Tải bản đầy đủ (.docx) (205 trang)

Phân tích kỹ thuật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.96 MB, 205 trang )

Chương 1: Tổng quan về phân tích kĩ thuật
I. Lịch sử ra đời, định nghĩa và giả định :
Đây có thể coi là chương nhập môn phân tích kỹ thuật, nó sẽ cho bạn thấy được bức tranh
tổng quan về trường phái phân tích chứng khoán này.Trong khuôn khổ cuốn giáo trình, chúng
tôi sẽ cố gắng đưa đến những khái niệm, những vấn đề chung nhất và dễ hiểu nhất về phân
tích kỹ thuật.
 Lịch sử hình thành
Lịch sử của Phân tích kỹ thuật bắt nguồn từ cách đây hơn 100 năm.Sau nhiều năm nghiên
cứu, năm 1884, Charles H.Dow,người đã sáng lập lên
“Tạp chí phố Wall”(The Wall Street Journal)đã giới thiệu
chỉ số bình quân giá đóng cửa 11 cổ phiếu quan trọng
nhất của thị trường nước Mỹ thời gian đó. Ông là người
đã đặt viên gạch đầu tiên cho việc hình thành một cơ sở
lý luận: Lý thuyết Dow – nền tảng của PTKT.
Sau khi C.H.Dow chết, năm 1902, người kế tục ông
làm biên tập cho tờ nhật báo, William. P. Hamilton, đã
tiếp tục nghiên cứu và phát triển những lý thuyết trên.
Ông xuất bản cuốn sách “The Stock Market Barometer”
(Phong vũ biểu thị trường chứng khoán) vào năm 1922.
Suốt những năm 1920 và 1930, Richard W.
Schabacker là người đã đã đi sâu vào việc hoàn thiện
những nghiên cứu của Dow và Hamilton, Schabacker
chính là người đã đưa ra khái niệm đầu tiên về Phân tích
kỹ thuật. Ông chỉ ra rằng những dấu hiệu mà lý thuyết
Dow đưa ra được với chỉ số bình quân thị trường vẫn giữ
nguyên giá trị và tầm quan trọng khi áp dụng vào đồ thị của từng cổ phiếu riêng lẻ. Điều này đã
được ông thể hiện và chứng minh trong cuốn sách của mình: “Stock Market Theory and Practice,
Technical Market Analysis and Stock Market Profit”.
Như vậy những cơ sở đầu tiên của Phân tích kỹ thuật đã xuất hiện từ trong lý thuyết Dow,
nhưng phải đến Schabacker – người cha của Phân tích kỹ thuật hiện đại tiếp đó là Edward và
Magee với “Technical Analysis of Stock Trend” và ngày nay là John Murphy, Jack Schwager,


Martin Pring, … thì mới thực sự ra đời cái tên “Phân tích kỹ thuật ” và được nâng
cao, tổng kết thành một hệ thống lý luận quan trọng trong phân tích đầu tư trên thị trường chứng
khoán nói riêng và thị trường tài chính nói chung.
 Định nghĩa về phân tích kỹ thuật:
Mỗi nhà phân tích kỹ thuật có một định nghĩa, quan điểm riêng của mình về vấn đề ‘Thế nào
là phân tích kỹ thuật?’ Tổng hợp những điểm chung nhất, xin mạn phép đưa ra định nghĩa ngắn
gọn về phân tích kỹ thuật như sau:
“Phân tích kỹ thuật là việc nghiên cứu các biến động của thị trường trong quá khứ và hiện tại,
chủ yếu thông qua việc sử dụng các biểu đồ, đồ thị nhằm mục đích dựbáo xu hướng giá trong
tương lai.”
PTKT có thể áp dụng trong nghiên cứu, phân tích giá các loại hàng hóa (vàng, dầu, cà phê, gạo,...),
giá các loại cổ phiếu, tỷ giá các loại tiền tệ và các công cụ tài chính khác.Cuốn giáo trình này giới
hạn trong phân tích kỹ thuật chứng khoán.
Thuật ngữ “biến động của thị trường” ám chỉsự thay đổi về giá và khối lượng giao dịch của chứng
khoán trên thị trường.
Trong định nghĩa trên đã hàm ý mục đích của phân tích kỹ thuật.Nó là công cụ hỗ trợ cho các nhà
đầu tư đưa ra những dự đoán của mình về xu thế biến động của giá chứng khoán trong tương lai.
Phân tích kỹ thuật có 3 chức năng cơ bản:
+ Báo động: Cảnh báo sự xuyên phá các mức giá an toàn cũ để lập các mức giá an toàn mới.
+ Xác nhận: Xác nhận xu thế giá tăng , giảm hoặc không tăng không giảm.
+ Dự đoán: Bằng các chỉ số và các kết quả phân tích kỹ thuật, dự đoán giá cả trong tương lai.
Vẫn biết, giá chứng khoán trên thị trường là do cung – cầu quyết định. Tuy nhiên, cung – cầu lại
được xác lập bởi quyết định của các nhà đầu tư, mà quyết định này, trên thực tế, chịu tác động của
vô vàn yếu tố khác nhau, đó có thể là những thông tin kinh tế vĩ mô, vi mô, ảnh hưởng của chính
trị hay các yếu tố vô hình khó có thể đo lường như tâm lý con người,…Chính chúng đã tạo ra mức
độ rủi ro cho nhà đầu tư khi mà không ai có thể dự đoán chính xác được giá cả của chứng khoán sẽ
biến động như thế nào. Vì vậy, khi tiến hành phân tích kỹ thuật cần phải tuân thủ những giả định
cơ sở sau để đảm bảo độ tin cậy cũng như nâng cao tính chính xác của phương pháp này.
Giả định 1: Biến động thị trường phản ánh tất cả.
Đây có thể coi là nền tảng của Phân tích kỹ thuật. Mọi lý thuyết, phân tích khác muốn được chấp

