ngữ năm 1992, đồng thời nhấn mạnh lại một trong những mục tiêu
cơ bản của Liên Hợp Quốc, như đã được nêu rõ trong Hiến chương Liên Hợp Quốc, là
thúc đẩy và khuyến khích sự tôn trọng các quyền con người và tự do cơ bản của tất cả
mọi người, không phân biệt về chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ hay tôn giáo, tức khẳng
định lại quyền con người cơ bản và phẩm giá của con người là ngang nhau, sự bình đẳng
giữa nam và nữ, giữa dân tộc lớn hay bé, giữa đa số hay thiểu số đều như một. Và, bình
đẳng về quyền tham gia vào đời sống chính trị, văn hóa, tôn giáo, xã hội, kinh tế của
GVHD: ThS. Thạch Huôn

15

SVTH: Danh Thị Hồng Ngoan


Đề tài: Quyền tham gia quản lý Nhà nước của người dân tộc thiểu số trong lĩnh vực
lập pháp
quốc gia đối với dân tộc thiểu số là hiển nhiên. Vì thế, việc thúc đẩy và bảo vệ quyền của
những người thuộc các nhóm thiểu số về dân tộc, chủng tộc, tôn giáo hay ngôn ngữ là
góp phần vào sự ổn định chính trị và xã hội ở các quốc gia mà họ sống.
1.2.2. Sự phát triển chế định quyền con người thiểu số ở Việt Nam
Từ khi nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời, việc tôn trọng quyền của các dân
tộc thiểu số trong sự đa dạng bản sắc và quan điểm cần quan tâm hỗ trợ đồng bào các dân
tộc thiểu số khắc phục các điều kiện khó khăn để cùng cả nước phát triển kinh tế - xã hội
đã được nhấn mạnh trong Hiến pháp đầu tiên (năm 1946). Qua những chặng đường cách
mạng Việt Nam, quan điểm này luôn nhất quán trong bốn bản Hiến pháp đã có, đặc biệt,
Hiến pháp sửa đổi năm 2013 vừa được Quốc hội thông qua, quyền của các dân tộc thiểu
số càng được thể hiện rõ hơn.
* Quyền con người thiểu số trong Hiến Pháp 1946
Với 70 điều được chia làm 7 chương bản Hiến pháp của cuộc cách mạng dân chủ
nhân dân Việt Nam, cũng là Hiến pháp dân chủ và tiến bộ đầu tiên ở Đông Nam Á đã ghi

nhận 3 nguyên tắc cơ bản, đó là: đoàn kết toàn dân, không phân biệt giống nòi, gái trai,
giai cấp, tôn giáo; đảm bảo các quyền lợi dân chủ; thực hiện chính quyền mạnh mẽ và
sáng suốt của nhân dân. Đây là một bước tiến lớn trong lịch sử phát triển của Nhà nước
Việt Nam, lần đầu tiên một Nhà nước dân chủ nhân dân được thành lập ở nước ta, với
hình thức chính thể là cộng hoà. “Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi
phương diện: chính trị, kinh tế, văn hóa”,16 “đều bình đẳng trước pháp luật, đều được
tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc tùy theo tài năng và đức hạnh của mình”. 17
Hai quyền trên được cho là quyền cơ bản nhất mang tính nguyên tắc của người dân Việt
Nam trong một nước độc lập, tự do. Bên cạnh đó, quyền của các dân tộc thiểu số cũng
được ghi nhận: “những quốc dân thiểu số được giúp đỡ về mọi phương diện để chóng
tiến kịp trình độ chung”.18 Với quy định này đã tạo nên một bước ngoặt lớn trong sự phát
triển của tư tưởng dân chủ, rút ngắn khoảng cách phân biệt đối xử giữa các dân tộc và
thực hiện chính sách ưu đãi với đồng bào dân tộc thiểu số trên thực tế.
Đã là công dân Việt Nam không phân biệt bất cứ thành phần nào trong xã hội, ai
cũng như ai, mọi người đều có quyền con người như nhau bất kể gái trai, giống nòi, là
dân tộc đa số hay thiểu số… Hiến pháp 1946 đã ghi nhận quyền của công dân trong từng
lĩnh vực cụ thể, mọi lĩnh vực đều thể hiện quyền bình đẳng của công dân, như trong lĩnh
vực chính trị là “Tất cả công dân Việt Nam, từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt trai gái,
đều có quyền bầu cử, trừ những người mất trí và những người mất công quyền. Người
16

Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946, điều 6.
Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946, điều 7.
18
Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946, điều 8.
17

GVHD: ThS. Thạch Huôn

16


SVTH: Danh Thị Hồng Ngoan


Đề tài: Quyền tham gia quản lý Nhà nước của người dân tộc thiểu số trong lĩnh vực
lập pháp
ứng cử phải là người có quyền công dân, phải ít ra là 21 tuổi”,19 “nhân dân có quyền bãi
miễn các đại biểu mình bầu ra”20 và “có quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc
quan hệ đến vận mệnh quốc gia”.21 Những quy định trên, lần đầu trong lịch sử dân tộc,
quyền bình đẳng của công dân nói chung và các dân tộc thiểu số nói riêng đã được ghi
nhận trong đạo luật có hiệu lực pháp lí cao nhất của Nhà nước. Chính nội dung quy định
này đã tạo tiền đề pháp lí quan trọng cho những thay đổi về địa vị của các dân tộc thiểu
số trên các văn bản pháp luật trong lĩnh vực chính trị nói riêng cũng như trong thực tiễn.
* Quyền con người thiểu số trong Hiến pháp 1959
Không chỉ dừng lại ở những quy định trong bản Hiến pháp cũ, điểm mới trong Hiến
pháp năm 1959 về quyền con người thiểu số còn được ghi nhận một cách rõ ràng hơn tại
điều 3 “Các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa
vụ. Nhà nước có nhiệm vụ giữ gìn và phát triển sự đoàn kết giữa các dân tộc. Mọi hành vi
khinh miệt, áp bức chia rẽ dân tộc đều bị nghiêm cấm. Đặc biệt, các dân tộc có quyền duy
trì hoặc sữa đổi phong tục tập quán, dùng tiếng nói chữ viết, phát triển văn hóa dân tộc
mình. Những địa phương có dân tộc thiểu số tập trung thì có thể thành lập khu vực tự trị.
Khu vực tự trị là bộ phận không thể tách rời được của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Nhà nước ra sức giúp đỡ các dân tộc thiểu số mau tiến kịp trình độ kinh tế và văn hóa
chung.”
Bên cạnh đó, quyền tham gia quản lý nhà nước của người thiểu số còn được thể hiện
rõ qua điều 93: “Trong những khu vực tự trị có nhiều dân tộc sống xen lẫn, Hội đồng
nhân dân sẽ có số đại biểu thích đáng của các dân tộc”.22 Với những quy định tiến bộ về
quyền của người thiểu số thì Hiến pháp 1959 đã một lần nữa khẳng định tư tưởng xuyên
suốt của Đảng và Nhà nước ta là luôn đặt vấn đề bảo vệ các quyền con người lên hàng
đầu, là một mục tiêu quan trọng trong suốt quá trình lập Hiến của mình.

* Quyền con người thiểu số trong Hiến pháp 1980
Kế thừa và phát huy nội dung của hai bản Hiến pháp 1946 và 1959, Hiến pháp 1980
ghi nhận đầy đủ các quyền cơ bản của con người đã được ghi nhận trong hai bản Hiến
pháp trước đó. Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được quy định từ điều 53 đến
điều 81, Hiến pháp 1980 đã xác định thêm một số quyền và nghĩa vụ mới, phù hợp với
giai đoạn mới của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa như: “Công dân có quyền tham gia quản
lý công việc của Nhà nước và của xã hội”,23 “Quyền được khám và chữa bệnh không
19

Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946, điều 18.
Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946, điều 20.
21
Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946, điều 21.
22
Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1959, điều 93.
23
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980, điều 56.
20

GVHD: ThS. Thạch Huôn

17

SVTH: Danh Thị Hồng Ngoan


×