Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (378.18 KB, 72 trang )

CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HUY ĐỘNG VỐN CỦA
CÔNG TY TÀI CHÍNH
1.1 Tổng quan về huy động vốn của Công ty Tài chính
1.1.1 Khái quát về Công ty Tài chính
1.1.1.1 Khái niệm, vai trò và phân loại Công ty Tài chính
• Khái niệm Công ty Tài chính
Các tổ chức trung gian tài chính là một bộ phận cấu thành của hệ thống
tài chính quốc gia. Nó có vai trò đặc biệt trong việc huy động các nguồn lực
tài chính và cung cấp các dịch vụ tài chính cho hoạt động sản xuất, thương
mại, dịch vụ và đầu tư phát triển nền kinh tế của đất nước. Cùng với sự phát
triển của nền kinh tế thị trường, các tổ chức trung gian tài chính cũng ngày
càng phát triển phong phú và đa dạng.
Có nhiều cách phân loại các tổ chức trung gian tài chính khác nhau ở
các nước, song nhìn chung thường được phân thành hai loại là các Ngân hàng
và các Tổ chức Tài chính phi Ngân hàng.
Các Tổ chức Tài chính phi Ngân hàng bao gồm: các Công ty Tài chính
và các Công ty cho thuê tài chính, Công ty Bảo hiểm, Công ty chứng khoán...
Đó là các tổ chức kinh doanh trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, được thực hiện
một số hoạt động Ngân hàng như là huy động các món tiền gửi có kỳ hạn, đặc
biệt là tiền tiết kiệm để đưa vào lĩnh vực đầu tư, cho vay ngắn hạn, trung và
dài hạn cho các cá nhân, tổ chức kinh tế… nhưng đặc biệt không được nhận
tiền gửi không kỳ hạn và thực hiện dịch vụ thanh toán.
Tuy là loại hình trung gian tài chính xuất hiện sau vào đầu thế kỷ XX,
nhưng các Công ty Tài chính đã khắc phục hạn chế về mặt luật pháp đối với
hoạt động của các Ngân hàng (các Ngân hàng thương mại không được phép
mở rộng các dịch vụ tài chính - ngân hàng sang các lĩnh vực khác) và bổ sung
Trần Thu Hồng 1
cho các khu vực thị trường mà các Ngân hàng Thương mại không đáp ứng
được nhu cầu về vốn đầu tư ngày càng to lớn.
Có nhiều cách hiểu và diễn đạt khác nhau về Công ty Tài chính.Tuỳ


theo chính sách phát triển loại hình các tổ chức tài chính để quy định, phạm
vi, nội dung các nghiệp vụ của mỗi nước mà các Công ty Tài chính được phép
thực hiện. Thị trường tài chính càng phát triển thì cấu trúc tổ chức và hoạt
động của các Công ty Tài chính càng đa dạng và phong phú.
Nhìn chung, các Công ty Tài chính trên thế giới đều có đặc điểm :
- Công ty Tài chính là một tổ chức kinh doanh chuyên nghiệp trên thị
trường tài chính, hạch toán độc lập và được đăng ký kinh doanh theo pháp
luật quy định;
- Quy mô của các Công ty Tài chính thường là nhỏ và vừa, và không có
nhiều chi nhánh như các Ngân hàng thương mại;
- Khác với các Ngân hàng thương mại được hoạt động ở cả 3 lĩnh vực
là nhận tiền gửi, cho vay và thực hiện nghiệp vụ thanh toán, hoạt động của
các Công ty Tài chính hẹp hơn và bị giới hạn ở một số khâu và mang tính chất
chuyên nghiệp, đặc biệt là một số nghiệp vụ nhất định. Đặc biệt các Công ty
Tài chính không nhận được nhận tiền gửi không kỳ hạn hoặc tiền gửi dưới 1
năm, và không được thực hiện nghiệp vụ thanh toán. Các Công ty Tài chính
huy động vốn bằng các công cụ nợ như kỳ phiếu, trái phiếu và dùng số tiền đó
cho vay hoặc đầu tư.
Theo Điều 2 Nghị định số 79/2002/NĐ-CP ngày 04/10/2002 của Chính
phủ định nghĩa Công ty Tài chính như sau:
"Công ty Tài chính là loại hình tổ chức tín dụng phi Ngân hàng với chức
năng sử dụng vốn tự có, vốn huy động và các nguồn vốn khác để cho vay, đầu
tư cung ứng cho các doanh nghiệp tư vấn về tài chính tiền tệ và thực hiện một
số dịch vụ khác theo quy định của pháp luật nhưng không được thực hiện dịch
vụ thanh toán, không được nhận tiền gửi dưới 1 năm".
Trần Thu Hồng 2
• Vai trò của Công ty Tài chính
Công ty Tài chính là một trung gian tài chính nên nó mang đầy đủ vai
trò của một trung gian tài chính trong nền kinh tế với nhiệm vụ thu hút, tích tụ
và tập trung các nguồn vốn nhằm cho những người có nhu cầu sử dụng vốn

vay. Các Công ty Tài chính đã đem lại lợi ích đầy đủ chi những người có vốn
(người cho vay) và người cần vốn (người đi vay) và cho cả nền kinh tế. Với
tính chất là một tổ chức tài chính chuyên môn hoá cao trong một số nghiệp vụ
được quy định, các Công ty Tài chính có vai trò quan trọng như sau:
- Thứ nhất, Công ty Tài chính giúp khách hàng tiết kiệm được các chi
phí về thông tin và giao dịch khi cung ứng và sử dụng các nguồn vốn. Đặc
biệt là tạo ra các cơ hội đầu tư sinh lời cho các cá nhân sẽ không dễ gì làm lợi
từ các món tiền của mình do thiếu những thông tin cần thiết trên thị trường tài
chính. Hơn nữa, món tiền của họ lại nhỏ, chi phí giao dịch lại quá lớn, thủ tục
lại đôi khi rườm rà khiến cho cá nhân gặp khó khăn khi đầu tư. Trong khi đó,
Công ty Tài chính có đủ điều kiện cần thiết để phân tích, tổng hợp tình hình,
do đó việc đầu tư sẽ dễ đem lại lợi nhuận hơn. Khi gửi tiền vào các Công ty
Tài chính, nguồn lợi sẽ mang lại cho cả hai bên nhờ tình kinh tế do quy mô,
nhờ sự phân tán rủi ro đa dạng hoá và nhờ việc giảm chi phí giao dịch trong
tổng thể. Các Công ty Tài chính giúp khách hàng của mình tiết kiệm được các
chi phí thông tin và giao dịch khi cung ứng hoặc sử dụng các nguồn vốn bởi
họ luôn có những chiến lược hợp lý, linh hoạt trong quan hệ với khách hàng,
trong việc triển khai các nghiệp vụ đuợc phép làm... nên họ tạo ra đuợc tỷ suất
lợi nhuận cao, đảm bảo đem lại những cơ hội đầu tư tốt cho khách hàng gửi
tiền vào Công ty.
- Thứ hai, Công ty Tài chính là kênh có tính chất chuyên môn hoá trong
việc thu hút và đầu tư các khoản vốn trung và dài hạn. Các Công ty Tài chính
thường có khả năng cung cấp vốn cho các giao dịch dài hạn và có tính chất rủi
ro hơn (đầu tư mạo hiểm). Nhờ đó, Công ty Tài chính đã góp phần làm phong
phú thêm các dịch vụ tài chính, ngân hàng.
Trần Thu Hồng 3
- Thứ ba, sự phát triển của Công ty Tài chính đã thúc đẩy cạnh tranh
trong đầu tư trên thị trường tài chính. Thông qua việc đáp ứng các nhu cầu về
vốn trung và dài hạn, hoạt động của các Công ty Tài chính đã và đang thúc
đẩy sự phát triển của thị trường tài chính. Những năm gần đây, nhiều loại