nhận thì trước tiên phải hiểu và chấp nhận giả định này. Các nhà phân tích kỹ thuật cho rằng bất cứ
yếu tố nào có khả năng ảnh hưởng đến giá đều được phản ánh rõ trong sự biến
động của giá thị trường. Khi giá tăng, điều đó chứng tỏ cầu đã vượt cung, các yếu tố tác động đến
nhà đầu tư đã kích thích họ mua nhiều hơn lượng chúng khoán được bán.
Giả định 2: Giá vận động theo xu thế
Các nhà phân tích chứng khoán cho rằng có 3 xu thế: giá tăng ( uptrend ), giá giảm ( downtrend )
và đi ngang, không rõ xu hướng ( side way ). Mục đích của việc xác lập đồ thị mô tả những biến
động giá trên thị trường là nhằm xác định được sớm những xu thế giá, từ đó sẽ tham gia giao dịch
trên cơ sở những xu thế này. Trên thực tế những phân tích kĩ thuật đều chỉ ra những xu thế giá có
từ trước. Mục đích của phân tích kỹ thuật là nhằm xác định sự lặp lại của những dạng biến động
của giá đã xuất hiện trong quá khứ để có thể tận dụng kinh nghiệm và đưa ra những quyết định
phù hợp.
Giả định 3: Lịch sử sẽ tự lặp lại.
Phân tích kỹ thuật là nghiên cứu sự biến động giá cả mà giá cả là do con người quyết định, nên về
bản chất giá cả phản ánh tâm lý đầu tư của con người. Các nhà phân tích kĩ thuật cho rằng các nhà
đầu tư
sẽ lặp lại những hành vi đã từng xảy ra trong quá khứ của mình. Chẳng hạn như những mô hình
giá, những mô hình này đã được xác định và chứng minh từ hơn 100 năm nay, chúng chỉ ra tâm lý
của thị trường đang là lên giá hay xuống giá. Việc áp dụng những mô
hình này đã phát huy hiệu quả trong quá khứ và được giả định rằng
sẽ vẫn tiếp tục có hiệu quả trong tương lai bởi chúng dựa trên phân
tích nghiên cứu tâm lý con người mà tâm lý con người thì thường
không thay đổi.
II. Lý thuyết Dow – nền tảng của PTKT
Lý thuyết Dow là cơ sở đầu tiên cho mọi nghiên cứu kĩ thuật
trên thị trường. Mặc dù nó thường bị coi là trễ so với thị trường
và bị những người chống đối dựa vào đó để chỉ trích nhưng nó vẫn được đông đảo những
người có quan tâm đến và tôn trọng. Cha đẻ của lý thuyết Dow chính là Charles H.Dow (1851
– 1902 ).Trong những ghi chép của người đầu tiên đề ra lý thuyết này, có rất nhiều điều chứng
tỏ rằng tác giả không hề nghĩ lý thuyết của mình sẽ trở thành một công cụ dùng cho dự báo thị

trường chứng khoán hay thậm chí nó đã trở thành một hướng dẫn chung cho các nhà đầu tư.
Những ghi chép ấy chỉ nói lên rằng ông muốn lý thuyết của mình thành một thước đo biến
động chung của thị trường. Sau khi Dow qua đời, William. P. Hamilton, đã tiếp tục việc nghiên
cứu lý thuyết này, sau 27 năm nghiến cứu và viết các bài báo, ông đã tổ chức và câu trúc lại
thành Lý thuyết Dow như ngày nay.
Giả định của thuyết:
• Những biến động thị trường với mọi xu hướng đều có thể được dự đoán trước trên cơ
sở biến động giá trên các biểu đồ.
• Phần lớn các chứng khoán tuân theo xu hướng cơ bản của thị trường.
• Xu hướng cơ bản của thị trường được hiểu là “chỉ số giá bình quân” - phản ánh xu thế
chung của một số cổ phiếu đại diện cho thị trường.
• Khi nghiên cứu lý thuyết Dow có 6 nguyên lý cơ bản sau ( có bài viết chia thành 12 nguyên
lý):
NGUYÊN LÝ 1: Chỉ số bình quân thị trường phản ánh tất cả (trừ hành động của Chúa).
Bởi vì nó phản ánh những hoạt động có liên kết với nhau của hàng nghìn nhà đầu tư, gồm
cả những người có kinh nghiệm dự đoán thị trường giỏi nhất, có những thông tin tốt nhất về xu
hướng và các sự kiện, những gì có thể nhận thấy trước và tất cả những gì có thể ảnh hưởng đến
cung và cầu của các loại chứng khoán. Thậm chí cả những thiên tai hay thảm họa không dự
tính được thì ngay khi xảy ra chúng đã được thị trường phản ánh ngay vào giá của các loại
chứng khoán.

NGUYÊN LÝ 2: Thị trường có 3 xu thế:
Thuật ngữ thị trường nhằm chỉ giá chứng khoán nói chung, dao động của thị trường tạo
thành các xu thế giá.
Xu thế cấp 1 (xu thế chính hay xu thế cơ bản): Đây là xu thế quan trọng nhất. Đó là những
biến động tăng hoặc giảm với qui mô lớn, thường kéo dài trong một hoặc nhiều năm và gây ra
sự tăng hay giảm đến 20% giá của các cổ phiếu. Trong xu thế cấp 1, chia ra làm 2 loai: xu thế
cấp 1 tăng giá ( thị trường con bò tót – Bull market ) và xu thế cấp 1 giảm giá ( thị trường con
gấu – Bear market ).
Xu thế cấp 2 ( xu thế trung gian): Chuyển động theo xu thế cấp 1 sẽ bị ngắt quãng bởi các bởi

sự xen vào của các dao động cấp 2 theo hướng đối nghịch - gọi là những phản ứng hay điều
chỉnh của thị trường. Ví dụ trong xu thế cấp 1 tăng giá, xu thế cấp 2 là những biến động giảm
giá của thị trường. Thường thì những biến động trung gian này kéo dài từ 3
tuần đến nhiều tháng, thông thường là 3 tháng. Chúng thường sẽ kéo ngược lại khoảng 1/3 đến
2/3 mức tăng (hay giảm tùy loại thị trường) của giá theo xu thế cấp 1. Mặc dù đã có những tiêu
chí để xác định một xu thế cấp 2 nhưng vẫn có những khó khăn trong việc xác định thời điểm
hình thành và thời gian tồn tại của xu thế.
Xu thế cấp 3: Xu thế nhỏ (Minor), đây là những dao động trong thời gian ngắn (dài tối đa 3
tuần, thường chỉ dưới 6 ngày) mà theo như thuyết Dow đã nói đến, bản thân chúng không thực
sự có ý nghĩa nhưng chúng góp phần tạo nên các xu thế trung gian. Thông thường thì một biến
động trung gian dù là một xu thế cấp 2 hay là một phần của xu thế cấp 1 xen giữa hai xu thế
cấp 2 liên tiếp, đều được tạo thành từ một dãy gồm 3 hoặc nhiều hơn những dao động nhỏ
khác nhau. Xu thế nhỏ là dạng duy nhất trong 3 loại xu thế có thể bị “lôi kéo” (bị tác động). Để
tác động vào xu thế cấp 1 và 2 thì cần những giao dịch với khối lượng rất lớn và điều này hầu
như là không thể.
Thông thường, về lý thuyết thì xu thế cấp 1 chỉ là một trong 3 loại xu thế mà một nhà đầu tư
dài hạn quan tâm. Nhà đầu tư hiểu rằng họ có thể bỏ qua một cách an toàn tất cả những sự xen
vào của các điều chỉnh cấp 2 và các dao động nhỏ vì họ đầu tư dài hạn theo xu thế chính của
thị trường. Tuy nhiên với một nhà kinh doanh chứng khoán ngắn hạn thì những biến động của
xu thế cấp 2 lại có vai trò quan trọng bởi họ kiếm lợi nhuận dựa trên những biến động ngắn
hạn của thị trường.
NGUYÊN LÝ 3:mỗi xu thế cấp 1 ( xu thế chính ) có 3 giai đoạn:
Trong thị trường giá tăng – Bull Market:
+ Giai đoạn tích lũy: Trong khi công chúng cảm thấy thất vọng khi tham gia vào thị trường
chứng khoán, báo cáo kinh doanh của các doanh nghiệp không tốt, nhiều chứng khoán được
bán ra trên thị trường với tâm lý chán nản của nhà đầu tư thì các nhà đầu tư tinh tường lại nhìn
ra tiềm lực của một vài công ty có thể vực dậy và phục hội nhanh chóng. Vào cuối giai đoạn
này, trong hoạt động của công ty và trong những biến động trên thị trường đã có những biến
chuyển tuy mới chỉ ở mức hạn chế, bắt đầu xuất hiện những đợt tăng giá nhỏ.
+ Giai đoạn tăng giá mạnh: đây là giai đoạn tăng trưởng khá vững chắc, xảy ra khi các mức giá

