Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

Dựa vào các văn bản Chiếu dời đô và Hịch tướng sĩ, hãy nêu suy nghĩ của em về vai trò của những người lãnh đạo anh minh như Lí Công Uẩn và Trần Quốc Tuấn đối với vận mệnh đất nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (898.17 KB, 3 trang )

ĐỀ
Dựa vào các văn bản Chiếu dời đô và Hịch tướng sĩ, hãy nêu suy nghĩ của em về vai trò của những người
lãnh đạo anh minh như Lí Công Uẩn và Trần quốc Tuấn đối với vận mệnh đất nước

Bài làm 2:
Nước Việt Nam chúng ta là nước truyền thống đấu tranh dựng nước và cứu nước , trải qua hàng ngàn
năm, nước VN đã xuất hiện những vị vua , vị tướng lỗi lạc tài ba , anh minh như Lí Công Uẩn, Trần Quốc
Tuấn trong bài chiếu dời đô, hịch tướng sĩ.
Một trong những vị vua tài giỏi , lỗi lạc của đất nước đó là Lí Công Uẩn , ông là người đầu tiên lập nên
triều đại nhà Lý ở nước ta . Ông là người thông minh, nhân ái , yêu nước thương dân , có chí lớn và lập
được nhiều chiến công . Lí Công Uẩn luôn mong muốn đất nước được thịnh trị, nhân dân được ấm no,
hạnh phúc . Chính vì thế , ông nhận thấy Hoa Lư không còn phù hợp với hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ .
Vì ông muốn đóng đô ở nơi trung tâm , mưu toan nghiệp lớn, tính kế muộn đời cho con cháu nên ông đã
ban bố chiếu dời đô vào năm 1010 để “trên vâng mệnh trời dưới theo ý dân ” .
Việc định đô lập nước là 1 vấn đề trọng đại phần nào tới tương lai đất nước
Dời đô là khát vọng mong muốn của LCU , của nhân dân, của lịch sử dân tộc . Muốn vậy, việc dời đô là phải tìm một nơi trung
tâm của trời đất , địa thế rồng cuộn hổ ngồi. Lý Công Uẩn tâm đắc nói tới cái nơi đúng ngôi chính giữa nam bắc đông
tây, lại tiện hướng nhìn sông dựa núi, nơi đấy không phải là Hoa Lư chật hẹp, mà là một nơi địa thế rộng, bằng,
đất đai cao thoáng. Một nơi thuận lợi về tất cả mọi mặt thì nhân dân được ấm no, thanh bình, dời đô hợp với thiên
thời, địa lợi, nhân hòa.

Dời đô ra Thăng Long là một bước ngoặc rất lớn . Nó đánh dấu sự trưởng thành của dân tộc đại Việt .
Kinh đô Thăng Long quả là cái nôi lập đế nghiệp cho muôn đời là nơi để cho sơn hà xã tắc được bền
vững muôn đời Tiếp đến là vị tướng Trần Quốc Tuấn , với LCU là một vị vua anh minh, thương dân thì
Trần Quốc Tuấn là một vị tướng giỏi, tài ba biết lấy những suy nghĩ, việc làm của mình để khơi dậy lòng
yêu nước của các tướng sĩ . TQT tức Trần Hưng Đạo , ông là một vị tướng kiệt xuất của dân tộc biết nhìn
xa trông rộng, ông đã nhận biết được âm mưu xâm lược của kẻ thù .
Trần Quốc Tuấn luôn luôn khâm phục những bậc nghĩa sĩ trung thần đã xả thân vì đất nước, vì nhân dân .
Ông mượn những tấm gương đó dí nói lên tình hình đất nước ta lúc bấy giờ đang bị giặc Nguyên mông
lăm le xâm chiếm thì rất cần những tấm gương hi sinh vì nước để bảo vệ từng tấc đất cho nhân dân . Ông
tố cáo tội ác của kẻ thù với mọi nhân dân, với triều đình ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài


đường, uốn lưỡi diều mà sỉ mắng triều đình, ông tỏ rõ chúng là thân dê chó, hổ đói . Ngày ngày nhìn sứ
giặc làm nhục triều đình TQT ruột đau như cắt nước mắt đầm đìa và ông sẵn sàng xẻ thịt lột da nuốt gan
uống máu quân thù dẫu cho thân mình phải phơi ngoài nơi cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa , ông cũng
cảm thấy vui lòng .
Đứng trước tình cảnh đất nước ngàn cân treo sợi tóc , TQT phê phán nghiêm khắc những lối sống hưởng
lạc nhưng ông cũng tỏ rõ sự quân tâm đến các tướng sĩ , ông cho họ ăn mặc, xe cộ , thuyền ….. sự quan
tâm đó sẽ thắt chặt tình cảm giữa chư và tướng . Nếu các tướng sĩ không nghe theo lời thần chư thì hiểm
họa trước mắt thật đau xót : “Lúc bấy giờ, ta cùng các ngươi sẽ bị bắt , đau xót biết cừng nào ”
Ông đã chọn thảo cuốn binh thư yếu lược để các tướng sĩ học theo từ bỏ lối sống xa hoa , chuyên chăm
vào việc rèn luyện võ nghệ để mọi người giỏi như Bàng Mông nhà nhà đều là Hậu Nghệ để có thể chiến
thắng được kẻ thù xâm lược. Thật hả hê khi chúng ta chiến thắng được quân thù , chưa đánh giặc nhưng
TQT đã ca khúc khải hoàn chiến thắng “chẳng những thân ta kiếp này đắc chí mà đến các người trăm năm