hình Công ty Tài chính đã ra đời làm chất lượng phúc vụ được cải thiện, giá
vốn đầu tư ngày càng giảm, tạo thêm nhiều khả năng lựa chọn cho khách
hàng. Vì vậy, Ngân hàng và Công ty Tài chính mỗi loại hình đều có thế mạnh
riêng nhưng tất cả đều góp phần tăng cường hiệu quả kinh tế - xã hội.
- Thứ tư, hoạt động của các Công ty Tài chính cũng rất phù hợp với các
hoạt động giao dịch vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, do đó rất phù hợp
với các nước đang phát triển. Do vậy, ngoài các Ngân hàng thì các Công ty
Tài chính với sự linh hoạt trong hoạt động cũng đã tập trung được một lượng
vốn lớn từ nguồn tiết kiệm của dân cư và các tổ chức kinh tế trên thị trường
tài chính. Các Công ty Tài chính có thể phát hành những giấy tờ có giá với lãi
suất cao, mệnh giá thấp... để thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư lớn,
nhỏ trên thị trường tài chính vào nó, điều này sẽ khiến nguồn vốn huy động
được nhiều hơn, đồng thời mở rộng được giao dịch cho các doanh nghiệp vừa
và nhỏ.
- Ngoài ra đối với các Công ty Tài chính trực thuộc các tập đoàn kinh
tế. hay trực thuộc Tổng Công ty có điều kiện hiểu biết sâu về các Công ty
thành viên, có nhiều điều kiện thuận lợi hơn trong việc quản lý rủi ro tài chính
và huy động vốn cho tập đoàn, trong việc cấp vốn cho cá Công ty thành viên
hay khách hàng của Công ty thành viên trong tập đoàn.
• Phân loại Công ty Tài chính
Căn cứ vào hoạt động nghiệp vụ
- Công ty Tài chính bán hàng là loại hình Công ty Tài chính chuyên cho
người tiêu dùng vay để mua hàng hoá từ một nhà bán lẻ hoặc một nhà sản
xuất khác. Các món vay thường được thực hiện nhanh chóng và tiện lợi tại
Trần Thu Hồng 4
nơi mua hàng của người tiêu dùng. Nhờ đó mà Công ty Tài chính bán hàng có
thể cạnh tranh được với các Ngân hàng thương mại trong cho vay tiêu dùng.
- Công ty Tài chính người tiêu dùng là loại hình Công ty Tài chính
chuyên cho người tiêu dùng vay để mua những món hàng riêng như đồ đạc,
dụng cụ gia đình hoặc giúp thanh toán các món nợ nhỏ. Công ty Tài chính

người tiêu dùng thường là Công ty riêng biệt hoặc do các Ngân hàng sở hữu.
- Công ty Tài chính kinh doanh là loại hình Công ty Tài chính chuyên
cung cấp các dạng tín dụng đặc biệt cho doanh nghiệp bằng cách mua các hoá
đơn nợ của doanh nghiệp theo hình thức chiết khấu, việc cung cấp này gọi là
bao thanh toán. Ngoài ra, các Công ty Tài chính kinh doanh cũng chuyên môn
hoá trong việc cho thuê thiết bị, là những tài sản họ mua và sau đó cho các
doanh nghiệp thuê lại trong một số năm.
Căn cứ vào quan hệ sở hữu
- Công ty Tài chính độc lập thực hiện nhiều hoạt động kinh doanh:
nghiệp vụ tín dụng (cho vay, bảo lãnh cho khách hàng thương mại và sản xuất
công nghiệp), các nghiệp vụ cho thuê, nghiệp vụ bao thanh toán, kinh doanh
tiền tệ, tư vấn tài chính.
- Công ty Tài chính trong các tập đoàn kinh doanh tham gia chủ yếu
các hoạt động như tìm kiếm các nguồn đầu tư để cung ứng cho các thành viên
trong tập đoàn; quản lý và đầu tư các nguồn chưa sử dụng trong tập đoàn;
quản lý các nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi; điều hoà vốn giữa các thành viên;
làm đầu mối và tư vần cho tập đoàn, các Công ty thành viên trong quan hệ với
các Ngân hàng; quản lý rủi ro tài chính trong tập đoàn; các dịch vụ tài chính
khác. Ngoài ra còn cung cấp dịch vụ tư vấn tài chính cho các khách hàng bên
ngoài tập đoàn.
Công ty Tài chính trong tập đoàn kinh doanh là một loại hình Công ty
Tài chính rất phổ biến hiện nay. Sự cần thiết của loại hình Công ty Tài chính
này xuất phát từ những đặc trưng của tập đoàn kinh doanh:
Trần Thu Hồng 5
- Thứ nhất, các tập đoàn kinh doanh là những chủ thể kinh tế kinh
doanh quy mô lớn. lĩnh vực hoạt động đa dạng, do đó nhu cầu về vốn rất lớn
và thường xuyên.
- Thứ hai, các tập đoàn thường có nhiều bộ phận, chi nhánh hoạt động
trên nhiều lĩnh vực, do vậy tại một thời điểm nào đó trong nội bộ tập đoàn có
nhiều bộ phận tiền nhàn rỗi, trong khi bộ phận khác đang cần vốn để đáp ứng

nhu cầu đầu tư. Từ đó, xuất hiện nhu cầu về việc điều hoà vốn giữa các bộ
phận trong tập đoàn.
Như vậy, tập đoàn kinh doanh cần có một trung gian tài chính làm kênh
dẫn vốn từ những chủ thể có vốn trong nền kinh tế tới tập đoàn kinh doanh,
đáp ứng nhu cầu về vốn của tập đoàn một cách hiệu quả nhất, đồng thời là
trung gian điều hoà vốn giữa các bộ phận trong tập đoàn. Là một thành viên
trong tập đoàn nên Công ty Tài chính có nhiều lợi thế nhờ hiểu rõ được đặc
tính của tập đoàn, các mối quan hệ trong nội bộ tập đoàn cũng như hiểu rõ
thuận lợi, khó khăn của ngành; có khả năng tiếp cận nguồn thông tin với chi
phí thấp để nắm bắt được hoạt động sản xuất của các thành viên; nhờ đó rút
ngắn được thời gian và chi phí thẩm định so với các tổ chức tín dụng khác. Vì
vậy, Công ty Tài chính là hình thức tổ chức phù hợp và giữ vai trò rất quan
trọng đối với tập đoàn kinh doanh.
Trong quá trình hoạt động, các Công ty Tài chính trong các tập đoàn
phát triển theo hai xu hướng:
- Thứ nhất, phát triển thành một tổ hợp các Công ty Tài chính bao gồm
Công ty mẹ và các Công ty con phần lớn mang họ Công ty mẹ. Công ty mẹ
chi phối Công ty con về tài chính và chiến lược thông qua quyền biểu quyết
do sở hữu một phần khống chế trong tổng cổ phiếu đang lưu hành của Công
ty con.
- Thứ hai, là hình thành các Công ty Tài chính độc lập trực thuộc tập
đoàn, có chức năng giống nhau nhưng kinh doanh trên các khu vực địa lý
Trần Thu Hồng 6
khác nhau, hoặc có chức năng khác nhau nhưng hoạt động trên cùng một địa
bàn.
Trên thế giới, hầu hết các tập đoàn kinh doanh ở mọi quốc gia đa ngành
nghề chuyên doanh như General Motor (Mỹ), Siemens (Đức), Hitachi (Nhật
Bản). SamSung (Hàn Quốc)...đều sở hữu các Công ty Tài chính. Mô hình
Công ty Tài chính trong các tập đoàn kinh doanh lớn trên thế giới đã ra đời từ
rất lâu và gắn liền với việc ra đời và mở rộng của các tập đoàn mẹ. General