bắt đầu gia tăng một cách nhanh chóng và những tin tức kinh doanh được cải thiện, doanh
nghiệp làm ăn có lãi.
+ Giai đoạn đầu cơ sôi động: khi những tin tức kinh tế trở nên tốt hơn, doanh nghiệp liên tục
làm ăn sinh lời cao, thị trường chứng khoán trở nên hấp dẫn và nóng hơn bao giờ hết,
các nhà đầu tư nhảy vào thị trường một cách ồ ạt, chứng khoán được mua quá nhiều, cầu vượt
cung, đẩy giá lên cao nhưng lúc này đã có một số nhà đầu tư mua ở giai đoạn tích lũy ban đầu
bán ra nhằm chốt lợi nhuận.
Trong thị trường giá giảm ( Bear Market ) cũng có 3 giai đoạn:
+ Giai đoạn phân bổ: thời kỳ này thực sự bắt đầu ở giai đoạn cuối của Bull Market trước
đó.Những nhà đầu tư có tầm nhìn xa muốn nhanh chóng thoát khỏi thị trường. Khối lượng
giao dịch vẫn rất cao, xuất hiện những dấu hiệu của xu hướng giảm; công chúng vẫn rất “năng
động”, bắt đầu có dấu hiệu lo lắng và không còn nhiều kỳ vọng kiếm lợi nhuận.
+ Giai đoạn hoảng loạn: Số lượng người mua giảm dần và những người bán bắt đầu trở lên vội
vã bán đi những chứng khoán mình đang nắm giữ. Xu thế giảm bắt đầu tăng mạnh, đồ thị giá
gần như dốc thẳng xuống và KLGD đạt đến mức đỉnh điểm. Sự sụt giảm thường xảy ra rất
trầm trọng thậm chí là thái quá. Sau giai đoạn hỗn loạn có thể có giai đoạn hồi phục hoặc dao
động ngang thể hiện tâm lý chán nản của một bộ phận nhà đầu tư, họ cũng chính là những
người đã cố gắng nắm giữ cổ phiếu qua thời kỳ hỗn loạn trước đó hoặc cũng có thể là những
người đã mua cổ phiếu trong thời kỳ đó bởi vì lúc đó giá của cổ phiếu rõ ràng là rẻ hơn rất
nhiều so với trước đó vài tháng. Thông tin về các doanh nghiệp ngày càng xấu đi. Kết thúc giai
đoạn này mới bước vào thời kỳ thứ ba.
+ Giai đoạn bán bắt buộc: xu thế đi xuống trên thị trường đã yếu dần, nhưng lại được duy trì
bởi những lệnh bán nhiều và liên tục thể hiện “nỗi buồn” và sự lo lắng của những nhà đầu tư
đang rất cần tiền cho những nhu cầu riêng của họ. Các cổ phiếu đều giảm đến mức thấp nhất,
thậm chí gần như mất hoàn toàn giá trị. Những cổ phiếu có chất lượng cao hầu như không
được giao dịch vì những người sở hữu chúng đều muốn nắm giữ đến cùng. Ở giai đoạn cuối
của thị trường giá xuống, cả thị trường chỉ tập trung vào giao dịch một số loại cổ phiếu. Thị
trường giá xuống kết thúc với những tin xấu về các doanh nghiệp, về thị trường ở mức có thể
coi là tồi tệ nhất đã thể hiện ra và có thể đến.
NGUYÊN LÝ 4: Mối quan hệ giá và khối lượng tạo ra nền tảng cơ bản

+Với thị trường giá tăng, khối lượng giao dịch sẽ tăng nếu giá tăng, và sẽ thu lại nếu giá giảm;
+Với thị trường giá giảm, giá trị giao dịch sẽ tăng nếu giá giảm và ít khi giá có dấu hiệu phục
hồi.
Dựa trên những phân tích về giá mới có thể đưa ra được những dấu hiệu mang tính quyết
định về xu thế thị trường, còn khối lượng giao dịch chỉ có thể cung cấp thêm những
chứng cứ phụ để giải thích rõ hơn biến động của thị trường và sử dụng vào những tình huống
khi dấu hiệu chính tỏ ra còn nhiều nghi ngờ.
NGUYÊN LÝ 5:chỉ sử dụng giá đóng cửa để nghiên cứu, hành động giá xác định xu thế:
Lý thuyết Dow không quan tâm và ít đề cao đến các mức biến động giá (thậm chí là cả
mức giá cao nhất và thấp nhất) trong ngày mà chỉ quan tâm đến những số liệu cuối ngày giao
dịch, chẳng hạn như mức bình quân giá bán cuối cùng trong ngày. Bởi vì lý thuyết Dow cho
rằng chỉ có giá đóng cửa mới phản ánh chân thực nhất tâm lý của các nhà đầu tư.
Một xu thế vẫn đang tiếp tục cho đến khi có một dấu hiệu thực sự về sự đảo chiều của xu thế
đó được xác định. Tức là: Xu thế tăng giá vẫn còn tồn tại khi sự tăng giá liên tiếp tạo ra các
đỉnh cao hơn và sự giảm giá xen vào tạo thành các đáy cao hơn.Xu thế giảm giá vẫn còn tồn
tại khi sự giảm giá liên tiếp tạo ra các đáy thấp hơn và sự tăng giá xen vào tạo thành các đỉnh
thấp hơn.Bull Market không thể lên giá mãi và Bear Market thì sớm muộn cũng đạt đến đáy
của nó.
Khi đã có những dấu hiệu về sự thay đổi của xu thế thị trường thì sự thay đổi đó có thể xảy ra
bất cứ lúc nào.
NGUYÊN LÝ 6: Hai đường chỉ số bình quân của thị trường phải cùng xác nhận xu thế của thị
trường:
Đây là câu hỏi thường xuyên đặt ra nhất và cũng khó giải thích nhất đối với hệ thống các
nguyên lý của lý thuyết Dow. Tuy nhiên từ khi được đưa ra cho đến nay nó đã được thời gian
chứng minh tính đúng đắn và nó vẫn được vận dụng cho đến ngày nay và bất kì một ai đã xem
xét những số liệu ghi lại thì đều không thể có ý kiến phản đối với nguyên lý này. Điều nguyên
lý này muốn nói đến là không thể có một dấu hiệu chính xác nào về sự thay đổi xu thế thị
trường có thể được khẳng định chỉ thông qua xem xét biến động của duy nhất một loại chỉ số
bình quân. Thường thì cả hai chỉ số này sẽ cùng chuyển động đến cùng một khoảng đỉnh hoặc
đáy mới, nhưng có nhiều trường hợp mà một trong hai chỉ số sẽ trễ hơn chỉ số kia vài ngày, vài