về sau tiếng vẫn lưu truyền ”. Lời tâm sự của TQT với các tướng sĩ thật chân thành khiến các tướng sĩ
một lòng khâm phục vị tướng tài vì xã tắc mà dám hi sinh , dám chiếnLCU và TQT đều yêu nước sâu sắc,
thương dân , lo lắng cho vận mệnh đất nước . Tuy các ông đã mất , nhưng những điều răn dạy vẫn được
con cháu đời nya phát huy, và em cũng tự hào khi được học dưới mái trường mang tên một vị vua Lê
Lợi .
Bài làm 3:
Xưa nhà Thương đến đời Bàn Canh năm lần dời đô, nhà Chu đến đời Thành Vương ba lần dời đô, há phải
các vua thời Tam Đại; ấy theo ý riêng tự tiện dời đô. Làm như thế cốt để mưu nghiệp lớn, chọn ở chỗ
giữa, làm kế cho con cháu muôn vạn đời, trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện thì dời đổi,
cho nên vận nước lâu dài, phong tục giàu thịnh. Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng, coi thường
mệnh trời, không noi theo việc cũ Thương Chu, cứ chịu yên đóng đô nơi đây, đến nỗi thế đại không dài,
vận số ngắn ngủi, trăm họ tổn hao, muôn vật không hợp. Trẫm rất đau đớn, không thể không dời.
Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương, ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng chầu hổ phục,
chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất
cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp
nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư

mãi muôn đời.
Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở, các khanh nghĩ thế nào?
(Bản dịch của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, in trong Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà Xuất bản Khoa học
Xã hội, Hà Nội, 1993)
Lý Công Uẩn là một trong những vị vua tài giỏi, lỗi lạc của đất nước, ông là người đầu tiên lập nên triều
đại nhà Lý ở nước ta. Ông thông minh, nhân ái , yêu nước thương dân, có chí lớn và lập được nhiều chiến
công. Lý Công Uẩn luôn mong muốn đất nước được thịnh trị, nhân dân được ấm no, hạnh phúc. Chính vì
thế, ông nhận thấy Hoa Lư không còn phù hợp với hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ. Vì ông muốn đóng đô
ở nơi trung tâm , mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu nên ông đã ban bố chiếu dời đô
vào năm 1010 để “trên vâng mệnh trời dưới theo ý dân”.
Việc định đô lập nước là một vấn đề trọng đại tới tương lai đất nước. Dời đô là khát vọng của Lý Công
Uẩn, của nhân dân, của lịch sử dân tộc. Việc dời đô là phải tìm một nơi trung tâm của trời đất , địa thế
rồng cuộn hổ ngồi. Lý Công Uẩn tâm đắc nói tới cái nơi đúng ngôi chính giữa nam bắc đông tây, lại tiện
hướng nhìn sông dựa núi, nơi đấy không phải là Hoa Lư chật hẹp, mà là một nơi địa thế rộng, bằng, đất
đai cao thoáng. Một nơi thuận lợi về tất cả mọi mặt thì nhân dân được ấm no, thanh bình, dời đô hợp với
thiên thời, địa lợi, nhân hòa.
Dời đô ra Thăng Long là một bước ngoặc lớn, đánh dấu sự trưởng thành của dân tộc đại Việt. Kinh đô
Thăng Long là cái nôi lập đế nghiệp cho muôn đời là nơi để cho sơn hà xã tắc được bền vững muôn đời
Chiếu dời đô đã thể hiện sâu sắc, tầm nhìn thời đại của một vị vua Đại Cồ Việt 1000 năm về trước khi
ông chọn Đại La làm kinh đô mới để mưu nghiệp lớn, tính kế phồn vinh, trường kỳ cho muôn đời sau.
Chiếu nêu bật được vai trò kinh đô Thăng Long xứng đáng là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của
quốc gia. Thời gian sau đó, Thăng Long vẫn là kinh đô của các triều Trần, nhà Hậu Lê, nhà Mạc, Lê
Trung Hưng và đang là Thủ đô Việt Nam hôm nay. Thăng Long thực sự là “nơi kinh đô bậc nhất của
muôn đời”.
Nhận xét về kinh đô Thăng Long, sử gia Ngô Sỹ Liên đã viết: “Núi là vạt áo che, sông là dải đai thắt, sau
lưng là sông nước, trước mặt là biển, địa thế hùng mạnh mà hiếm, rộng mà dài, có thể là nơi vua ở hùng
tráng, ngôi báu vững bền, hình thể Đại Việt không nơi nào hơn được nơi này”.
Sự xuất hiện của chiếu dời đô là bằng chứng cho thấy đất nước đã phát triển sang trang mới, vua Lý Thái
Tổ không tự khởi nghiệp ở Thăng Long mà là người được triều đình Hoa Lư tiến cử lên ngôi thay nhà
Tiền Lê. Vì thế mà hệ thống triều đình và cơ sở vật chất của kinh thành Thăng Long có được đều thừa

hưởng từ đô cũ Hoa Lư. Sự kiện ban Chiếu dời đô vừa khẳng định vừa phủ định vai trò của kinh đô Hoa
Lư. Là mốc son đánh dấu lịch sử hình thành thủ đô Hà Nội của Việt Nam trên cơ sở, nền tảng kinh đô
Hoa Lư.


Chiếu dời đô vừa khẳng định, đồng thời vừa phủ định, vừa khách quan lại vừa cảm tính, có ý nghĩa sâu
sắc đối với lịch sử Hoa Lư và Thăng Long, làm nên tính chất trọng đại của hành trình 1000 năm lịch sử.
Đó là một áng văn của thời khắc lịch sử từ Hoa Lư đến Thăng Long - một bước ngoặt hào hùng của dân
tộc Việt Nam.
Hướng tới Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long- Hà Nội.



×