Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

Ôn thi đại học bài vợ nhặt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (706.44 KB, 86 trang )

Phân tích giá trị độc đáo của tình huống truyện mà Kim Lân đã
tạo dựng trong tác phẩm Vợ nhặt.
Bài viết của thầy Phan Danh Hiếu. Tổ trưởng Tổ Ngữ văn THPT Bùi Thị
Xuân. Biên Hòa. Đồng Nai.

Dàn ý chi tiết :
A. Mở bài : giới thiệu Kim Lân, kể tên ba tác phẩm, xuất xứ Vợ
nhặt, giới thiệu tình huống truyện (Một trong những đặc sắc
của truyện Vợ nhặt là Kim Lân đã sáng tạo một tình huống
truyện vô cùng độc đáo)
B. Thân bài
a. Khái niệm " tình huống truyện"
- Khái niệm: Tình huống truyện là sự kiện đặc biệt của đời
sống được nhà văn sáng tạo theo lối lạ hóa. Đó là môi trường,
hoàn cảnh để nhân vật xuất hiện, tính cách phát triển và dụng ý
của nhà văn được bộc lộ sắc nét.
Nhà văn Nguyễn Minh Châu từng cho rằng: "Tình huống truyện
là lát cắt, là khúc cua đời sống, nhưng qua đó, ta hiểu được
trăm năm của đời thảo mộc"
b. Các ý cần đạt


1. Nhan đề Vợ nhặt cũng là một nét độc đáo: Tình huống
truyện của tác phẩm này thể hiện ngay ở nhan đề "Vợ nhặt". Một
anh nông dân "nhặt" được vợ. Thật là một chuyện khó tin. Bởi
theo quan niệm truyền thống, ông cha cho rằng:
Tậu trâu, lấy vợ, làm nhà,
Trong ba việc ấy thực là khó khăn.
Vậy mà đọc tác phẩm chúng ta nhận thấy, Anh cu Tràng- một
gã trai thô kệch, nghèo khổ lại là dân ngụ cư- chỉ "tầm phơ tầm
phào" mấy câu mà có vợ theo về giữa lúc nạn đói khủng khiếp


đang hoành hành. Sức hấp dẫn của tình huống truyện trước hết
là ở đó. Và phải chăng tình huống trong tác phẩm này là một
tình huống hành động, có lẽ đúng hơn là tình huống tâm trạng.
2. Mở đầu truyện là bức tranh xám ngắt về ngày đói: (đưa
bức tranh ngày đói vào - ngắn gọn nhé)
3. Đó là tình huống một anh cu Tràng nghèo khổ xấu trai, ế
vợ đang đứng ngấp nghé bên bờ vực của cái chết vì đói
khát lại nhặt được vợ trong nạn đói khủng khiếp 1945.
+ Thật ra, ban đầu Tràng không chủ tâm tìm vợ. Tràng cũng
thừa biết, người như hắn thì không thể có vợ. Khi đẩy xe bò mệt
mỏi anh chỉ hò một câu cho vui " Muốn ăn cơm trắng mấy giò
này/ Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì". Tràng chỉ muốn hò để
xua đi mỏi mệt trong người. Anh cũng chẳng có ý chòng ghẹo ai
cả. Ai ngờ có người đàn bà đói xông xáo đến đẩy xe thật. Nhưng
vì đùa vui nên Tràng đã không giữ đúng thỏa thuận của câu hò.
Nhưng Tràng cảm thấy hạnh phúc biết bao khi gặp được cái
"cười tít mắt của thị" bởi "từ xưa đến giờ có ai cười với hắn một
cách tình tứ như vậy đâu".
+ Hôm sau gặp lại: Khi Tràng đang ngồi nghỉ trước cổng chợ
tỉnh thì bất ngờ có người đàn bà sầm sập chạy đến, cong cớn,
sưng sỉa với hắn " Điêu, người thế mà điêu". Tràng không nhận
ra người đàn bà ngày trước đẩy xe cho mình. Trước mặt hắn là


một người đàn bà thảm hại đã bị cái đói tàn hại cả nhan sắc lẫn
nhân cách. Thị gầy sọp hẳn đi, ngực gầy lép, khuôn mặt lưỡi cày
hốc hác, quần áo rách như tổ đỉa. Thấy người đàn bà đói, rách
rưới thảm hại. Tràng động lòng thương. Có ai ngờ được rằng
trong con người thô kệch ấy lại có một tấm lòng thương người
cao cả. Thế rồi Tràng cho người đàn bà kia ăn, không chỉ ăn mà

còn cho ăn rất nhiều " bốn bát bánh đúc". Đó chính là lòng
thương một con người đói khát hơn mình chứ Tràng không hề
có ý định lợi dụng hoặc chòng ghẹo.
Vốn tính hay đùa, Tràng lại tầm phơ tầm phào "Nói đùa chứ có
về với tớ thì ra khuân đồ lên xe rồi về". Nói đùa thế thôi, ai ngờ
thị về thật. Lúc đầu Tràng phảng phất lo sợ về cái đói và cái
chết"mới đầu anh cũng chợn, nghĩ: thóc gạo này đến cái thân
mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng". Đó là
nỗi sợ hãi có thật nhất lại là thời đói kém như thế này. Nhưng có
lẽ tình thương người và khát vọng hạnh phúc đã lớn hơn nỗi sợ
hãi nên sau đó anh chặc lưỡi " Chậc kệ!" . Chỉ một từ "kệ"
thôi, Tràng như đã bỏ lại sau lưng mình tất cả nỗi sợ hãi,
mọi lo nghĩ để vun vén cho cái hạnh phúc của mình.
Bình luận: Tràng và người đàn bà kia như hai cành củi khô
nhưng họ đã chụm vào nhau để nhen lên ngọn lửa. Tội nghiệp
thay, người này thì cần hạnh phúc còn người kia thì lại cần chỗ
dựa. Một người vì tình yêu, người kia vì miếng ăn. Nói tóm lại là
họ LIỀU, nhưng cái Liều kia của họ làm người ta bật khóc. Bây
giờ thì họ là người dũng cảm, dũng cảm bởi vì họ dám nắm tay
nhau để bước qua ranh giới của sự sống và cái chết. Họ làm ta
khâm phục và kính trọng, phải chăng hai con người khốn khổ ấy
là niềm tin của Kim Lân về một giống nòi sẽ tiếp nối sẽ sinh sôi
khi mà cả dân tộc đang đứng trước sự diệt vong của nạn đói ?
4. Tình huống truyện làm bộc lộ sâu sắc tâm trạng, tính
cách nhân vật. Tình huống này đã gây ngạc nhiên cho cả
xóm ngụ cư, cho mẹ Tràng, và cả bản thân của Tràng nữa,
vì hai lí do:


 Một là, Tràng - một

người nghèo túng, xấu xí,
dân ngụ cư (bị người làng
khinh bỉ) xưa nay đàn bà
con gái chẳng ai thèm để
ý. Vả lại không có tiền
cưới vợ, vậy mà bỗng
dưng lấy được vợ, lại là
vợ theo hẳn hoi.
 Hai là, giữa lúc đói kém
này, người như Tràng, chỉ
làm nghề đẩy xe bò thuê
kiếm sống qua ngày, đến
nuôi thân còn không nổi lại
còn đèo bòng vợ với con.
Trong cái thời tao đoạn
ấy, việc Tràng lấy vợ quả là
một tình huống oái oăm. Ta
sẽ mừng hay lo, buồn hay
vui cho cặp vợ chồng này?
 Trước hết là sự ngạc
nhiên của cả xóm ngụ
cư: Nhìn theo bóng Tràng
và người đàn bà, mỗi
người một suy nghĩ khác
nhau, ai cũng ngạc nhiên,
phân vân "ai đấy nhỉ ?
Hay là người nhà bà cụ
Tứ dưới quê lên", có
người cười " hay là vợ
anh cu Tràng ?", có người

thương hại "Biết có nuôi
nổi nhau qua cái thời đói
khát này không ?"


 Bà cụ Tứ: biết tin anh
cu Tràng lấy vợ, lòng bà
ngổn ngang trăm mối. Bà
vô cùng ngạc nhiên, rồi
vừa mừng vừa lo, vừa vui
vừa tủi. Bà trở nên đổi
khác "Cái mặt bủng beo u
ám hằng ngày bỗng trở
nên rạng rỡ hẳn lên".
Chính bà là ngọn lửa nhen
lên giữa cái nền thảm đạm
của nạn đói làm ấm lên
hạnh phúc của Tràng và
cô vợ nhặt.
 Tràng: Tâm trạng của
anh cũng khá phức tạp.
Nhưng về cơ bản, anh lo ít
vui nhiều. Mới đầu Tràng
cũng "chợn", nhưng liền
sau
đó
chặc
lưỡi
"kệ !".Trên đường đưa vợ
về nhà, thấy người ta tò

mò nhìn ngó, "hắn lại lấy
vậy làm thích ý lắm, cái
mặt cứ vênh lên tự đắc
với mình". Niềm vui át hẳn
nỗi lo, đến nỗi anh ta
không hiểu được tại sao
vợ lại buồn, mẹ lại khóc
"chán quá, chẳng đâu vào
đâu tự nhiên cũng khóc!".
Bỗng nhiên "nhặt" được
vợ, hạnh phúc đến với
Tràng quá lớn và quá đột
ngột. Mãi đến sáng hôm
sau anh ta vẫn còn thấy


"trong người êm ái lửng lơ
như người vừa ở trong
giấc mơ đi ra". Và cùng
với niềm vui, ý thức về
bổn phận, về trách nhiệm
đối với cái tổ ấm của mình
cũng nảy sinh. Anh ta thấy
thương yêu gắn bó với
mọi người, với ngôi nhà
một cách lạ lùng."Bỗng
nhiên hắn thấy hắn
thương yêu gắn bó với cái
nhà của hắn lạ lùng...Một
nguồn vui sướng, phấn

chấn đột ngột tràn ngập
trong lòng. Bây giờ hắn
thấy hắn mới nên người".
Tràng biết quan tâm đến
chuyện chính trị. Biết nghĩ
suy về lá cờ đỏ và đoàn
người kéo nhau đi phá
kho thóc nhật. Đây chính
là sự chiếu rọi của cách
mạng tới sự giác ngộ của
Tràng.
 Cô vợ nhặt: Cái đói đã
đẩy người đàn bà đến chỗ
chẳng còn biết xấu hổ là
gì, mất đi lòng tự trọng,
mất cả nữ tính. Thị không
hơn gì cái rơm cái rác,
người ta có thể nhặt được
nơi đầu đường xó chợ.
Giá của người đàn bà chỉ
bằng bốn bát bánh đúc,
hai hào dầu, một cái thúng


con... thị cho không Tràng
chính bản thân mình chỉ vì
muốn được sống. Sau
đêm tân hôn thị trở thành
con người khác hẳn. Là
nàng dâu hiền thảo, biết

quan tâm vun vén hạnh
phúc gia đình, khác với vẻ
"chao chát - chỏng lỏn sưng sỉa" mà Tràng đã
gặp ngoài chợ.
5. Tình huống truyện thể hiện thái độ của nhà văn đối với
con người và thực trạng xã hội đương thời.


Nhà văn lên án tội
ác của bọn phát xít
Nhật, thực dân Pháp và
phong kiến tay sai đã
gây ra nạn đói khủng
khiếp năm 1945. Đẩy dân
tộc ta vào cảnh túng đói
quay quắt, kinh hoàng
"Người chết như ngả rạ".
Lịch sử còn ghi lại nạn
đói ghê sợ ấy, từ Lạng
Sơn đến Quảng Trị, hơn
hai triệu đồng bào ta chết
đói.



Thái độ cuả nhà văn
đối với con người:

 Nhà văn xót xa và cảm
thương sâu sắc với nỗi

khổ của người dân lành.
Kim Lân thực sự xót xa, ái
ngại khi nhận thấy con


người phải đối diện với đói
rét, khi con người bị rẻ
rúng, coi thường.
 Kim Lân trân trọng, tôn
vinh những phẩm chất tốt
đẹp của người dân nghèo:
Dù đối mặt với hoàn cảnh
sống ngặt nghèo, tăm tối,
người dân nghèo vẫn luôn
thương yêu, đùm bọc, cưu
mang nhau. Thậm chí
càng gieo neo, khốn khó,
họ càng thương yêu nhau.
Thật
đúng
với
tinh
thần"Thương người như
thể thương thân", "Lá lành
đùm lá rách"...đầy tính
nhân văn của dân tộc ta.
Quan trọng hơn, nhà văn
muốn ngợi ca niềm tin,
niềm lạc quan yêu sống
của con người Việt Nam.