tuần, thậm chí là một đến hai tháng. Trong những tình huống như vậy thì nhà đầu tư phải giữ
kiên nhẫn và đợi cho đến khi thị trường thật sự thể hiện ra bản chất xu hướng của nó.
 Những hạn chế:
+ Lý thuyết Dow quá trễ: Đây là ý phê bình đúng. Đôi khi người ta còn thậm chí cho rằng nếu
mỗi biến động lớn của thị trường được chia thành ba phần thì Lý thuyết Dow sẽ làm người
tuân theo nó mất đi cơ hội kiếm lời ở phần đầu và cuối của biến động này, có khi là mất đi toàn
bộ cơ hội.
+ Lý thuyết Dow không phải là luôn đúng: Điều này hoàn toàn rõ ràng. Việc áp dụng Lý thuyết
Dow hoàn toàn dựa vào khả năng giải thích tình hình thị trường và chịu sự rủi ro đối với tính
chính xác của những giải thích này. Dẵu sao cũng cần nhắc lại rằng lịch sử đã chứng minh nếu
tuân thủ đúng theo lý thuyết Dow thì lợi nhuận sẽ rất cao.
+ Lý thuyết Dow thường làm cho nhà đầu tư phải băn khoăn: Bất cứ lúc nào Lý thuyết Dow
cũng có thể đưa ra những câu trả lời dựa trên cơ sở hợp lý về tình hình thực tế của thị trường.
Câu trả lời có thể sai nhưng chỉ là trong một thời gian ngắn tương đối ở giai đoạn đầu của xu
thế cấp 1 mới hình thành, hoặc có thể trong nhiều tuần hay nhiều tháng (điển hình là với thị
trường đang xuất hiện mô hình đường ngang) Lý thuyết Dow không thể đưa ra một nhận định
cụ thể nào. Khi đó nếu một nhà đầu tư “ưa họat động” phản ứng lại thì điều đó là hoàn toàn dễ
hiểu. Nhưng tính kiên nhẫn là một phẩm chất không thể thiếu trên bất kì thị trường chứng
khoán nào bởi nó sẽ giúp nhà đầu tư tránh được những sai lầm nghiêm trọng.
+ Lý thuyết Dow không giúp gì được cho những nhà đầu tư theo các biến động trung gian: Họ
là những người đầu tư trong ngắn hạn. Lý thuyết Dow hầu như không đưa ra (nếu có thì chỉ rất
ít) những dấu hiệu về sự thay đổi trong các xu thế trung gian. Tuy nhiên nếu có thể có được
những dấu hiệu này thì rõ ràng lợi nhuận sẽ cao hơn nhiều so với chỉ đầu tư theo những biến
động của xu thế cấp một. Một số nhà kinh doanh chứng khoán đã dựa trên Lý thuyết Dow để
đưa ra những nguyên lý phụ áp dụng cho các biến động trung gian. Nhưng nhìn chung chưa có
một nguyên lý nào loại này họat động thực sự có hiệu quả. Lý thuyết Dow chỉ là một công cụ -
một chiếc máy để khi ta đưa dữ liệu vào thì nó đưa ra những kết quả về xu thế cấp 1 - xu thế
chính của thị trường. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng bởi hầu hết các cổ phiếu trên thị
trường đều vận động theo xu thế đó. Lý thuyết Dow không thể chỉ ra, không thể giúp bạn xác
định nên mua hay bán loại cổ phiếu nào.

III. Một số khái niệm và công cụ thường dùng
1. Biểu đồ giá & khối lượng
Hiện nay nhà đầu tư cũng như các nhà phân tích kỹ thuật sử dụng nhiều loại biểu đồ khác
nhau để phân tích, trong đó có 3 loại biểu đồ được dùng một cách phổ biến nhất đó là: biểu đồ
dạng đường (Line chart), biểu đồ dạng thanh (Bar chart), biểu đồ dạng nến Nhật (Candlestick
chart).
Biểu đồ dạng đường
Dạng biểu đồ này từ trước tới nay thường được sử dụng trên thị trường chứng khoán, và cũng là
loại biểu đồ được dùng một cách phổ biến nhất trong các ngành khoa học khác nhưng hiện nay
trên thị trường chứng khoán do khoa học kỹ thuật phát triển, diễn biến của thị trường
chứng khoán ngày càng phức tạp cho nên loại biểu đồ này ngày càng ít được sử dụng hơn.

Biểu đồ dạng đường được tạo thành bằng cách nỗi một chuỗi các dữ liệu giá quá khứ với nhau
bằng một đường kẽ. Ưu điểm của loại biểu đồ này là dễ sử dụng vì nó chỉ theo dõi giá đóng cửa
của công cụ tài chính trong một khung thời gian xác định.
Biểu đồ dạng thanh (Bar Chart)
Biểu đồ dạng thanh là một dạng biểu đồ phản ánh biến động giá của chứng khoán, theo đó phần
đỉnh của đường kẽ dọc chỉ mức giá cao nhất trong phiên giao dịch và phần đáy của đường kẽ dọc
này chỉ mức giá thấp nhất trong phiên giao dịch; giá đóng cửa được biểu thị ở bên phải và giá mở
cửa được biểu thị ở bên trái của thanh (bar). Một thanh đơn lẻ tượng trưng cho một phiên giao
dịch.