Motor Acceptant là thành viên của Tập đoàn General Motor được thành lập
vào năm 1919, Hitachi Capital là Công ty Tài chính của Tập đoàn Hitachi
được thành lập vào 1957. Các Công ty Tài chính của các tập đoàn kinh doanh
trên thế giới ngày càng chiếm vai trò quan trọng đối với tập đoàn không chỉ
vì đem lại lợi nhuận ngày càng lớn mà còn đóng góp cho sự phát triển bền
vững của tập đoàn.
1.1.1.2 Hoạt động cơ bản của Công ty Tài chính
Công ty Tài chính thường có hai hoạt động chính là huy động và cho
vay, ngoài ra còn có một số hoạt động kinh doanh khác. Do hoạt động của
Công ty Tài chính bị bó hẹp và giới hạn ở một số nghiệp vụ nhất định mang
tính chuyên môn nên không những loại hình cho vay của Công ty Tài chính
đã luôn có sự thay đổi mà cách thức huy động vốn để cho vay cũng đã chuyển
hướng. Các Công ty Tài chính không được nhận tiền gửi có kỳ hạn dưới một
năm, đồng thời không được thực hiện nghiệp vụ thanh toán. Hoạt động huy
động vốn của Công ty Tài chính chủ yếu thực hiện thông qua việc huy động
tiền gửi có kỳ hạn và phát hành các chứng khoán nợ hay vay của các Ngân
hàng và các tổ chức tín dụng khác. Vì thế nên lượng vốn mà các Công ty Tài
chính huy động được chủ yếu phụ thuộc vào các định chế tài chính khác. Vốn
huy động được sử dụng để cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn đối với các đối
tượng sản xuất hoặc tiêu dùng, thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán hoặc thuê
mua.
Như vậy, hoạt động cơ bản của một Công ty Tài chính bao gồm:
Trần Thu Hồng 7
• Hoạt động huy động vốn
- Công ty Tài chính được nhận tiền gửi có kỳ hạn của các cá nhân và
các tổ chức kinh tế;
- Phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các giấy tờ có
giá khác để huy động vốn của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước;
- Vay các tổ chức tài chính trong và ngoài nước như các Ngân hàng
thương mại, các trung gian tài chính khác nhưng không được phép vay Ngân

hàng Nhà nước như các Ngân hàng thương mại khác;
- Tiếp nhận vốn uỷ thác của chính phủ, của tổ chức và cá nhân trong và
ngoài nước, bao gồm cả vốn uỷ thác của tập đoàn nếu Công ty Tài chính đó
thuộc tập đoàn;
- Ngoài ra, Công ty Tài chính thuộc tập đoàn có thể huy động vốn từ
tập đoàn. Các tập đoàn có thể cho vay bằng chính vốn tự có của tập đoàn hoặc
dựa vào uy tín và lợi thế của mình, các tập đoàn đứng ra phát hành trái phiếu
để huy động vốn rồi chuyển cho các Công ty Tài chính vay.
• Hoạt động sử dụng vốn
- Cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn đối với các cá nhân và tổ chức
kinh tế;
- Cho vay theo uỷ thác của chính phủ và các tổ chức, cá nhân trong và
ngoài nước;
- Đầu tư chứng khoán, bao thanh toán;tài trợ và đồng tài trợ các dự án;
- Đầu tư vào các dự án phát triển, tái thiết các doanh nghiệp, ngành
kinh tế kỹ thuật, các công trình tạo ra sản phẩm chất lượng cao, giá trị lớn và
mang lợi ích quốc gia, quốc tế và các công trình bảo vệ, duy trì và phát triển
môi trường sinh thái quốc gia và khu vực.
• Cung cấp các dịch vụ ngân hàng
Công ty Tài chính thực hiện tất cả các loại dịch vụ ngân hàng trừ việc
phát hành hoặc cho khách hàng sử dụng các phương tiện thanh toán như tiền,
Trần Thu Hồng 8
thẻ tín dụng, ngân phiếu và thanh toán vãng lai, thanh toán bù trừ liên ngân
hàng.
1.1.2 Huy động vốn của Công ty Tài chính
1.1.2.1 Sự cần thiết của việc huy động vốn đối với các Công ty Tài chính
Công ty Tài chính là một trung gian tài chính, là kênh dẫn vốn quan
trọng cho nền kinh tế, có nhiệm vụ dẫn vốn từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn.
Nguồn vốn của Công ty đóng vai trò quan trọng không chỉ trong hoạt động
kinh doanh của Công ty nói riêng mà còn trong quá trình phát triển của nền

kinh tế nói chung.
- Vốn là nền tảng để Công ty Tài chính thực hiện hoạt động kinh doanh
Vốn là điều kiện tiên quyết để các doanh nghiệp duy trì và phát triển
sản xuất kinh doanh, đồng thời là cơ sở để phân phối và đánh giá hiệu quả của
các hoạt động kinh tế vầ mặt pháp lý, mỗi doanh nghiệp khi thành lập phải có
một lượng vốn nhất định lớn hơn mức vốn pháp định do Nhà nước quy định.
Điều đó cho thấy vốn đảm bảo sự hình thành và tồn tại của doanh nghiệp
trước pháp luật.
Đối với Công ty Tài chính, vốn còn là cơ sở nền tảng để điều hành tổ
chức mọi hoạt động kinh doanh. Thật vậy, với đặc trưng của Công ty Tài
chính là tổ chức kinh doanh loại hàng hoá đặc biệt trên thị trường tiền tệ và
thị trường vốn thì vốn không chỉ là phương tiện kinh doanh mà nó còn là đối
tượng kinh doanh chính của Công ty Tài chính, trực tiếp quyết định tới quy
mô hoạt động của Công ty Tài chính. Như vậy, các Công ty Tài chính duy trì
được lượng vốn lớn sẽ có nhiều thế mạnh trong kinh doanh, ngược lại những
Công ty Tài chính không có hoặc có ít vốn đồng nghĩa với việc gặp khó khăn
khi tiến hành kinh doanh.
- Vốn quyết định quy mô hoạt động của Công ty Tài chính
Những Công ty có quy mô lớn thường có những khoản mục đầu tư
hoặc cho vay đa dạng hơn rất nhiều so với những Công ty có quy mô vốn nhỏ,
Trần Thu Hồng 9
phạm vi và khối lượng cho vay của các Công ty Tài chính này cũng lơn hơn.
Hơn nữa, do lượng vốn hạn hẹp nên các Công ty Tài chính nhỏ sẽ không phản
ứng nhanh nhạy trược những biến động về lãi suất thị trường, từ đó tác động
đến khả năng huy động từ các tầng lớp dân cư và các thành phần kinh tế. Vì
vậy, khi khả năng huy động vốn của Công ty Tài chính dồi dào thì chắc chắn
Công ty Tài chính sẽ mở rộng và đáp ứng đuợc nhu cầu vay vốn, có điều kiện
để mở rộng thị trường tín dụng, tăng khả năng thanh toán và dịch vụ Công ty
Tài chính.
- Vốn đảm bảo khả năng thanh toán và uy tín của Công ty Tài chính