Bởi mấp mé bên vực thẳm
của cái chết, người dân
ngụ cư vẫn không hề bi
quan, không buông xuôi,
phó mặc sự sống mà rất
yêu sống, ham sống. Thật
đúng là "còn da lông
mọc, còn chồi nảy cây".
Kết bài
Tình huống truyện trong Vợ
nhặt thật độc đáo. Là hạt nhân
của cấu trúc thể loại, tình
huống truyện trong Vợ nhặt


đóng vai trò rất quan trọng. Qua
tình huống truyện, nhà văn
không chỉ dựng được chân
dung các nhân vật, mà quan
trọng hơn, thái độ của nhà văn
được thể hiện thật tự nhiên và
sâu sắc
Vợ nhặt- Kim Lân
Kim Lân tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài. Ông sinh ngày 1/8/1920, quê ở làng Phù Lưu, xã Tân Hồng , huyện Tiên
Sơn, tỉnh Bắc Ninh.Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, ông chỉ được học hết bậc tiểu học rồi phải đi làm. Kim Lân bắt
đầu viết truyện ngắn bắt đầu từ năm 1941. Tác phẩm của ông được đăng trên các báo “Tiểu thuyết thứ bảy” và “Trung
Bắc chủ nhật”. Một số truyện (“Đứa con người vợ lẽ”, ” Đứa con người cô đầu”, ”Cô Vịa”…) mang tính chất tự truyện,
nhưng đã thể hiện được không khí tiêu điều, ảm đạm của nông thôn Việt Nam và cuộc sống lam lũ, vất vả của người
nông dân. Ông được dư luận chú ý nhiều hơn khi đi về đề tài độc đáo: tái hiện sinh hoạt văn hoá phong phú ở thôn quê
(đánh vật,chọi gà,thả chim…). Các truyện: ”Đôi chim thành”, ”Con mã quái”, ”Chó săn”… kể lại một cách sinh động

những thú chơi lành mạnh, qua đó thể hiện một phần vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân trước Cách mạng _những
người sống cực nhọc, khổ nghèo nhưng vẫn yêu đời, trong sáng, tài hoa. Sau Cách mạng tháng tám, Kim Lân tiếp tục
làm báo, viết văn. Ông vẫn chuyên về truyện ngắn và vẫn viết về làng quê Việt Nam _mảng hiện thực mà từ lâu ông đã
hiểu biết sâu sắc. Những tác phẩm chính: ”Nên vợ nên chồng” (tập truyện ngắn 1955), ”Con chó xấu xí” (tập truyện
ngắn 1962). Trong cả hai giai đoạn sáng tác, tuy viết không nhiều nhưng giai đoạn nào Kim Lân cũng có những tác
phẩm hay. Là một cây bút vững vàng, ông đã viết về cuộc sống và con người ở nông thôn bằng tình cảm, tâm hồn của
một người vốn là con đẻ của đồng ruộng. Nói như Nguyên Hồng, ông là nhà văn một lòng đi về với “đất”, với “người”,
với “thuần hậu nguyên thủy” của cuộc sống nông thôn (Bước đường viết văn NXB Văn học Hà Nội 1971). (SGK Văn
học 12)
Với một tâm hồn luôn hướng về cuộc sống và con người nông thôn, Kim Lân luôn đặt ra những vấn đề xã hội làng quê
rất tự nhiên và gần gũi ,dễ đi vào lòng người đọc. Đặc biệt dựa trên bối cảnh nạn đói năm 1945, Kim Lân đã thể hiện tài
năng của mình qua tác phẩm “Vợ Nhặt”_một tác phẩm thấm đẫm tinh thần nhân đạo, phản ánh cuộc sống nghèo khổ,
cơ cực và khát vọng về hạnh phúc gia đình của người nông dân Việt Nam trong thời Pháp thuộc. Qua đó bày tỏ tiếng
nói chung của những ngừơi nông dân trong thời chiến và những ao ước giản dị của họ , tạo nên sự đồng cảm và suy
nghĩ trong lòng người đọc .
Ngay trong tựa đề,Kim Lân đã gợi sự tò mò cho người đọc.Chuyện dựng vợ gả chồng là chuyện hệ trọng trong cả đời
người,thế mà Kim lân lại dùng hình ảnh “Vợ Nhặt”,một sự gặp gỡ tình cờ và nhanh chóng tiến đến hôn nhân trong cái
bối cảnh hiện thực của truyện ngắn là nạn đói mùa xuân Ất Dậu 1945,một trong những thời kỳ đen tối trong lịch
sử.Kim Lân đã thổi vào tác phẩm thứ ánh sáng nhập nhoạng,mù mờ của một buổi tối chiều “chạng vạng”.Và thấp
thoáng trong thứ ánh sáng đó là hình ảnh những con người “xanh xám như những bóng ma”,”nằm ngổn ngang khắp lều
chợ”,”những cái thây nằm cong queo bên đường”,một cuộc sống đang mấp mé bên bờ vực thẳm giữa sự sống và cái
chết,một không khí “vẩn lên cái mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác ngừơi”.Những yếu tố mở đầu cho tác
phẩm đã gợi lên một không khí nặng nề,phản ánh được cuộc sống của người nông dân lúc bấy giờ mới khó khăn,cực
nhọc đến dường nào,gây xúc động cho mỗi chúng ta khi ông cha ta đã trải wo những thời gian khó khăn, ăn “bo bo”
thay gạo,chịu đói rét.
Trong khung cảnh đó,nhân vật Tràng hiện lên như một con người hoang sơ ngật ngưỡng bước đi trong ánh chiều tàn
của một cuộc sống không ra cuộc sống.Tràng được Kim Lân miêu tả với diện mạo chung của người dân lúc bây giờ:
hai con mắt gà gà,nhỏ tí,hai bên quai hàm bạnh ra,bộ mặt thì thô kệch,thân hình thì “vập vạp”,cùng với cái kiểu “ngửa
mặt lên cười hềnh hệch”,”cái đầu trọc nhẵn”,”cái lưng to rộng như lưng gấu”,và cái áo nâu tàng vắt ở một bên tay,một
hình ảnh hết sức hoang dã trong xã hội đói nghèo .Ngay cả nơi ở của Tràng cũng không kém phần hoang dã như thế:

cành dong rấp cổng,tấm phên rấp che nhà,mảnh vườn lổn nhổn toàn cỏ dại,mà Tràng cũng chỉ là kẻ ngụ cư,loại người
lúc bấy giờ bị coi khinh,ruồng bỏ,một thứ cỏ rác hương thôn.Và Kim Luân đã dùng sáng tạo nghệ thuật của mình,gây
ra những bất ngờ cho người đọc ở đầu truyện :”Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy,một buổi chiều người trong xóm
bỗng thấy Tràng về với một người đàn bà nữa.”Một người đàn bà đã bước vào cuộc sống của Tràng.
Tràng có vợ.Người như Tràng mà có vợ.Cái “kẻ” mang bộ dạng giống như con gấu hoặc gốc cây xù xì,trần trụi ấy,lại
trong một cuộc đời đang bị đẩy sát tới cái ranh giới phân chia giữa tồn tại và ko tồn tại thế kia,mà lại nhặt được “thứ”
vốn biểu trưng cho hạnh phúc.Tràng có vợ một cách hiển hách,oanh liệt,cứ như một anh chàng tốt số, đào hoa: chỉ
buông ra có một lời ỡm ờ tán tỉnh,mà “cô nàng” đã vội vã theo không.Tưởng đâu một truyện truyền kỳ về một thời