Biểu đồ dạng nến Nhật
Biểu đồ dạng nến Nhật (Candlestick Chart) là dạng biểu đồ cải tiến của biểu đồ dạng then chắn
(Bar chart). Nó được người Nhật khám phá và áp dụng lần đầu tiên trên thị trường gạo và qua thời
gian phát triển nó trở thành công cụ phân tích khá phổ biến.
Theo biểu đồ này thì mỗi thanh nến thể hiện biên độ dao động giá của chứng khoán qua một
khoảng thời gian xác định, thường là trong 1 phiên.

2. Xu thế, đường xu thế, đường kênh

 Xu hướng (xu thế) thị trường (Market Trend):
+ Xu hướng thị trường là một khoảng thời gian kéo dài khi giá trong một thị trường chứng
khoán đang tăng lên hoặc đang giảm xuống nhanh hơn mức trung bình lịch sử. Xu hướng
thị trường bao gồm xu hướng đầu cơ giá lên (xu hướng tăng giá, bullish trend) và xu
hướng đầu cơ giá xuống (xu hướng giảm giá, bearish trend).
+ Xu hướng tăng giá bao gồm liên tiếp những đỉnh giá (high) cao dần và đáy giá (low) cao
dần (đỉnh trước cao hơn đỉnh sau và đáy trước cao hơn đáy sau). Một xu hướng tăng giá sẽ
được coi là vẫn duy trì cho đến khi xuất hiện một đáy mới thấp hơn đáy trước nó. Ngược
lại xu hướng giảm giá cũng sẽ được coi là vẫn đang tiếp diễn cho đến khi xuất hiện một
đỉnh mới cao hơn đỉnh trước nó.
 Đường xu hướng (Trendline):
+ Xu hướng tăng giá và xu hướng giảm giá cũng được nghiên cứu dưới dạng các đường xu
hướng. Với xu hướng tăng giá thì có đường có xu hướng tăng giá (upside trendline), đây là
đường nối các điểm đáy cao dần lên. Với xu hướng giảm giá thì có đường xu hướng giảm giá
và đây là đường nối các đỉnh thấp dần. Đường xu hướng có thể kéo dài thậm chí nhiều năm.
+Cách vẽ đường xu hướng:
Qui trình vẽ một đường xu hướng khá đơn giản nhưng cũng rất dễ nhầm lẫn. Điều căn bản là
phải có những dấu hiệu chắc chắn về sự xuất hiện một xu hướng giá. Khi muốn vẽ một đường
xu hướng tăng giá, cần phải có ít nhất hai điểm đáy mà đáy sau cao hơn đáy trước. Tất nhiên
điều kiện cần và đủ để có thể vẽ được một đường thẳng là phải có hai điểm, tuy nhiên người ta
thường đợi cho đến khi xuất hiện một đáy thứ ba cao hơn hai đáy trước và đường xu hướng
chuẩn thường đi qua cả 3 đáy (một cách tương đối).
Điều này có nghĩa là đường xu hướng tăng giá này có thể không đi qua đáy thứ ba mà chỉ đi
sát, nhìn chung như thế là đạt yêu cầu. Nhưng một đường xu hướng tăng giá đi qua cả ba đáy
bao giờ cũng được coi là một đường xu thế chính xác và có độ tin cậy cao.


+ Ý nghĩa của đường xu hướng:
Khi một đường xu hướng đã được xác nhận về độ chính xác thì nó sẽ trở nên rất hữu ích bởi
tính chính xác ấy đảm bảo chắc chắn hướng chuyển động ổn định của giá. Với xu hướng tăng giá,

sau mỗi đợt tăng biến động điều chỉnh xuất hiện sẽ kéo giá xuống sát hoặc đến đúng đường xu
hướng nhưng sẽ không xuống thấp hơn nếu xu hướng thị trường vẫn đang ổn định. Đường xu
hướng lúc này là biên thấp nhất của dao động giá.Tương tự, với thị trường đang có xu hướng giảm
giá thì đường xu hướng giảm giá sẽ là biên cao nhất cho mọi dao động giá. Như thế, các đường xu
hướng chính xác của thị trường sẽ là các biên dao động cơ sở để xác định mức giá mua và bán tối
đa và tối thiểu hợp lý. Nếu chuyển động của đồ thị vượt lên đường xu hướng giảm giá hoặc xuống
dưới đường xu hướng tăng giá thì đây là dấu hiệu, có thể nói là sớm nhất, cho sự thay đổi trong xu
hướng thị trường.
 Kênh giá (Price Channel), đường kênh(channel line):
+Kênh giá là khoảng dao động của giá, nếu giá sẽ dao động trong một dải thì dải đó gọi là kênh
giá. Dải dao động đó được xác định bởi hai đường biên là đường xu hướng (trendline) và đường
kênh (channel line), hai đường này song song với nhau.

+ Cách vẽ kênh giá:
Sau khi đã xác định được xu hướng thị trường và tiến hành vẽ đường xu hướng như trên, ta vẽ
đường kênh là một đường song song (đường nét đứt) với đường xu hướng và đi qua đỉnh giá rõ
nhất đầu tiên.
+ ý nghĩa của đường kênh:
Nếu ở lần tăng giá tiếp theo giá tăng đến gần hoặc chạm vào đường kênh rồi lại giảm xuống đến
gần đường xu hướng thì khả năng có thể tồn tại một kênh dao động của giá. Với xu hướng giảm
giá, mỗi lần giá chạm vào hoặc đến gần đường kênh rồi quay trở lại xuống đến đường xu thế là
một lần kênh được kiểm tra thành công. Kênh tồn tại càng lâu với càng nhiều lần thử thành công
thì vai trò cũng như độ tin cậy của nó càng lớn. Kênh có thể sử dụng để đầu tư kiếm lời trong ngắn
hạn và thậm chí một số nhà đầu tư táo bạo còn sử dụng đường kênh để tiến hành những giao dịch
ngược hướng với xu hướng thị trường nhằm tìm kiếm những khoản lợi lớn hơn cho dù giao dịch
ngược hướng thị trường có thể là một chiến thuật nguy hiểm và phải trả giá đắt.
Khi chuyển động của giá trên thị trường phá vỡ đường xu hướng thì có thể gây ra sự đảo chiều của
xu hướng thị trường, nhưng nếu đường kênh bị chuyển động của giá phá vỡ (khi giá vượt ra ngoài
đường kênh) thì tác động lại hoàn toàn ngược lại: đây là dấu hiệu cho sự gia tăng sức mạnh của xu
hướng hiện tại, thậm chí một số nhà đầu tư tin tưởng rằng việc giá chuyển động làm mất đi đường

kênh sẽ xác nhận cho một xu thế ổn định trong thời gian dài và là cơ hội cho những nhà đầu tư
thực hiện những hợp đồng dài hạn.
Ngược lại, khi giá không lên được đến đường kênh mà quay ngược trở lại quá sớm thì đây lại
là dấu hiệu dự báo sớm sự suy giảm của xu hướng hiện tại và là dấu hiệu cho thấy có thể chuyển
động của giá sẽ phá vỡ đường xu hướng.
Nói chung việc chuyển động của giá không thể đạt đến sát một trong hai đường biên của kênh giá