Trong hoạt động của Công ty Tài chính, uy tín có thể nói là yếu tố quan
trọng, quyết định trực tiếp đến sự sống còn của Công ty Tài chính. Uy tín của
Công ty Tài chính trong kinh doanh được thể hiện trước hết ở khả năng sẵn
sàng thanh toán chi trả cho khách hàng. Khả năng thanh toán chi trả của Công
ty Tài chính càng cao thì uy tín cũng như vốn khả dụng của Công ty Tài chính
càng lớn. Nói cách khác, khả năng thanh toán của Công ty Tài chính tỷ lệ
thuận với lượng vốn của Công ty Tài chính nói chung và lượng vốn khả dụng
vói riêng.
Như vậy, với khả năng cung ứng vốn lớn, các Công ty Tài chính có thể
tiến hành hoạt động kinh doanh với quy mô ngày càng mở rộng, cạnh tranh có
hiệu quả nhưng đồng thời lại giữ được chữ tín và nâng cao danh tiếng của
Công ty Tài chính.
- Vốn quyết định quy mô khả năng cạnh tranh Công ty Tài chính
Những Công ty Tài chính có quy mô lớn, trình độ nghiệp vụ của đội
ngũ nhân viên cao cũng như trang thiết bị phượng tiện kỹ thuật hiện đại là
tiền đề quan trọng cho việc hút vốn. Đồng thời, khả năng vốn lớn lại là điều
kiện thuận lợi đối với Công ty Tài chính trong việc mở rộng quan hệ tín dụng
với các Ngân hàng và các tổ chức kinh tế xã hội trong nền kinh tế. Khi đó,
Công ty Tài chính sẽ thu hút được ngày càng nhiều khách hàng đến với mình,
kết quả là doanh số hoạt động của Công ty sẽ tăng lên nhanh chóng và Công
Trần Thu Hồng 10
ty Tài chính sẽ có nhiều thuận lợi hơn trong kinh doanh. Mặt khác, vốn lớn sẽ
giúp cho Công ty Tài chính có đủ khả năng tài chính để kinh doanh đa dạng
trên thị trường, mở rộng các lĩnh vực kinh doanh như: kinh doanh chứng
khoán, kinh doanh dịch vụ thuê mua... chứ không chỉ dừng lại ở dịch vụ cho
vay đơn thuần. Thêm vào đó, chính các hình thức kinh doanh đa dạng đã góp
phần phân tán rủi ro, tạo thêm vốn cũng như tăng sức cạnh tranh cho Công ty
Tài chính trên thị trường.
Do đó, có thể thấy vốn là yếu tố quan trọng đối với doanh nghiệp nói
chung và các Công ty Tài chính nói riêng, nếu sử dụng hiệu quả và hợp lý thì

Công ty sẽ tồn tại và ngày càng phát triển.
1.1.2.2 Các hình thức huy động vốn
Vốn của Công ty Tài chính bao gồm vốn chủ sở hữu và nợ, do đó huy
động vốn của Công ty Tài chính bao gồm huy động vốn chủ sở hữu và huy
động nợ.
• Huy động vốn chủ sở hữu
Để bắt đầu hoạt động, Công ty Tài chính phải có một lượng vốn nhất
định. Đây là loại vốn Công ty Tài chính có thể sử dụng lâu dài, được dùng
phần lớn cho việc mua sắm trang thiết bị, nhà cửa cho Công ty. Hình thức huy
động này rất đa dạng tuỳ theo tích chất sở hữu và năng lực tài chính của Công
ty.
Huy động vốn góp ban đầu
Tuỳ theo tính chất của mồi Công ty Tài chính mà nguồn gốc hình thành
vốn ban đầu khác nhau. Nếu là Công ty Tài chính Nhà nước, vốn ban đầu do
Nhà nước cấp (vốn của Nhà nước). Nếu là Công ty Tài chính Cổ phần, vốn sẽ
do các cổ đông đóng góp thống qua việc mua cổ phần. Đối với Công ty Tài
chính liên doanh vốn do các bên liên doanh góp. Công ty Tài chính trực thuộc
các tổ chức tín dụng thì vốn góp ban đầu là vốn góp của tổ chức tín dụng
thành lập ra Công ty Tài chính; tỷ lệ và quy mô vốn góp của các bên tham gia
Trần Thu Hồng 11
Công ty phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như: quy định của pháp luật,
cơ cấu liên doanh...
Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động
Trong quá trình hoạt động, Công ty Tài chính có thể tăng vốn chủ sở
hữu theo nhiều phương thức khác nhau tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể, bao
gồm:
- Nguồn bổ sung từ phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm... để
mở rộng quy mô hoạt động, hoặc để đổi mới trang thiết bị hoặc để đáp ứng
yêu cầu gia tăng vốn của chủ sở hữu do Ngân hàng nhà nước quy định. Đặc
điểm của hình thức huy động này là không thường xuyên, truy nhiên nó giúp

Công ty Tài chính có được lượng vốn sở hữu lớn vào lúc cần thiết.
- Nguồn từ lợi nhuận không chia: trong điều kiện thu nhập sau thuế lớn
hơn không, Công ty Tài chính có xu hướng gia tăng vốn chủ sở hữu bằng
cách chuyển một phần thu nhập sau thuế thành vốn chủ sở hữu, tỷ lệ tích luỹ
tuỳ thuộc vào cân nhắc của chính Công ty Tài chính về tích luỹ và tiêu dùng.
Các quỹ
Công ty Tài chính có nhiều quỹ khác nhau, mỗi quỹ có mục đích sử
dụng khác nhau. Quỹ dự phòng tổn thất được trích lập hàng năm và được tích
luỹ lại nhằm bù đắp những tổn thất xẩy ra. Quỹ bảo toàn vốn nhằm bù đắp
hao mòn của vốn đối với tác động của lạm phát. Quỹ thặng dư là phần đánh
giá lại tài sản của Công ty Tài chính và chênh lệch giữa thị giá và mệnh giá
của cổ phiếu khi phát hành cổ phiếu mới. Tuỳ theo quy định cụ thể của từng
nước, các Công ty Tài chính có thể có thêm quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng,
quỹ giám đốc...
Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần
Các khoản vay trung và dài hạn của Công ty Tài chính mà có khả năng
chuyển đổi thành vốn cổ phần có thể được coi là một bộ phận của vốn chủ sở
hữu của Công ty Tài chính (vốn bổ sung) do nguồn này có một số đặc điểm
Trần Thu Hồng 12
sử dụng lâu dài, có thể đầu tư vào nhà cửa, đất đai và có thể không phải hoàn
trả khi đến hạn.
• Huy động nợ
Công ty Tài chính có thể sử dụng các công cụ huy động nợ khác nhau
nhưng nhìn chung vẫn tập trung chủ yếu vào các hình thức sau:
Nhận tiền gửi và làm đại lý bảo hiểm
Các Công ty Tài chính được nhậ tiền gửi của các tổ chức và các nhân
trong nền kinh tế. Cùng với xu thế đa dạng hoá hoạt động, Công ty Tài chính
còn thực hiện dịch vụ bảo hiểm. Dịch vụ bảo hiểm giúp Công ty Tài chính
huy động được một lượng vốn rất lớn từ phí bảo hiểm và khoản phí này trong
thời gian nhàn rỗi sẽ là nguồn vốn quan trọng đối với Công ty.

Vay trực tiếp các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước
Công ty Tài chính có thể vay vốn trực tiếp từ các cá nhân và tổ chức
nếu có nhu cầu. Nguồn vốn này có thể là nguồn ngắn hạn, trung hoặc dài hạn.
Việc vay mượn có thể diến ra trong ngắn hạn để phục vụ nhu cầu thanh toán
nhanh như vay trên thị trường liên Ngân hàng hoặc vay từ các trung gian tài
chính khác để tài trợ cho các dự án. Các Công ty Tài chính trong tập đoàn chủ
yếu vay trực tiếp từ Công ty mẹ và các thành viên trong tập đoàn với lãi suất
ưu đãi.
Phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các loại giấy tờ có
giá khác
Trái phiếu là tên chung của các giấy vay nợ trung và dài hạn, là một
công cụ nợ mà người phát hành đảm bảo sẽ chi trả cho người thụ hưởng một
khoản tiền nhất định sau một khoảng thời gian xác định. Có rất nhiều loại trái
phiếu đang lưư hành trên thị trường tài chính mà Công ty Tài chính có thể
phát hành như trái phiếu có lãi suất cố định, trái phiếu có lãi suất thay đổi, trái
phiếu có thể thu hồi, trái phiếu công trình... Tuy nhiên sự hấp dẫn của các trái
phiếu lại phụ thuộc vào các yếu tố sau:
Trần Thu Hồng 13
- Lãi suất trái phiếu: Nhà đầu tư luôn muốn hưởng một mức lãi suất cao
nhưng các nhà phát hành phải cân nhắc kỹ mức lãi suất có thể chấp nhận
được.
- Kỳ hạn của trái phiếu: tuỳ từng thời kỳ phát triển của nền kinh tế và
tâm lý của nhà đầu tư mà trái phiếu với kỳ hạn khác nhau được ưa thích khác
nhau. Kỳ hạn trái phiếu càng dài thì rủi ro càng cao những lãi suất để bù đắp
rủi ro cũng càng cao.
- Uy tín của Công ty phát hành trái phiếu: Công ty có uy tín càng cao
thì dễ dàng phát hành trái phiếu ra công chúng.
Tiếp nhận vốn uỷ thác đầu tư của chính phủ và các tổ chức cá nhân
Uỷ thác là việc Công ty Tài chính nhận quản lý một lượng vốn cho một
đơn vị kinh tế khác. Công ty Tài chính có quyền sử dụng nhưng không có