thảm hại. Nhưng đó không phải là một chuyện cổ tích hay theo một mô tuýp chàng ngốc gặp tiên nữ,nhưng đây lại là
một sự thật não lòng.Người vợ mà được Tràng nhặt về được trên đường đời thảm đạm cũng thuộc về một dạng người
giống như Tràng.Chân dung của chị ta cũng là một bức ký họa khác với tự nhiên,với những đường nét tai hại cho người
phụ nữ:”cái ngực gầy lép,khuôn mặt lưỡi cày xám xịt”,..gầy xọp,rách mướt,” áo quần tả tơi như tảo đỉa”, đấy là hình
ảnh người đàn bà đã làm đảo lộn cuộc đời Tràng.Nhưng khéo nhất là những dòng được viết,Kim Lân cho ta nhận
thấy:cái người phụ nữ đói rách kia còn xa mới có thể coi là hiền thục;làm sao mà Kim Lân có thể tả cái đanh đá,cái trơ
của người đàn bà lao động nghèo tài thế,sinh động đến là như thế.Kim Lân cũng rất tài tình khi tả vợ của Tràng rất
cong cớn nhưng không nanh nọc,trơ trẽn.Và cũng chính cái cong cớn,sưng sỉa, đanh đá,trơ trẽn kia,nó có thể sinh ra từ
dốt nát, đói nghèo,tâm tối chứ tuyệt không sinh ra từ cái ác,cái xấu xa.
Vậy là hai thân phận bọt bèo ấy đã dạt đến nhau qua những lời yêu đại loại như:”Rích bố cu,hở”,”Hà,ngon!Về chị ấy
thấy hụt tiền thì bỏ bố”,”Làm đếch gì có vợ.Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về.”. Đó là
ngôn ngữ của tình duyên,hay cũng chỉ là bốn bát bánh đúc mà người đàn ông nổi hứng khao và người đàn bà cắm đầu
ăn liền một chập,chẳng buông một lời trò chuyện gì.Bốn bát bánh đúc trong những ngày tháng đói kém,chúng đủ phép
màu để làm hai con mắt trũng hoáy của người phụ nữ đói rách sáng lên.Có xót xa không,khi cái đói tuy mang lại nhiều
đau khổ lại cũng có thể xe duyên cho một mối tình giữa hai tâm hồn cũng nghèo khó. Điều đó,ta nhận thấy dường như
không có sự cách biệt giữa Kim Lân và người nông dân,nên ông mới có thể miêu tả người nông dân trong những năm
nghèo đói mới chân thật đến như vậy,và những tình tiết có vẻ buồn cười thì bên dưới đó lại là những nỗi buồn và niềm
thương cảm.Những trang viết về những con người “dưới đáy” thế này thì không làm ta khinh ghét họ mà xót thương và
buồn cho họ vì họ không thể sống trong điều kiện tốt hơn trong cái xã hội mà được mọi người gọi là con người mà
chính cái xã hội đó cũng đang từ bỏ họ, để mặc họ trong cái nghèo đói.Ở đây ,tác giả không phải nói về những nét thấp

kém của con người bộc lộ qua nhân hình và nhân cách.Ngược lại ,với việc đặt nhân vật vào một khoảng sống mờ tối,lắt
lay,nhà văn đã tìm ra một cơ hội song để biểu hiện nỗi bất diệt của niềm khao khát thèm được sống, được thương yêu
và hy vọng.Niềm ao ước hạnh phúc đó không thể diệt trừ cái đói hay sự u tối của một tương lai không mấy sáng sủa và
nó cũng không bị diệt trừ.Nó cứ âm thầm vươn lên từ đói khát,tối tăm và chính bởi thế mà nó trở nên cảm động và
đáng qúy biết chừng nào.
Khi “nhặt” vợ về,Tràng không phải là không biết suy nghĩ:”thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi
không lại còn đèo bồng”.Nhưng rồi anh lại tặc lưỡi:”Chậc,kệ!”.Một quyết định có vẻ rất tầm thường với một sự việc
hết sức trọng đại trong thời điểm bấy giờ.Nhưng ta có thể hiều rằng,cái tặc lưỡi đó đồng nghĩa với việc là Tràng đã
đánh cuộc với đời,với cái nghèo đói, để sống “đầy đủ” cuộc sống bình thường như mọi người. Đó là khát vọng làm
người mà một kẻ thô kệch,chất phác như Tràng vẫn có đã khiến Tràng liều lĩnh một phen.Và Tràng cũng đã được đền
bù:”Trong một lúc,Tràng hình như quên hết những cảnh sống ê chề,tăm tối hàng ngày,quên cả cái đói khát ghê gớm
đang đe dọa từng ngày,và quên cả những tháng ngày trước mặt.Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn và
ngừơi đàn bà đi bên.Một cái gì mới mẻ,lạ lắm,chưa từng tấhy ở người đàn ông nghèo khổ ấy,nó ôm ấp,mơn man khắp
da thịt Tràng,tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ trên sống lưng.”Qua đó,Kim Lân đã gieo vào lòng người đọc những cảm
xúc: Khác với những người có đầu óc bi quan thường nghi,sự đói khát,nghèo khổ không làm giảm đi giá trị của lòng
người.Bao giờ cái hạnh phúc được thương yêu cũng qúy hơn tất cả,ngay cả khi người ta tưởng như rằng không còn cần
gì hơn là một miếng cơm ăn.
Con người ai ai cũng mong có được hạnh phúc.Và Kim Lân,hạnh phúc, đến lượt nó,lại có thể làm thay đổi cả một con
người như chính Tràng chẳng hạn.Tràng hôm nay đã không còn giống như Tràng của những ngày hôm qua.Anh Tràng
hôm nay ngượng nghịu,khổ sở,tay nọ xoa xoa mãi vai kia,chỉ vì đi bên một người đàn bà ở một nơi vắng vẻ,muốn
buông một câu tình tứ mà chịu không sao nói nổi.Rồi đến khi vợ hỏi,anh chàng to xác ấy lại trả lời một cách đến là vô
cùng ngờ nghệch,ngây thơ:”Có một mình tui mấy u”. Ắt hẳn nhiều người sẽ cười Tràng,cũng đúng thôi,nhưng có ai đã
từng sống qua mà không thấy: có những cái ngượng nghịu,cái ngẩn ngơ,những sự “khổ sở êm ái” chỉ đến với con
người vào những phút giây thật là hạnh phúc.Cái xúc động mà Tràng đang có vào buổi lần đầu đi bên người vợ
nhặt,ngẫm ra cũng không ít điều xót xa,cay đắng,nhưng ít nhất cũng là một thứ xúc động,lâng lâng,bồi hồi,biến người
đàn ông thô nhám và chai sạn thành một đứa trẻ lớn tuổi hiền lành.
Cái chi tiết Tràng khoe chai dầu con trong tay cũng thế.Nó không chỉ là một sự việc buồn cười.Có lẽ cũng nên nhận ra
dưới cái cười,một tiếng thở dài thương cảm cho những kiếp người mà cuộc đời khốn khổ đến mức việc mua có hai hào
dầu là cũng đã là một cái gì hoang phí lắm,một cử chỉ có vẻ lãng mạn,ga-lăng lắm lắm.Nhưng dẫu sao thì Tràng đã có
cái hãnh diện mà trước kia anh ta chưa từng có.cái hãnh diện được làm một người chồng, đuợc có một đêm tân hôn,