thể là một dấu hiệu sớm cho thấy xu hướng giá có thể thay đổi và khả năng chuyển động của giá
có khả năng sẽ phá vỡ đường biên còn lại của kênh giá. Với xu hướng tăng giá, có thể có hai
trường hợp (trong các hình vẽ ở hai trường hợp này ta giả định ban đầu kênh giá đang có xu thế
hướng lên- xu thế tăng giá, hoàn toàn tương tự nếu muốn xem xét đối với xu hướng giá giảm).
Nếu chuyển động của giá vượt qua đường kênh một khoảng lớn thì đây là dấu hiệu cho thấy xu
hướng đầu cơ giá lên đang mạnh dần, thường ta sẽ phải vẽ một đường xu hướng mới dốc hơn từ
điểm đáy cuối cùng song song với đường kênh mới. Thực tế cho thấy đường xu hướng mới này
hoạt động tốt hơn đường cũ.

Nếu giá không đạt được đến đường kênh và chuyển động phá vỡ đường xu hướng thì điều này chỉ
ra rằng xu hướng thị trường đổi chiều thành xu hướng giảm giá. Hai đỉnh mới xuất hiện (đỉnh 5 và
7) sẽ là cơ sở để vẽ đường xu hướng giảm giá, tương tự ta sẽ vẽ đường kênh song song với đường
xu hướng và đi qua đáy 4. Chú ý là ở đây có sự đổi vai trò đường xu hướng ban đầu trở thành
đường kênh và ngược lại.
Ngoài ra kênh và các đường kênh còn mang một ý nghĩa khác: Khi giá chuyển động phá vỡ xu
hướng hiện tại thì xuất hiện điểm phá vỡ (breakout) từ kênh hiện tại, giá thường sẽ chuyển động
một khoảng bằng với độ rộng của kênh đó.
Như thế, để xác định điểm dừng của chuyển động này ta có thể tính tương đối chính xác bằng cách
đo
độ rộng của kênh vừa bị phá vỡ và dự kiến điểm dừng từ điểm giá vượt ra ngoài kênh (Tuy nhiên
cần luôn luôn lưu ý rằng trong hai đường biên của kênh thì đường xu hướng luôn có vai trò quan
trọng và đáng tin cậy hơn, đường kênh chỉ là một công cụ kĩ thuật xuất phát từ đường xu hướng).
3. Mức hoàn lại, khung giao dịch

Mức hoàn lại (Retracement):
Trong bất kì một đồ thị nào ta đều thấy sau một giai đoạn giá chuyển động theo xu hướng của
thị trường thì giá sẽ hoàn lại một chút trước khi quay trở lại chuyển động theo xu hướng cũ.
Những chuyển động ngược xu hướng này thường có độ lớn ở vào những khoảng có thể dự đoán
được và được gọi là mức hoàn lại. Mức hoàn lại trung bình thường gặp nhất là 50%. Bên cạnh đó
còn có các mức hoàn lại thường thấy khác đó là các mức 1/3 và 2/3.
Nói cách khác, nếu chia một xu hướng giá thành ba phần thì nói mức hoàn lại thấp nhất là 33% và
cao
nhất là 66%, có nghĩa là ở giai đoạn điều chỉnh của xu hướng đó giá sẽ hoàn lại ít nhất 1/3 mức
tăng (hay giảm) mà nó đạt được trong xu hướng trước đó và mức hoàn lại đó không vượt quá 2/3
mức tăng (hay giảm) trước đó đạt được. Nếu mức hoàn lại cao hơn thì khả năng sẽ xảy ra sự đảo
chiều thị trường tức là giá sẽ chuyển động theo xu hướng đảo ngược xu hướng trước mà không
quay lại chuyển động theo xu hướng đó.
Khung Giao Dịch (Trading Range):
+ Thị trường có thể ở một trong 3 xu hướng là xu hướng tăng giá (untrend), xu hướng giảm giá
(downtrend) và xu hướng dập dềnh (sideways). Nhiều người cho rằng thị trường chỉ có thể tăng
giá hoặc giảm giá, nhưng thực tế có đến 1/3 thời gian giá chuyển động theo một hình
mẫu dạng ‘phẳng’ (flat) nằm ngang gọi là khung giao dịch. Khung giao dịch là một dải nằm ngang
trên đồ thị trong đó bao gồm các dao động của giá trong một giai đoạn dài. Nói chung hầu hết các
biến động của thị trường sẽ diễn ra bên trong khung giao dịch. Tuy nhiên khi thị trường có biến
động dạng khung giao dịch thì lại rất khó kiếm được lợi nhuận.
+ Ý nghĩa của khung giao dịch
Khung giao dịch phản ánh thời kỳ mà áp lực cung cầu là tương đối cân bằng và giá duy trì ở mức
cân bằng thị trường. Đôi khi người ta còn gọi thời kỳ mà giá biến động theo khung giao dịch là
thời kỳ không có xu hướng thị trường (non-trend martket). Hầu hết các công cụ phân tích kỹ thuật
đều được tạo ra để có thể áp dụng vào các thị trường có xu hướng tăng giá hoặc giảm giá rõ rệt
còn khi thị trường ở dạng không có xu hướng rõ rệt thì các công cụ này nhìn chung hoạt động kém
hiệu quả, thậm chí là không thể áp dụng. Đây cũng chính là thời kỳ gây khó chịu nhất cho những
người đi theo Phân tích kỹ thuật và gây ra nhiều mức lỗ nhất. Trong những tình huống ấy nhà đầu
tư luôn phải đối mặt với một trong ba quyết định là mua, bán hay đứng ngoài không tham gia vào

thị trường và thông thường thì quyết định không tham gia vào thị trường luôn là quyết định sáng
suốt nhất.