quyền sở hữu lượng vốn này. Lợi nhuận thu từ việc sử dụng, đầu tư trên
lượng vốn đó sẽ được trích một phần gọi là phí uỷ thác cho Công ty. Có nhiều
hình thức uỷ thác như uỷ thác đầu tư, uỷ thác quản lý tài sản, uỷ thác sử dụng
vốn. Hiện nay, nguồn uỷ thác của Công ty Tài chính chủ yếu là uỷ thác đầu
tư.
Công ty Tài chính trong tập đoàn ở vị trí người được uỷ thác lẫn người
uỷ thác. Các tổ chức uỷ thác cho Công ty Tài chính chủ yếu là Công ty mẹ,
các đơn vị thành viên và các trung gian tài chính khác. Công ty mẹ thường
thông qua việc uỷ thác vốn cho Công ty Tài chính để hỗ trợ vốn đầu tư, phát
triển cho các thành viên. Mục đích thành lập của Công ty Tài chính chủ yếu là
huy động vốn, hỗ trợ các đơn vị trong Tổng Công ty và đơn vị cùng ngành
kinh tế kỹ thuật nên Công ty Tài chính có lợi thế về việc nắm bắt thông tin,
nghiệp vụ chuyên môn trong ngành, dẫn đến việc thẩm định các dự án tín
dụng chính xác hơn, mối quan hệ với khách hàng chặt chẽ hơn. Do đó, các
trung gian tài chính khác muốn đầu tư vào một dự án trong ngành sẽ uỷ thác
cho Công ty Tài chính nhằm hạn chế rủi ro.
Trần Thu Hồng 14
1.2 Hiệu quả huy động vốn của Công ty Tài chính
1.2.1 Quan điểm về hiệu quả huy động vốn
Hoạt động của Công ty Tài chính rất nhạy cảm đối với nền kinh tế. Bất
kỳ một biến động kinh tế, chính trị, xã hội nào cũng ngay lập tức gây ảnh
hưởng đến hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động huy động vốn nói
riêng của Công ty Tài chính và đòi hỏi Công ty phải có những điều chỉnh về
mặt cơ cấu. Do vậy, hiệu quả của việc huy động vốn không chỉ dừng lại ở
việc đánh giá chính xác đúng đắn hoạt động huy động vốn của Công ty Tài
chính mà còn là khả năng thích nghi và khẳng định sự phát triển của mình
trên thị trường.
Hoạt động huy động vốn của Công ty Tài chính được thực hiện để đáp
ứng cho hoạt động của Công ty Tài chính nói chung và cho nhu cầu đầu tư
vốn của Công ty Tài chính nói riêng. Vì vậy, hiệu quả huy động vốn của

Công ty Tài chính được thể hiện ở khả năng đáp ứng cao nhất nhu cầu cho
hoạt động của Công ty Tài chính. Khả năng đó được thể hiện thông qua sự
đáp ứng kịp thời, đầy đủ nhu cầu đầu tư vốn. Đây chính là yếu tố đầu tiên
quan trọng nhất để đánh giá hiệu quả huy động vốn của Công ty Tài chính.
Bên cạnh khả năng đáp ứng kịp thời nhu cầu đầu tư vốn thì hiệu qủa huy động
vốn còn được thể hiện thông qua chất lượng của các nguồn vốn huy động.
Chất lượng của các nguồn vốn huy động của Công ty Tài chính được thể hiện
ở cơ cấu vốn hợp lý, an toàn và chi phí vốn đảm bảo khả năng sinh lời của
Công ty. Ngoài ra, hiệu quả huy động vốn của Công ty Tài chính còn thể hiện
ở sự ổn định của lượng vốn huy động được. Điều đó có ý nghĩa rất quan
trọng, nó giúp cho hoạt động của Công ty Tài chính luôn được an toàn và đạt
hiệu quả.
Như vậy, hiệu quả huy động vốn của Công ty Tài chính là khả năng
đáp ứng nhu cầu đầu tư vốn của Công ty Tài chính với một cơ cấu hợp lý, an
toàn, ổn định cùng với chi phí vốn phù hợp với khả năng sinh lời của Công ty.
Trần Thu Hồng 15
Vậy, để đánh giá một cách chính xác hiệu quả hoạt động huy động vốn
của Công ty Tài chính cần dựa trên các tiêu chí cơ bản sau:
- Khả năng đáp ứng nhu cầu về vốn
- Cơ cấu vốn hợp lý và an toàn
- Chi phí vốn hợp lý
- Sự ổn định của các hình thức huy động vốn.
1.2.2 Các tiêu chí đánh giá hiệu quả huy động vốn
1.2.2.1 Khả năng đáp ứng nhu cầu về vốn
Nhu cầu về vốn của doanh nghiệp có thể là nhu cầu ngắn hạn như nhu
cầu thanh toán, hay nhu cầu dài hạn như đầu tư, cho vay vào các dự án dài
hạn. Đây là một chỉ tiêu khó tính toán cụ thể mà dựa trên so sánh giữa nhu
cầu vốn và tổng lượng vốn huy động được.
Nhu cầu về cốn của Công ty Tài chính có thể tính toán, dự đoán nhưng
khó chính xác tuyệt đối so có những nhu cầu nảy sinh tức thời. Do đó, việc