được biết mùi vị tiêu hoang một chút để có lấy một lần sáng sủa trong cái thực tại mù mờ:”Hai hào đấy, đắt quá,có mà
thôi chả cần.”,một lời nói nghe sao mà thật tội nghiệp,nhưng trong cái tội nghiệp đó là một niềm vui không tầm
thường,bởi trong hoàn cảnh như thế của Tràng lúc ấy, được coi thường đồng tiền vì một đềiu gì đó lớn hơn, trong
trẻo,qúy báu hơn đâu có thể cho là một niềm vui hạ cấp?”
Cũng có thể nghĩ như vậy về cái câu Tràng giới thiệu vợ mình với mẹ:”Kìa nhà tôi nó chào u.”.Kim Lân quả thật rất tài
trong việc sử dụng những lời thoại ít chữ,văn xuôi hết sức,những câu văn không hề cầu kỳ,gọt giũa,mơ mộng,mà mang
đậm phong cách làng quê và lại rất tình cảm chứa đọng trong từng câu nói.Người mà Tràng gọi là “nhà tôi” ấy,cái


người con dâu đang thực hiện những nghi lễ đầu tiên ra mắt mẹ chồng tuy là chỉ nhặt được,chưa trải qua cưới hỏi,chưa
gặp mặt qua một lần,chưa được mẹ chồng diện kiến “nhan sắc” của mình một lần nhưng những tiếng của Tràng gọi
nghe thật nở ruột nở gan như một sự chứng nhận hẳn hoi,rành rọt trước mẹ Tràng,người đàn bà ấy và chính Tràng,một
sự thật hiển nhiên:”Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?Hà!…”.Tuy sự xác nhận ấy có chút nặng nề nhưng cũng giúp Tràng có
được một cuộc sống của con người bình thường:”Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ
lùng.Hắn đã có một gia đình.Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy.Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng..Bây giờ
hắn mới thấy hắn nên người.” Đó cũng là những ao ước của những người nông dân luôn mong có được một gia đình
hạnh phúc.Giống như nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao,từng có khát vọng cùng Thị Nở xây
dựng gia đình,dù rằng đi làm thuê mướn cho người ta,cùng nhau mỗi ngày được thưởng thức “bát cháo hành” của
vợ.Chính những cái ước mơ vô cùng giản đị như thế đã tạo nên nét đẹp trong tâm hồn người nông dân Việt,và Kim Lân
đã đưa vào tác phẩm những điều tinh túy và tiếng nói đầy tính nhân bản ,tạo nên sự đồng cảm thiết tha cho người đọc.
Nói về người vợ của Tràng,người đã tìm ra một chốn để nương tựa thân phận người phụ nữ của mình trong cảnh đói
nghèo,Kim Lân đã bộc lộ vài sự thất vọng thầm kín khi thấy cảnh tù túng nhà chồng chồng: một tiếng thở dài cố nén
trong “cái ngực gầy lép nhô hẳn lên” trước túp nhà rách nát và rúm ró;cách nhếch cười nhạt nhẽo và nét mặt bần thần
khi bước vào nơi ở của anh chàng mới lúc ban ngày còn vỗ túi khoe “rích bố cu”;hai con mắt thoáng tối lại khi được bà
lão đon đả mời ăn bát cám.và khi trên đường “rước dâu” dài dặc giữa xóm ngụ cư.cái cô nàng cong cớn và trơ trẽn hồi
nào bỗng trở nên e dè ngượng ngập;và có khó chịu lắm trước những sự tò mò trêu cợt thì cũng chỉ dám càu nhàu trong
miệng,khẽ đến mức ông chồng đi bên cũng không nghe thấy. Đôi mắt tư lự khi đặt bước trên con đường về nhà
chồng,cả cái dáng điệu khép nép ngồi mớm ở mép giừơng và tiếng chào u lúng túng..tất cả những cái đó chỉ làm cho
người đàn bà gầy nhom,xám xịt và rách rưới c1o được cảm giác m2inh đã là một nàng dâu thực sự,một bông hoa đã có
chủ.Và chính Tràng cũng ngạc nhiên trước những thay đổi của nàng ta:”Tràng nom thị hôm nay khác lắm,rõ ràng là