Thực tế cũng có một số phương pháp có thể áp dụng để kiếm lời khi thị trường xuất hiện dạng
khung giao dịch, chẳng hạn như sử dụng các chỉ số dao động thị trường (Oscillators) mà ta sẽ
nghiên cứu ở phần sau. Nhìn chung rất khó có thể dự đoán sự xuất hiện trong tương lai của mô
hình khung giao dịch. Mô hình này cũng có thể kéo dài trong nhiều tháng, một năm hay nhiều
năm. Cũng giống như kênh giá, khung giao dịch cũng có các đường biên bên trên và bên dưới, đây
chính là các đường kháng cự và hỗ trợ của khung. Những “điểm phá vỡ” (breakout) ra ngoài
khung có thể là các dấu hiệu quan trọng để tiến hành các giao dịch. Tuy nhiên cũng cần lưu ý bởi
giá cũng thường dao động vượt ra ngoài khung nhưng chỉ với một lượng nhỏ, sau đó quay trở lại
bên trong khung. Đôi khi nguyên nhân của hiện tượng này là do những lệnh dừng mà nhà đầu tư
đã đặt và những lệnh này tác động đến những vùng giá nằm ngoài khung. Khi những lệnh này kết
thúc thì giá sẽ trở lại dao động bên trong khung giao dịch nếu không có những lý do liên quan đến
những yếu tố tài chính cơ bản hay có sự xuất hiện khối lượng giao dịch lớn duy trì sự vượt ra ấy.
Nhìn chung nhà đầu tư không nên đi theo ngay những “breakout” mới xuất hiện mà nên chờ thêm
một dao động tiếp theo xác nhận “breakout” này cho dù điều này có thể làm chậm lại một chút
nhưng sẽ tránh được rất nhiều dấu hiệu sai và tránh được những khoản lỗ.
4. Hỗ trợ và kháng cự:
Việc nghiên cứu về mức hỗ trợ và kháng cự là một trong những vấn đề khá quan trọng đối với
Phân tích kỹ thuật. Nó cho phép người nghiên cứu có thêm những cơ sở mới trong dự đoán các
biến động
tiềm năng, trong việc chỉ ra những thời điểm mà thị trường có thể gây ra rắc rối cho nhà đầu tư.
Mức kháng cự và hỗ trợ có ý nghĩa rất quan trọng trong việc nghiên cứu phân tích các hình mẫu kỹ
thuật. Những kiến thức cơ bản về mức kháng cự và hỗ trợ sẽ giúp người nghiên cứu dễ dàng hiểu
bản chất và các ứng dụng của các hình mẫu đó.Trên thực tế, nhiều nhà đầu tư có kinh nghiệm đã
xây dựng cho họ một “hệ thống đầu tư” riêng dựa hầu hết vào những nguyên lý về mức kháng cự
và hỗ trợ.
. Mức hỗ trợ là mức giá ở đó mức cầu cho một công cụ tài chính đủ để, ít nhất là, làm dừng xu
hướng giảm giá của thị trường và cũng có thể đổi chiều xu hướng đó, tức là làm xu hướng giá đi

xuống quay ngược đi lên. Từ đó ta có định nghĩa về mức kháng cự, đó là mức giá mà ở đó lượng
cung đủ để giá sẽ ngừng không tăng thêm và có thể chuyển động ngược lại đi xuống.
Theo lý thuyết thì mỗi mức giá có một lượng cung và cầu nhất định. Nhưng khoản hỗ trợ thể hiện
sự tập trung của cầu còn khoảng kháng cự thể hiện sự tập trung của cung.
Một nguyên tắc cần chú ý là mức hỗ trợ có thể chuyển thành mức kháng cự và ngược lại. Một khi
giá phá vỡ xuống dưới mức hỗ trợ thì mức hỗ trợ bị phá vỡ có thể trở thành mức kháng cự mới. Sự
phá vỡ hỗ trợ báo hiệu rằng lượng cung đã vượt qua lượng cầu. Do đó nếu giá trở lại mức này thì
có thể có sự gia tăng về cung và do đó mà trở thành mức kháng cự. Ngược lại khi giá tăng trên
mức kháng cự thì nó báo hiệu sự thay đổi về cung và cầu. Sự phá vỡ trên mức kháng cự chứng tỏ
rằng lượng cầu đã vượt qua lượng cung. Nếu giá trở lại mức này thì có thể có sự gia tăng về cung
và do đó mà trở thành mức hỗ trợ.
4. Phần mềm hỗ trợ PTKT
 Metastock
 Amibrocker
 Metakit
5. Một số website
 cafef.vn/
 www. cophieu68 .com
 www. stockbiz .vn/
 www. itrade .vn/
Chương 2: Các chỉ số thường dùng trong PTKT
1. Chỉ báo về dao động (Volatility Indicators)
Được dùng để xét đoán sức mạnh của xu thế và các điểm phá vỡ (breakout).
1.1. Bollinger Bands.
1.2.Volatility.
1.3.Chaikin Volatility.
1.4.Volatility Ratio.
1.5.Average True Range (ATR).
Ngoài ra còn có các chỉ báo :
* Commodity Channel Index

* ODDS Probability Cones
* Relative Volatility Index
* Standard Deviation
* Standard Error Bands
Trong bài viết này sẽ nói rõ về chỉ báo sau :
1.1. Bollinger Bands
Được phát triển bởi John Bollinger từ những năm đầu của thập kỉ 80 thế kỉ XX, dải Bollinger
Bands là một dải không định hình ở vị trí trên và dưới một đường trung bình trượt.
Sự biến động của nó dựa trên độ lệch chuẩn (standard deviation). Trong thống kê độ lệch
chuẩn xác định mức độ ổn định của số liệu thống kê xoay quanh giá trị trung bình. Giá trị của độ
lệch chuẩn càng thấp thì mức độ ổn đinh của số liệu càng lớn, giá trị của độ lệch chuẩn càng cao
thì mức độ ổn định của số liệu càng nhỏ, dao động quanh giá trị trung bình càng lớn. Như vậy nếu
giá của cổ phiếu có đọ lệch chuẩn nhỏ, mức độ biến thiên giá ccủa cổ phiếu này quanh trung bình
động càng thấp, nếu độ lệch chuẩn lớn, mức độ bến thiên giá của cổ phiếu quanh trung bình động
càng cao.
Về tính toán và vẽ đồ thị, dải băng Bollinger sử dụng độ lệch chuẩn và được vẽ bởi 2 đường đồ
thị trên cùng đồ thị giá của cổ phiếu: 1 đường gọi là băng trên (upper band) và 1 đường gọi là băng
dưới (lower band) biến động dựa vào đường trung bình trượt đơn giản (SMA). Thực chất đường
băng trên và băng dưới có được khi ta cộng thêm 1 tỷ lệ độ lệch chuẩn vào đồ thị đường SMA. Độ
lệch chuẩn được nhân với tỷ lệ bao nhiêu là tùy thuộc vào quan điểm của mỗi nhà phân tích.
Băng trên và băng dưới của Bollinger Bands
α
ngày, với tỷ lệ độ lệch chuẩn là
ε