huy động không chỉ thể hiện ở việc đáp ứng nhu cầu sự tính trước mà còn thể
hiện ở khả năng đáp ứng linh hoạt các nhu cầu tức thời trong ngắn hạn.
Có các nhu cầu về vốn sau mà Công ty Tài chính cần đáp ứng:
- Nhu cầu về dự trữ, thanh toán: tuỳ vào từng giai đoạn mà các Công ty
Tài chính cần tính toán mức ngân quỹ tối ưu nhằm đảm bảo khả năng thanh
toán tức thời hoặc đảm bảo tỷ lệ dự trữ theo quy định của pháp luật.
- Nhu cầu cho hoạt động kinh doanh: Mọi Công ty Tài chính muốn
thực hiện hoạt động kinh doanh của mình thì đều cần phải có vốn. Nhu cầu
vay vốn của khách hàng, nhu cầu liên doanh, nhu cầu đầu tư... sẽ không thể
đáp ứng được nếu như Công ty Tài chính không có đủ vốn. Đây chính là nhu
cầu quan trọng nhất mà Công ty Tài chính cần phải đáp ứng.
- Các nhu cầu khác như nhu cầu mua sắm, nâng cấp tài sản cố định...
Mọi hoạt động về mua sắm, sửa chữa, nâng cấp tài sản cố định hay mở rộng
hoạt động kinh doanh của Công ty Tài chính đều dẫn đến nhu cầu về vốn.
Trần Thu Hồng 16
Chỉ tiêu này được đánh giá thông qua việc so sánh nguồn vốn huy động
được với các nhu cầu tín dụng, thanh toán, và các nhu cầu khác để thấy được
nguồn vốn mà Công ty Tài chính huy động được có thể đáp ứng được bao
nhiêu, và sẽ phải huy động thêm bao nhiêu để đáp ứng nhu cầu ấy.
Để đạt được mục tiêu này, Công ty Tài chính phải xây dựng được một
kế hoạch huy động vốn hợp lý bao gồm các loại vốn ngắn hạn, trung và dài
hạn đáp ứng tối đa nhu cầu sử dụng vốn, tránh tình trạng bất hợp lý giữa vốn
huy động với nhu cầu sử dụng vốn. Bên cạnh đó, Công ty Tài chính cũng cần
xem xét tỷ lệ dự trữ thanh toán và việc nắm giữ tài sản có tính lỏng cao để đáp
ứng kịp thời nhu cầu nguồn vốn trong ngắn hạn.
1.2.2.2 Cơ cấu vốn hợp lý
Nói đến cơ cấu vốn tức là đề cập đến tỷ lệ giữa nợ và vốn chủ sở hữu
mà một Công ty Tài chính đang sử dụng. Một cơ cấu vốn tối ưu cần đạt được
cân bằng giữa rủi ro và lợi nhuận. Do vậy, muốn đánh giá xem hoạt động huy
động vốn là hiệu quả và hợp lý không, cần phải xem xét đến cơ cấu vốn của

Công ty Tài chính đem lại từ việc huy động vốn. Một trong những mục tiêu
quan trọng của việc huy động là nhằm hình thành lên cơ cấu vốn tối ưu cho
Công ty trong từng thời điểm cụ thể. Giữa sự hợp lý của cơ cấu vốn và việc
huy động vốn còn có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau: cơ cấu vốn sẽ
góp phần quyết định đến hoạt động huy động vốn và ngược lại hoạt động huy
động vốn sẽ hình thành nên cơ cấu vốn.
Ngày nay, các Công ty Tài chính không còn chịu hoạt động bó hẹp
trong phạm vi một vùng nào đó mà luôn cố gắng mở rộng mạng lưới hoạt
động kinh doanh của mình thông qua việc mở rộng chi nhánh, văn phòng đại
diện trong và ngoài nước. Kết quả là mối quan hệ hợp tác kinh doanh giữa
Công ty Tài chính và các tổ chức kinh tế khác ngày càng được tăng cường
chặt chẽ hơn. Điều này giúp Công ty hoạt động hiệu quả hơn, nhưng mặt khác
cũng sẽ nguy hiểm hơn nếu như một trong những đối tác kinh doanh của
Công ty hoạt động yếu kém thậm chí là phá sản. Vì vậy, rủi ro trong hoạt
Trần Thu Hồng 17
động kinh doanh nói chung và hoạt động huy động vốn của Công ty Tài chính
nói riêng cũng tăng lên theo mức độ phát triển về mặt tổ chức và quy mô hoạt
động kinh doanh. Như vậy việc đảm bảo một cơ cấu vốn hợp lý, tối ưu không
chỉ giúp đảm bảo an toàn cho chính bản thân Công ty Tài chính mà còn củng
cố vững chắc chung cho toàn hệ thống tài chính quốc gia.
Để xây dựng một cơ cấu vốn hợp lý, nói cách khác là đảm bảo an toàn
nguồn vốn, trước hết Công ty Tài chính cần có một chính sách quản lý điều
hành đúng đắn, phù hợp, thông qua việc chấp hành đầy đủ các tiêu chí về an
toàn vốn như: Hệ số an toàn của vốn tự có, hệ số giữa vốn chủ sở hữu và các
vốn dài hạn, hệ số thanh toán...
Hệ số giữa vốn chủ sở hữu và vốn dài hạn = VCSH / Vốn dài hạn
Hệ số an toàn của vốn tự có = Vốn tự có / Tổng số vốn huy động
Theo quy định của pháp luật ở Việt Nam hiện nay, hệ số an toàn của
vốn tự có của các Công ty Tài chính phải đạt mức tối thiểu là 5%.
Việc có áp dụng triệt để những chỉ tiêu trên hay không còn tuỳ thuộc

vào quy định của Ngân hàng Nhà nước, chiến lược kinh doanh và đặc điểm
riêng của từng Công ty Tài chính trong điều kiện cụ thể nhất định.
1.2.2.3 Chi phí vốn hợp lý
Chi phí vốn nói chung được hiểu là chi phí cơ hội của việc sử dụng
vốn, phân chia theo nợ và vốn chủ sở hữu thì bao gồm có chi phí của nợ và
chi phí của vốn chủ sở hữu.
Chi phí của vốn chủ sở hữu coi bằng lợi nhuận kỳ vọng của chủ sở hữu
trên khoản đầu tư. Có ba cách để xác định mức lợi nhuận kỳ vọng này là
phưong pháp CAPM, phương pháp luồng tiền chiết khấu và phương pháp lấy
lãi suất trái phiếu cộng phần bù rủi ro. Chi phí vốn chủ có thể xác định dễ
dàng hơn nếu như có một thị trường tài chính phát triển với đầy đủ thông tin
và công cụ. Còn đối với những nước có thị trường tài chính chưa phát triển
như Việt Nam thì chi phí vốn chủ chưa mấy được quan tâm cũng như tìm hiểu
Trần Thu Hồng 18
cặn kẽ. Thông thường, ta dùng chỉ tiêu chi phí huy động vốn bình quân để
đánh giá chỉ tiêu này:
CPHĐVBQ = (1 - t) * Chi phí nợ * Tỷ trọng nợ + Chi phí VCSH *
Tỷ trọng VCSH
Như vậy, chỉ tiêu chi phí vốn dùng để đánh giá hiệu quả của việc huy
động vốn là phải có chi phí thấp và hợp lý. Việc xác định nguồn vốn có chi
phí thấp và hợp lý hết sức quan trọng đối với hoạt động huy động vốn của
Công ty Tài chính, chi phí vốn hợp lý phải đảm bảo hoạt động sử dụng vốn
đem lại lợi nhuận đủ để bù đắp chi phí, đảm bảo hoạt động của Công ty, đồng
thời đem lại lợi nhuận cao nhất cho Công ty.
Như vậy, chi phí vốn là hoạt động thường xuyên và quan trọng của
mỗi Công ty Tài chính vì mỗi sự thay đổi về cơ cấu nguồn vốn hay lãi suất
đều có thể làm thay đổi chi phí trả lãi, từ đó làm ảnh hưởng đến lợi nhuận sau
thuế của Công ty Tài chính.
1.2.2.4 Sự ổn định của các hình thức huy động vốn
Một hình thức huy động vốn được đánh giá là tốt ngoài những yếu tố