người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh.”Cuộc đời
éo le và nhận hậu bao nhiêu dưới ngòi bút của Kim Lân khi chị vợ kia lại chịu đi theo một người đàn ông như Tràng
,xấu xí và xa lạ như để tránh sự cô đơn và nghèo đói.Thế mà khi đến nhà chồng thì nàng ta vẫn chẳng thoát được cái
đói của cuộc đời.Nhưng bù cho điều đó nàng lại nhận được một món quà khác đó là tình thân,tình thương,một mái ấm
gia đình,một nghĩa vụ phải biết lo lắng cho nửa kia của mình và cũng là điều mà Kim Lân muốn nói:dù đói khổ,khó
khăn vất vả nhưng không thể thiếu trong cuộc sống tình thương yêu gia đình, điều đó mới có thể giúp ta cảm thấy được
mình vẫn là một con người bình thường như bao người khác.
Kim Lân thật tài trong những câu đối thoại giữa vợ chồng Tràng.Nó lửng lơ,với những câu nói trổng không,dân dã,bình
thường,nghe rất lạ lẫm đối với những cặp vợ chồng khác đến hay đối với hai người dân đói khổ bỗng thoáng chốc trở
thành vợ chồng,ngay cả khi đi chung với nhau vẫn còn chưa hết ngượng ngùng.Và nó không chỉ thể hiện qua lời nói,mà
còn qua cái củng vào trán cùng với một tiếng “dơ”,cái cười hì hì của gã đàn ông,và trước đó là cái lườm của chị
vợ..giống như nhân vật Thị Nở của Nam Cao:”Một người đàn bà thật xấu khi yêu cũng lườm.”Nhưng đối với chị vợ
của Tràng thì đó còn là một người đàn bà đói rách đang đong đưa con mắt để quên cái xấu,cái nghèo của mình mà nghĩ
đến “tình yêu vợ chồng”.Một cái nét đẹp, đáng quý, đáng yêu, đáng buồn cho cái hạnh phúc của đời thường,nạn nhân
của xã hội nghèo khổ,nắm bắt ngay những thời cơ để được yêu, để được biết thế nào là hạnh phúc, được hưởng thụ một
lần trong đời và để được sống như bao ngừơi khác,và nếm được hương vị của gia đình.
Và một nhân vật được Kim Lân đưa vào ngay giữa truyện đó là bà cụ Tứ,mẹ của Tràng,một nhân vật làm nổi bật cái
khát khao của hai chữ “gia đình” lúc bấy giờ.Bà cụ không hài hước như đôi vợ chồng Tràng,mà đó là một con ngừơi đã
một kiếp phải sống trong nỗi đau,vất vả,nuôi con khôn lớn.Và cũng chính cái kinh nghiệm từng trải,lòng ám ảnh của
một quá khứ nặng nề với nhiều nỗi đắng cay và những băn khoăn của người làm mẹ:”Bà lão nhớ đến ông lão,nghĩ đến
đứa con gái út.Bà lão nghĩ đến cuộc đời cực khổ dái dằng dặc của mình.Vợ chồng chúng nó lấy nhau,cuộc đời chúng
nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không?”. Điều đó cho ta thấy rằng bà cụ Tứ về những nghịch cảnh éo le của việc hôn
nhân, đặc biệt là một cuộc hôn nhân “vội vã” và trong cái thời điểm cũng chẳng ư là thích hợp.Và bà cụ cũng tự nghĩ
rằng đó là một duyên kiếp không nên có:”Chao ôi,người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm
nổi,những mong sinh con đẻ cái nở mặt sau này.Còn mình thì…biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn
đói khát này không?”.Nhưng sự tình đã rồi,trứơc mắt bà là ngừơi con dâu,mặt cúi xuống,”tay vân vê tà áo đã rách
bợt”.Và rồi bà cụ Tứ cũng chuyển cách nghĩ về việc có vợ là một cơ may:”Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ
này,người ta mới lấy đến con mình.Mà con mình mới có vợ được…Thôi thì bổn phận bà là mẹ,bà đã chẳng lo lắng
được cho con…”câu văn nghe thật cảm động nhưng có chút gì nhoi nhói,một chút tủi hờn,ai oán số phận,nén cái cảm
giác bất đắc dĩ trứơc việc đã bày ra trứơc mắt,hoà với chút rưng rưng,xao xuyến một niềm vui.Qua đó ta càng lại thấy

qúy trọng người mẹ chồng này hơn khi bà nói nhẹ nhàng với nàng dâu mới:”Thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp
với nhau,u cũng mừng lòng”,lột tả cái thần thái của tấm lòng vị tha cao cả,giấu đi những giọt nứơc mắt xót thương vì
sợ gây cho người mình thương xót nhiều lo lắng:”Có đèn đấy à? Ừ thắp lên một tí cho sáng sủa…Dầu bây giờ đắt gớm
lên mày ạ.” Đó là thứ ánh sáng mờ trong đêm tối,một ánh sáng cho cái tương lai không ổ định,một thứ không biết lúc
nào tắt,nhưng cũng là niềm hy vọng nhỏ nhoi của bà cụ Tứ dành cho vợ chồng Tràng.Có thể nói bà cụ Tứ là người có
nhiều hy vọng nhất:từ cái việc đan cái phên ngăn riêng chỗ của vợ chồng đứa con trai cho kín đáo;rồi việc”khi nào có
tiền ta mua lấy đôi gà” và những ước mơ nghe thấy chạnh lòng “rồi may ra ông giời cho khá…Có ra thì rồi con cái
chúng mày về sau.”Tuy đã gần đất xa trời nhưng bà không ước ao gì cao xa,bà chỉ ao ước cho con mình,cho gia đình


,cho thế hệ con cháu mai sau,vun vén những gì tốt đẹp nhất cho con cháu..Có ai ngờ rằng một bà cụ đang chờ về thế
giới bên kia,lại có niềm hy vọng tràn trề không bị tàn lụi theo năm tháng và tuổi tác.
Tác phẩm luôn đề cập hai vần đề trái ngược nhau, đan xen thành một chỉnh thể nghệ thuật chung.Ta có thể thấy rõ khi
nói về việc Tràng đưa vợ về nhà,cái nhìn của người dân xóm chợ khi “nhìn theo bóng Tràng và bóng người đàn bà lủi
thủi đi về bến”,:”Những khuôn mặt hốc hác u tối của họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên.Có cái gì lạ lùng và tươi mát thổi
vào cuộc sống đói khát,tăm tối ấy của họ.”,rồi sau đó là “một người thở dài”,và sau tiếng cười rung rúc bất chợt nổi lên
là sự nín lặng_nín lặng của nỗi buồn lo.Rồi lại trong lời bà cụ nói:”Cốt làm sao chúng mày hoà thuận là u mừng
rồi.năm nay thì đói to đấy.Chúng mày lấy nhau lúc này,u thương quá…”.Và rõ nhất là những giờ phút hạnh phúc của
đôi vợ chồng son trên cái nền âm thanh của tiếng ai hờ khóc người chết đói cứ tỉ tê lúc to lúc nhỏ,dai dẳng tận đêm
khuya.Sự đan xen tình huống truyện ngây ngô của những ngừơi nông dân chất phác,bình thường với những ước mơ
nhỏ nhoi giữa một thế giới ,một tương lai mở nhạt, một cuộc sống u ám, ranh giới giữa sự sống và cái chết.
Truyện mở ra là buổi chiều chạng vạng mặt người và khép lại trong “ánh nắng buổi sáng mùa hè sáng loá”.Mở đầu là
một anh Tràng cô đơn bước cao bứơc thấp trên con đường khẳng khiu dưới ánh chiều mờ của một gầm trời đầy đói
khát,nhưng kết thúc là Tràng đã có một gia đình,mọi ngừơi đang xăm xắn quét tước,thu dọn nhà cửa cho quang qủe và
cố làm cho nhau vui trứơc một bữa ăn loãng thếch và đáng chát,và cũng có len lỏi vào đó một nỗi tủi hờn trứơc việc
phải ăn món ăn vốn không phải là của con người,rồi lại tiếng trống thúc thuế trên mảnh đất đầy người chết đói,xua
đoàn quạ hốt hoảng vù bay,khiến nền trời thành đen vẩn.Song lại có câu chiện về phá kho thóc Nhật và hình ảnh lá cờ
đõ phấp phới trong óc Tràng.Anh đã nhận thức được con đường để thoát nghèo đói là đấu tranh,hình ảnh lá cờ soi sáng
anh đi đến lý tưởng đúng đắn nói riêng,và tinh thần đấu tranh của người nông dân đang thôi th1uc họ mạnh mẽ tháot
khỏi kiếp nghèo và một ngọn lửa hy vọng rực cháy về một tương lai sáng sủa,một khát vọng tình yêu,hơi ấm gia