(hay còn gọi là độ rộng (width) của bands) sẽ được tính toán như sau:
• Băng trên
¿
SMA
α

ngày +
ε
(độ lệch chuẩn của giá
α
ngày)
• Băng dưới SMA
α
ngày
ε
(độ lệch chuẩn của giá
α
ngày)
Tính toán độ lệch chuẩn
Nếu gọi X là giá trị của cổ phiếu,
E(X) là trung bình động của X, S là phương sai, d là độ lệch chuẩn. Độ lệch chuẩn sẽ được tính
toán như sau:
S = E[(X – EX)
2
] = E(X
2
) – [E(X)]
2
d = Căn bậc hai của S
Ý nghĩa độ lệch chuẩn
Trong thống kê độ lệch chuẩn xác định mức độ ổn định của số liệu thống kê xoay quanh giá trị
trung bình . Giá trị của độ lệch chuẩn càng thấp thì mức độ ổn định của số liệu càng lớn, dao động
quanh giá trị trung bình càng nhỏ. Giá trị độ lệch chuẩn càng cao thì mức độ ổn định của số liệu
càng nhỏ, dao động quanh giá trị trung bình càng lớn. Như vậy nếu giá của cổ phiếu có độ lệch
chuẩn nhỏ, mức độ biến thiên giá của cổ phiếu này quanh trung bình động thấp, nếu độ lệch chuẩn
lớn, mức độ biến thiên giá của cổ phiếu quanh trung bình động cao. Hãy hình dung trong ví dụ

sau: vào cuối học kỳ người ta lấy hai học sinh cùng có điểm trung bình 5,0 để xét cho đi thi học
sinh giỏi. Học sinh thứ nhất có độ lệch chuẩn là 0 vì điểm trong học kỳ của học sinh này toàn điểm
5; học sinh thứ 2 có độ lệch chuẩn lớn hơn 0 vì điểm trong học kỳ của học sinh này có cả hai loại
điểm 10 và điểm 0. Người ta nói học sinh thứ nhất học đều và ổn định hơn học sinh thứ hai. Nếu
cử học sinh thứ nhất đi thi thì sẽ an toàn hơn vì không sợ bị điểm liệt và mang tiếng xấu về cho
trường, nhưng cử học sinh thứ hai sẽ có khả năng sinh lợi lớn hơn vì có thể đoạt giải nhất mặc dù
rủi ro bị liệt là tương đương. Điều này cũng có ý nghĩa tương tự về mức độ sinh lời và rùi ro trong
chứng khoán, càng chấp nhận rủi ro cao thì sinh lời càng lớn.
Trong xác xuất thống kê, nếu gọi X là giá cổ phiếu với trung bình là a, theo mô hình phân phối
chuẩn có các xác suất sau:
• P(a – d < X < a + d) = 68,26%
• P(a – 2d < X < a + 2d) = 95,44%
• P(a – 3d < X < a + 3d) = 99,74%
Điều này có nghĩa xác suất để giá cổ phiếu nằm trong khoảng từ trung bình giá trừ đi độ lệch
chuẩn (a – d) cho đến trung bình giá cộng với độ lệch chuẩn (a + d) là 68.26% tức là gần 70%.
Chú ý rằng 70% là ngưỡng mà nhiều nhà kinh doanh và quân sự mong đợi: “nếu khả năng chắc
thắng 70% thì cứ việc tiến hành”. Vì vậy nếu giá cổ phiếu không nằm trong khoảng 70% (vượt
trên ngưỡng a + d hoặc xuống dưới ngưỡng a - d) thì đó sẽ là các tín hiệu cảnh báo cần phải chú ý.
Sự cài đặt các thông số của dải Bollinger có thể được điều chỉnh để phù hợp nhất với từng loại
chứng khoán và phong cách đầu tư. Bolinger khuyến cáo rằng nên có những sự điều chỉnh nhỏ đối
với hệ số nhân của độ lệch chuẩn để so sánh tìm ra được mẫu hình dải Bollinger phù hợp nhất. Sự
thay đổi số chu kỳ của đường trung bình trượt cũng ảnh hưởng tới việc tính toán độ lệch chuẩn, do
vậy chỉ nên có những sự điều chỉnh thật nhỏ đối với hệ số nhân của độ lệch chuẩn. Với đường
SMA của 20 ngày và độ lệch chuẩn của 20 ngày, hệ số nhân của độ lệch chuẩn thường được đặt là
2. Bollinger cũng đề xuất là với đường SMA chu kì 50 nên đặt hệ số độ lệch chuẩn là 2.1 và với
đường SMA chu kì 10 thì hệ số độ lệch chuẩn là 1.9.
Tính toán chỉ ra rằng các đường biên có khuynh hướng bao quát hết các biến động về giá, xác suất
giá cổ phiếu nằm trong dải băng Bollinger là xấp xỉ 70%. Nếu giá cổ phiếu không nằm trong dải
băng Bollinger, tức là thuộc về phần xác suất 30% còn lại thì các tín hiệu này cần phải chú ý.
 Khi sức tăng của giá quá mạnh, cầu lớn hơn cung nhiều, giá cổ phiếu sẽ vượt quá

băng trên. Nếu giá cổ phiếu liên tục nằm trên dải băng trên thì điều này có nghĩa là sức
tăng giá của cổ phiếu vẫn rất mạnh và được khẳng định chắc chắn.
 Khi sức giảm của giá quá mạnh, cung lớn hơn cầu nhiều, giá cổ phiếu sẽ đi thấp hơn
băng dưới (lower band). Nếu giá cổ phiếu liên tục nằm dưới dải băng dưới thì điều này
có nghĩa là sức giảm giá của cổ phiếu vẫn rất mạnh và được khẳng định chắc chắn.
Nếu giá cổ phiếu vượt ra ngoài dải băng bollinger rồi trở lại vào trong dải băng ngay sau đó thì
đây là tín hiệu cảnh báo về sự suy giảm sức mạnh của tăng hoặc giảm giá khi sự tăng hoặc giảm
giá đã đạt đến sự căng thẳng quá mức. Điều này giống như sự bùng phát cuối cùng rồi lịm dần của
sự sống vào thời điểm hấp hối.
Khi mức độ dao động của thị trường giảm, dải Bollinger Bands sẽ thu hẹp lại và có thể sẽ diễn
ra 1 sự giãn ra theo biến động mạnh cùng với đó là sự đổi chiều của đường giá.
Cách sử dụng:
• Dựa vào giá vượt ra ngoài dải bollinger: khi giá cổ phiếu vượt ra ngoài dải Bollinger và tiếp tục
nằm ở ngoài dải thì xu thế tăng hoặc giảm giá hiện tại sẽ tiếp tục. Dải trên và dải dưới là giá mục
tiêu. Nếu giá thoát ra ra khỏi dải dưới và vượt trên đường SMA thì dải trên trở thành giá mục tiêu.
Tương tự, nếu giá rơi khỏi dải trên và xuống dưới đường SMA thì dải dưới trở thành giá
- Nếu giá nằm quá dải trên (upper band) và kéo dài liên tục thì tín hiệu này khẳng định xu thế tăng
sẽ tiếp tục tăng mạnh.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×