đáp ứng nhu cầu với chi phí thấp thì cần phải có sự ổn định, tức là không có
sự thay đổi đột ngột trong thời gian sử dụng. Nếu vốn huy động được thay đổi
đột ngột, khó dự đoán sẽ ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của Công ty.
Ví dụ như nguồn tiền gửi thường xuyên thay đổi do khách hàng lớn rút tiền
đột ngột sẽ dẫn tới làm áp lực thanh toán cho ngân quỹ, đồng thời ảnh hưởng
tới hoạt động sử dụng vốn. Hay việc người góp vốn đòi rút vốn đột ngột sẽ
làm suy giảm tiềm lực tài chính của Công ty. Hơn nữa, việc nguồn vốn thay
đổi đột ngột sẽ làm tăng chi phí của Công ty trong việc tìm kiếm các nguồn
vốn khác để bù đắp.
Thông thường các nguồn vốn huy động đều có thể tính trước được thời
gian sử dụng như nguồn tiền gửi có kỳ hạn, nguồn phát hành có thời gian xác
định, hay nguồn đi vay cũng có thời hạn vay. Bên cạnh đó, có những nguồn
có thời gian gắn liền với thời gian hoạt động của Công ty như phát hành cổ
Trần Thu Hồng 19
phiếu, lợi nhuận giữ lại. Mỗi nguồn có đặc điểm riêng về sự ổn định và phụ
thuộc vào rất nhiều yếu tố. Bởi vậy, Công ty cần tính đến sự ổn định của các
nguồn trên cơ sở phân tích nhiều mặt để có những lựa chọn cho phù hợp.
Vốn huy động của Công ty Tài chính phải có sự tăng trưởng ổn định về
số lượng để thoả mãn nhu cầu tín dụng, cũng như các hoạt động kinh doanh
khcá ngày càng tăng của Công ty. Tuy nhiên, vốn huy động được phải luôn ổn
định về mặt thời gian. Nếu Công ty Tài chính huy động được một lượng vốn
lớn nhưng không ổn định, thường xuyên có những dòng tiền lớn bị rút ra thì
lượng vốn dành cho đầu tư, cho vay sẽ không lớn, do đó hiệu quả của việc
huy động vốn sẽ không cao, thường xuyên phải đối mặt với vấn đề thanh
khoản. Kết quả là trong nhiều trường hợp Công ty Tài chính sẽ gặp phải rủi ro
lớn là mất khách hàng. Ngược lại, nếu vốn huy động được ổn định, dù không
nhiều nhưng Công ty vẫn có thể yên tâm sử dụng vào các hoạt động chắc
chắn, lâu dài và thu được lợi nhuận cao.
Chỉ tiêu này được đánh giá thông qua: mức độ tăng giảm nguồn vốn
huy động và số lượng vốn huy động có kỳ hạn. Nếu nguồn vốn tăng lên đều

qua các năm, có tốc độ gia tăng của từng thành phần vốn huy động ổn định,
đều đặn thì nguồn vốn huy động đó được coi là nguồn vốn tăng trưởng ổn
định.
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả huy động vốn của Công ty Tài
chính
1.3.1 Nhân tố chủ quan
1.3.1.1 Chính sách huy động vốn của Công ty
Chính sách huy động vốn của Công ty Tài chính sẽ ảnh hưởng quyết
định đến hiệu quả huy động vốn của Công ty, nó quyết định số lượng vốn và
cơ cấu vốn huy động. Số lượng vốn phải đáp ứng nhu cầu cho vay, đầu tư của
Công ty còn cơ cấu vốn phải đạt mục tiêu cân bằng giữa rủi ro và lợi nhuận
đạt được. Như vậy, nếu Công ty có chính sách huy động vốn phù hợp về số
Trần Thu Hồng 20
lượng và cơ cấu vốn thì hiệu quả huy động vốn sẽ đạt được. Do chính sách
huy động vốn tác động đến hiệu quả huy động vốn của Công ty nên nhân tố
ảnh hưởng tới chính sách huy động vốn cũng ảnh hưởng đến hiệu quả của
việc huy động vốn, đó là các nhân tố:
- Thứ nhất, là nhu cầu vốn của Công ty trong từng thời kỳ, không chỉ
phục vụ cho hoạt động đầu tư, tín dụng mà có thể còn cho nhu cầu điều hoà
vốn nội bộ trong Công ty. Với thời kỳ thanh toán và đầu tư nhiều, Công ty Tài
chính sẽ cần huy động một lượng vốn lớn, do đó Công ty cần có chính sách
phù hợp để huy động đủ số vốn cần để vừa đảm bảo khả năng thanh khoản lẫn
khả năng sinh lời.
- Thứ hai, quan điểm của bản thân các nhà quản lý Công ty có sự ưa
thích nợ hay vốn chủ trong việc huy động vốn, quan điểm này dẫn đến những
quyết định trong chiến lược huy động vốn của doanh nghiệp. Điều đó cũng
gây ảnh hưởng đến hiệu quả của việc huy động vốn.
- Thứ ba, rủi ro kinh doanh: Rủi ro kinh doanh càng lớn thì tỷ lệ sử
dụng nợ càng thấp, doanh nghiệp sẽ ít huy động nợ bằng các công cụ nợ.
- Thứ tư, chính sách thuế và các chính sách tín dụng khác. Chính sách

thuế sẽ ảnh hưởng đến chi phí huy động vốn bình quân thông qua tiết kiệm
nhờ thuế. Nếu thuế cao thì chi phí vốn bình quân thấp, khuyến khích các
doanh nghiệp sử dụng nợ. Từ đó, nghiệp vụ huy động vốn sẽ thay đổi theo
hướng huy động nguồn như đi vay, phát hành trái phiếu... Còn chính sách tín
dụng khác cũng tác động trực tiếp lên từng loại hình huy động vốn. Như hình
thức huy động vốn uỷ thác đầu tư. Trước đây, Chính phủ có quy định tổ chức
nhận uỷ thác phải nhận trách nhiệm khi dự án xảy ra rủi ro, còn hiện nay, tổ
chức uỷ thác lại phải chịu trách nhiệm khi dự án xảy ra rủi ro. Chính vì vậy,
lượng vốn uỷ thác đầu tư sẽ được giảm dần. Tổ chức tín dụng có vốn để uỷ
thác tự đầu tư thay vì uỷ thác cho một tổ chức tín dụng khác.
Trần Thu Hồng 21
1.3.1.2 Hiệu quả cho vay và đầu tư của Công ty
Hiệu quả cho vay, đầu tư có ảnh hưởng trực tíêp đến hiệu quả của việc
huy động vốn. Nếu hoạt động cho vay, đầu tư của Công ty được thực hiện tốt,
đồng nghĩa với việc vốn huy động sẽ được sử dụng có hiệu quả. Việc sử dụng
vốn huy động có hiệu quả sẽ tạo ra nhu cầu về việc sử dụng vốn, từ đó tạo
động lực thúc đẩy việc nâng cao hiệu quả huy động vốn. Ngược lại, nếu hoạt
động cho vay, đầu tư của Công ty hoạt động không có hiệu quả sẽ dẫn đến
nguồn vốn huy động không được sử dụng có hiệu quả. Như vậy sẽ tác động
đến hoạt động huy động vốn, làm giảm hiệu quả huy động vốn của Công ty.
Vậy, hiệu quả của hoạt động cho vay và đầu tư sẽ tác động trực tiếp tới
hiệu qủa huy động vốn cảu Công ty. Để hoạt động huy động vốn đạt được
hiệu quả thì việc sử dụng vốn cũng cần phải có hiệu quả nhất định.
1.3.1.3 Tình hình tài chính của Công ty
Tình hình tài chính của Công ty cũng có tác động trực tiếp đến hiệu quả
của việc huy động vốn. Tình hình tài chính của Công ty tốt hay yếu kém đều
ảnh hưởng đến hiệu quả huy động vốn. Các nhà cung ứng vốn luôn muốn
tăng cường tài trợ cho những doanh nghiệp với tình hình tài chính lành mạnh.
Vì vậy, nếu tình hình tài chính của Công ty yếu kém, khả năng thanh toán của
Công ty thấp thì Công ty khó có thể huy động thêm vốn từ các tổ chức cá