đình,hoà bình và tự do.Qua đó Kim Lân đã gửi gắm tiếng nói chung của những người nông dân rũ bùn đứng dậy sáng
loà,chiến đấu vì đất nứơc,vì để thoát khỏi số phận tối tăm trứơc mắt.Hình dáng người nông dân nổi bật trước lá cờ đỏ
sao vàng,lá cờ lý tưởng cách mạng,lá cờ của niềm tin chiến thắng.Và qua đó nói lên một niềm tin,một hy vọng tràn trề
về một chiến thắng,sự thoát khỏi cuộc sống cơ cực và hai từ “hoà bình” ,”tự do”.
Với vốn liếng ngôn ngữ giàu có và đặc sắc,mang đậm tính chất nông thôn,cái lối viết văn tưởng như dễ dàng mà không
thể phỏng theo ,giản dị vô cùng mà vẫn ánh lên được chất hào hoa Kinh Bắc.những tâm trạng kín đáo nhất cũng phải
hiện lên qua những cử chỉ hành động một cách tinh tế :tiếng gắt vô duyên vô cớ,một tiếng khẽ ho bình thừơng,những
bứơc chân bứơc vội ra sân,thái độ điềm nhiên và miếng cám vào trong miệng…Nhưng cái đọng lại cúôi cùng là cái
nhìn đời,nhìn đời đầy xót xa và thương yêu của nhà văn,là niềm tin mà ông muốn trao gửi đến tất cả chúng ta qua tác
phẩm.Dù cuộc sống có bi thảm đến đâu đi chăng nữa thì chính cái cội nguồn nhân bản lưu giữ cho nâhn dân là bất
diệt,và con ngừơi không có kháo khát chính đáng nào hơn là khao khát được sống như một con người, được nên
ngừơ,có được mái ấm gia đình,một cuộc sống ấm no đầy đủ,tình yêu đôi lứa,niềm hạnh phúc trong cuộc sống và tình
thương yêu giữa người với người,và để bảo vệ chính mình, để thoát khỏi sự áp bức, đói khổ,những ngừơi nông dân trở
thành lá cờ đầu cho công cuộc bảo vệ đất nứơc.
Có thể nói,tác phẩm truyện ngắn “Vợ Nhặt” của Kim Lân là một sự tiếp nối của những tác phẩm văn chương hiện thực
phê phán như của Nam Cao,Tô Hoài,…từ trứơc Cách mạng tháng Tám .Vẫn những mảnh đời éo le,bất hạnh,hay gặp
những mảnh đời khó khăn trong những tình huống dở khóc dở cười,hay trong tác phẩm này,chúng ta lại thấy một cuộc
sống của những ngừơi nông dân sau Cách mạng trong cái đói nghèo của một xã hội cần được phải cải thiện mới, đó là
những người có một tâm hồn trong sáng,tràn đầy lòng yêu thương,luôn luôn ấp ủ trong tâm hồn mình những hy vọng,
ước ao nhỏ bé ,hồn hậu.Chính Kim Lân đã đưa người đọc quay về một thời đen tối của nạn đói,qua đó ngừơi đọc đồng
cảm ,xúc động cho những số phận, những mảnh đời bất hạnh sống.Người đọc còn nhận ra điều Kim Lân muốn gửi gắm
đã nêu ở trên. Nhữnghình ảnh,chi tiết về anh Tràng cùng chị vợ trong cuộc hôn nhân “vội vàng”,e ấp,ngại ngùng trên
đường về nhà và hình ảnh bà cụ Tứ trong hình ảnh một ngừơi mẹ,một ngừơi từng trải ,về những băn khoăn cho con cái
thật sự làm đau đớn,chạnh lòng khi đọc đến những câu văn tha thiết,súc tích biết dường nàoBản thân tôi, khi đọc những
dòng văn mà Kim Lân viết,tôi đã có rất nhiều cảm xúc,những cảm xúc tự hào về cha ông đã không vì nạn đói,nguy nan
trứơc mắt mà từ bỏ để rồi xây dựng nên đất nứơc Việt Nam như ngày hôm nay,cảm xúc về những ngừơi nông dân bình
dị nhưng lại chất chứa bên trong những niềm hy vọng nhỏ nhoi nhưng đầy nhiệt huyết. Tuy thời gian đã qua ,nhưng
những hình ảnh về một thời đ1oi khổ,một thời chiến đấu của nhân dân ta vẫn còn hiện lại trong tôi như mới đây thôi.
Điều đó càng làm tôi cảm thấy mình có trách nhiệm trong việc giữ gìn, bảo vệ và xây dựng đất nước mà chính những
người nông dân,và ông cha ta đã gầy dựng.

Thích (0)
(0) |
Báo vi phạm Trích dẫn
Ngày gửi: 15/01/2009 - 14:49 | Bạn được cộng 10 điểm cho trả lời này

kimlongk...


Trước và sau Cách mạng tháng Tám, dù viết không nhiều nhưng giai đoạn nào Kim Lân cũng có tác phẩm hay. Là một
cây bút vững vàng, ông đã viết về cuộc sống và con người ở nông thôn bằng tình cảm, tâm hồn của một nhà văn chân
chất vốn là đứa con của đồng ruộng. Trong bối cảnh nạn đói năm 1945, Kim Lân viết truyện ngắn " Vợ nhặt". Tác
phẩm là một đóng góp xuất sắc cho nền văn xuôi dân tộc. Với một cốt truyện đơn giản nhưng tình huống truyện độc
đáo và hấp dẫn. Vợ nhặt đề cập đến một vấn đề lớn có tính hiện thực và nhân đạo sâu sắc; những con người Việt Nam
lương thiện, trong tai họa đói kém khủng khiếp do thực dân, phát xít gây ra, đã cưu mang đùm bọc nhau và hi vọng,
trông chờ vào sức mạnh giải phóng của cách mạng. Ấn tượng sâu đậm của người đọc với tác phẩm có lẽ là tấm lòng
đáng quý của mẹ con Tràng và cũng là tấm lòng thật đáng quý của nhà văn đối với những người lao động nghèo khổ.
Tác phẩm đã dựng được hoàn cảnh tiêu biểu, làm sống dậy cả một quãng thời gian đau thương của dân tộc, xây dựng
được các nhân vật tiêu biểu. Trước hết tác giả tái tạo không khí truyện rất đạt, đó là không khí những ngày đói khủng
khiếp. Trời đất xóm thôn lúc nào cũng chạng vạng, u tối, thê thiết tiếng quạ kêu, tiếng người khóc. Các nhân vật của
truyện đã đến mức dật dờ, lặng lẽ như những bóng ma. Trong bối cảnh ấy người vợ nhặt hay bà mẹ Tràng đều là các số
phận điển hình. Tất cả được dẫn dắt sống động, rất chân thật với các chi tiết rất đắc ( chi tiết mấy đĩa bánh mà nên vợ
nên chồng ...). Chỉ thông qua cách nói chuyện của đôi vợ chồng mới, thấy rõ nhà văn dường như đưa nhân vật sống
ngoài đời vào thẳng tác phẩm. Họ đối đáp chỏng lẻn, câu cú không đầu không đuôi, lời ít đến mức tối thiểu. Điều đó
thể hiện con người bình dân của họ, thể hiện cái tâm lí e ngại, thẹn thùng, chưa hiểu biết nhiều về nhau của " cô dâu,
chú rể".
Nét đặc sắc nhất trong thành công nghệ thuật của Kim Lân là ở chỗ ông đi sâu vào tâm lí nhân vật, miêu tả được diễn
biến tâm trạng nhân vật một cách tự nhiên, hợp lí sâu sắc. Len lỏi vào, đốt phá qua lớp vỏ bề ngoài với con mắt ti hí,
cái đầu trọc, thân hình thô kệch của Tràng, tác giả thấu hiểu và dẫn giải nhân vật với những diễn biến tâm lí lôgích, rất
người. Dưới ngòi bút Kim Lân, một mơ ước thầm kín về một hạnh phúc đơn sơ, nhỏ nhoi; sự chuyển biến từ một kẻ tồn
tại, thiếu tình cảm thành một người đàn ông biết yêu thương , có trách nhiệm, khiến ta cảm động. Cả người " Vợ nhặt"