nhân trong nền kinh tế. Ngược lại, nếu Công ty đang có tình hình tài chính tốt
sẽ có điều kiện thuận lợi để huy động thêm vốn. Từ đó, nâng cao thêm được
hiệu quả của việc huy động vốn.
Tình hình tài chính chúng ta đề cập đến ở đây còn bao gồm cả nhu cầu
về vốn của Công ty. Việc đánh giá tình hình tài chính của Công ty được thực
hiện thông qua việc xác định các tỷ số: tỷ số doanh lợi tài sản (ROA), doanh
lợi của vốn chủ sở (ROE). Cách xác định ROE, ROA như sau:
ROA = Lợi nhuận sau thuế / Tổng Tài sản
ROE = Lợi nhuận sau thuế / Vốn chủ sở hữu
Trần Thu Hồng 22
Tình hình tài chính khả quan, các tỷ số này cao đủ bù chi phí nợ sẽ dẫn
đến xu hướng sử dụng nợ nhiều hơn của Công ty, như vậy hiệu quả vốn sẽ
được tăng cường.
1.3.1.4 Trình độ cán bộ và tổ chức quản lý của Công ty
Nhân tố này tuy không ảnh hưởng trực tiếp tới công tác huy động vốn
nhưng lại có vai trò rất quan trọng, nó thường biểu hiện thông qua trình độ,
thái độ phục vụ của cán bộ nhân viên trong Công ty. Một Công ty Tài chính
có hệ thống cán bộ nhân viên có thái độ phục vụ vui vẻ, lịch sự, chu đáo đối
với khách hàng đến giao dịch, tác phong làm việc nhanh nhẹn chuyên môn
nghiệp vụ vững vàng sẽ gây được ấn tượng tốt với khách hàng. Đây là một
điểm mạnh của mỗi Công ty Tài chính giúp Công ty đó cạnh tranh được với
các tổ chức tín dụng khác.
Lãnh đạo Công ty giỏi sẽ đưa ra những quyết định đúng đắn, phù hợp
với tình hình chung của ngành cũng như đất nước. Nhân viên có trình độ cao
có khả năng đưa ra nhiều sáng kiến trong công tác huy động vốn cũng như
các hoạt động khác của Công ty Tài chính. Tất cả những biểu hiện trên sẽ ảnh
hưởng rất lớn đến hiệu quả huy động vốn của Công ty Tài chính trên thị
trường tài chính.
1.3.1.5 Uy tín của Công ty
Một Công ty có uy tín lớn trên thị trường sẽ thu hút được nhiều khách

hàng trong việc nhận tiền gửi hay phát hàng các công cụ nợ. Ngược lại, Công
ty chưa có nhiều tên tuổi sẽ rất khó khăn trong việc thu hút vốn từ khách
hàng. Bởi vậy, việc tạo danh tiếng cho Công ty là hết sức quan trọng.
Uy tín của Công ty được thể hiện ở rất nhiều mặt:
- Khả năng cung cấp và đáp ứng các dịch vụ tài chính: Một Công ty Tài
chính luôn có đa dạng các sản phẩm, chính sách khách hàng, chinh sách lãi
suấttheo đúng quy định chung của Ngân hàng Nhà nước, mà vẫn phù hợp với
biến động chung của ngành, của nền kinh tế sẽ có lợi thế trong việc thu hút
Trần Thu Hồng 23
khách hàng. Tâm lý của khách hàng luôn thích những Công ty Tài chính hứa
hẹn đem lại một khoản lợi lớn nhất từ khoản tiền đầu tư của mình, đồng thời
được phục vụ một cách chu đáo, tận tình nhất. Ngoài ra, các dịch vụ do Công
ty cung ứng cũng tác động đến các tổ chức kinh tế có nhu cầu gửi tiền vào
Công ty, là đối tượng trung tâm trong công tác huy động vốn. Hệ thống dịch
vụ tốt và đa dạng sẽ làm hài lòng các tổ chức và cá nhân gửi tiền.
- Cơ sở vật chất và công nghệ: Đây là điều kiện cần thiết và quan trọng
để đánh giá tình hình hoạt động và uy tín của Công ty Tài chính. Khi một cá
nhân hay tổ chức nào đó có nhu cầu gửi tiền, hay hợp tác làm ăn với Công ty
thì trước hết họ sẽ xem qua cơ sở vật chất của Công ty như trụ sở có địa điểm
dễ nhìn thấy, được xây dựng ưa nhìn, có tranh thiết bị hiện đại, công nghệ tiên
tiến, tiện lợi, tạo được không khí lịch sự... điều đó sẽ tạo ra được cái nhìn
thiện cảm của đối tác ngay từ lần đầu tiên đến Công ty.
1.3.2 Nhân tố khách quan
1.3.2.1 Môi trường pháp lý
Môi trường pháp lý ở đây được hiểu là những quy định của pháp luật
và Ngân hàng Nhà nước đối với hoạt động huy động vốn của Công ty Tài
chính. Vì Công ty Tài chính là một trung gian tài chính nên chịu sự điều tiết
của luật các tổ chức tín dụng và sự quản lý chặt chẽ của Ngân hàng Nhà nước.
Công ty Tài chính phải tuân thủ theo những quy đình của pháp luật về hoạt
động huy động vốn. Như vậy, những quy định của pháp luật ảnh hưởng đến

hiệu quả của hoạt động huy động vốn của Công ty Tài chính, cụ thể là đến
lượng vốn huy động và cơ cấu vốn huy động. Đây là nhân tố cần phải được
quan tâm đến đầu tiên trong hoạt động huy động vốn.
Một môi trường pháp lý đồng bộ, hoàn thiện sẽ là điều kiện thuận lợi
giúp hoạt động của Công ty Tài chính nói chung và hoạt động huy động vốn
nói riêng đạt được hiệu quả cao. Bởi vì khi có một hành lang pháp lý chặt chẽ,
thuận lợi các tổ chức kinh doanh tiền tệ sẽ có điều kiện hoạt động năng động,
Trần Thu Hồng 24
an toàn hơn, có khả năng huy động được tối đa các nguồn vốn trong và ngoài
nước đáp ứng kịp thời nhu cầu về vốn cho các hoạt động của Công ty, có khả
năng hội nhập nhanh chóng với các tổ chức kinh doanh tiền tệ trong khu vực
và trên thế giới.
1.3.2.2 Chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương
Chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương là những quy định hoặc
nghiệp vụ của Ngân hàng Trung ương tác động lên thị trường tiền tệ, tài chính
nhằm vào mục tiêu kinh tế như: công ăn việc làm, tăng trưởng kinh tế, bình
ổn giá cả, lãi suất, ổn định thị trường tài chính và thị trường ngoại hối.
Các công cụ cơ bản của chính sach tài chính và chính sách tiền tệ là:
nghiệp vụ thị trường mở, chính sách chiết khấu, dự trữ bắt buộc, chính sách
lãi suất và hạn mức tín dụng. Những công cụ này tác động lên thị trường tài
chính tiền tệ trong đó chủ yếu là các trung gian tài chính bao gồm cả Công ty
Tài chính. Chính sách này tác động trực tiếp tới hiệu quả của việc huy động
vốn như việc quy định lãi suất cao hay thấp sẽ ảnh hưởng tới việc huy động
vốn tiền gửi. Các chính sách này tác động đến cung tiền tệ, từ đó ảnh hưởng
gián tiếp đến việc huy động vốn.
1.3.2.3 Tình trạng nền kinh tế
Đây là một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động
huy động vốn của Công ty Tài chính. Nếu một nền kinh tế phát triển, tỷ lệ lạm
phát thấp, thu nhập bình quân đầu người cao thì việc huy động vốn từ dân
chúng là dễ dàng. Bên cạnh đó, nền kinh tế phát triển tốt thì sẽ khuyến khích

các doanh nghiệp sử dụng nợ, tức là làm tăng cả cung vốn lẫn cầu vốn. Trong
khi đó, nếu nền kinh tế đang trong thời kỳ suy thoái, tỷ lệ lạm phát cao sẽ rất
khó huy động nguồn tiền gửi. Nền kinh tế suy thoái cũng làm cho các doanh
nghiệp hạn chế sử dụng nợ làm ảnh hưởng tới cầu về vốn do đó làm ảnh
hưởng đến cung về vốn, việc huy động vốn của Công ty Tài chính sẽ suy
giảm.
Trần Thu Hồng 25

×