lẫn bà mẹ già nghèo khổ cũng biến chuyển, họ trở nên tốt hơn, hiền hậu hơn và phần nào tin ngày mai sẽ khác.

1. Tìm hiểu truyện "Vợ nhặt" của Kim Lân
Tác giả
Kim Lân, tên thật là Nguyễn Văn Tài, sinh năm 1920. Quê quán: Phù Lưu, Từ Sơn, Hà Bắc. Sở
trường về truyện ngắn. Thế giới nghệ thuật của ông là xóm làng quê với người dân cày Việt
Nam. Viết rất hay về những thú chơi dân dã đồng quê như chọi gà, thả diều, nuôi bồ câu, chơi
núi non bộ,… mà ông gọi là thú “phong lưu đồng ruộng”.
Tác phẩm, 2 tập truyện ngắn: “Nên vợ nên chồng” (1955) và “Con chó xấu xí” (1962).
Xuất xứ
“Vợ nhặt” có tiền thân là truyện “Xóm ngụ cư” - viết ngay sau Cách mạng tháng Tám. Bản thảo
chưa in, 1954 viết lại.
Chủ đề
Qua câu chuyện anh cu Tràng nhặt được vợ, tác giả nói lên niềm cảm thông và trân trọng hạnh
phúc muộn mằn và niềm hy vọng về một sự đổi đời của người nông dân năm đói Ất Dậu.
Tóm tắt
Cụ Tràng ở xóm ngụ cư, làm nghề kéo xe bò chở thuê. Đã nhiều tuổi, thô kệch, có tính vừa đi
vừa nói lảm nhảm như kẻ dở hơi. Bà cụ Tứ mẹ hắn nghèo khổ. Hai mẹ con ở trong một mái nhà
tranh vắng teo, rúm ró. Trận đói kinh khủng đang diễn ra, người chết đói như ngả rạ. Một lần
kéo xe thóc Liên đoàn lên tỉnh, hắn hò một câu vượt dốc rất tình. Một cô gái ton ton chạy lại đẩy
xe cho Tràng, liếc mắt cười tít. Lần thứ hai, Tráng gặp lại thị, trông khác hẳn, thị gầy sọp hẳn đi,
áo quần tả tơi như tổ đỉa. Một vài câu trách móc, mời chào, thị ăn một chập 4 bát bánh đúc do
Tráng đãi. Mua một cái thúng và 2 hào dầu, Tráng dẫn thị về nhà ra mắt mẹ. Xóm ngụ cư ngạc
nhiên khi thấy một người đàn bà xa lạ đi theo Tráng họ bàn tán, có phần lo ngại. Trong nhá
nhem tối, bà cụ Tứ gặp và nói chuyện với nàng dâu mới. Lần đầu nhà Tráng có dầu thắp đèn…


Tiếng ai hờ khóc người chết đói ngoài xóm lọt vào. Sáng hôm sau, bà mẹ chồng và nàng dâu mới
quét dọn trong nhà ngoài sân. Bữa cơm – cháo cám – đón nàng dâu mới. Bà cụ Tứ vừa ăn vừa
kể chuyện làm ăn, gia cảnh với con dâu, nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng sau này.

Lại một buổi sáng. Tiếng trống thúc thuế dồn dập. Quạ đen bay vù như mây đen. Thị nói về
chuyện Việt Minh phá kho thóc Nhật. Tráng nhớ lại lá cờ đỏ bay phấp phới hôm nào…
Người và cảnh được nói đến trong truyện
1. Cảnh
Xóm ngụ cư một buổi chiều tàn và một buổi sáng.
Ngã tư xóm chợ về chiều càng xác xơ, heo hút. Gió từ đồng thổi vào ngăn ngắt. Dãy phố úp súp,
tối om, không một ánh đèn. Dưới gốc đa, gốc gạo, bóng những người đói đi lại dật dờ, lặng lẽ
như những bóng ma. Tiếng quạ kêu từng hồi thê thiết. Mùi đống rấm khép lẹt tử khí. Tiếng hờ
khóc tỉ tê của ai có người thân mới chết đói…
Cái đói đã tràn đến xóm ngụ cư. Khắp các lều chợ, người đói xanh xám như những bóng ma nằm
ngổn ngang. Sáng nào cũng có ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Mùi ẩm thối của rác,
mùi gây xác chết vẩn lên.
Buổi sáng sau ngày Tráng có vợ, tiếng trống thúc thuế dồn dập. Quạ lượn vòng trên nền trời như
đám mây đen. Đó là những nét vẽ rất điển hình làm hiện lên cảnh chết đói vô cùng thê thảm của
xóm thôn Việt Nam cuối năm 1944, đầu năm 1945.
2. Nhân vật
a- Tràng: đã lớn tuổi, nhà nghèo, thô kệch, dân ngụ cư, kéo xe bò thuê. Chỉ một câu hò ỡm ờ, 4
bát bánh đúc, 2 hào dầu, mua một cái thúng mà nhặt được vợ. Tràng vỗ vào túi tiền, nói một
câu bồi: “Rích bố cu!” Thổ lộ với thị: “làm đếch gì có vợ?”. Khoe hai hào dầu mới. Vươn cổ thổi
tắt ngọn đèn. Cười khì khì… Đó là những nét vẽ hóm hỉnh về anh cu Tràng. Khi nhặt được vợ,
Tràng rất lo trước nạn đói biết có nuôi nổi mình không lại còn đèo bòng, nhưng hắn đã chặc lưỡi
một cái: “Chặc, kệ!”. Sáng hôm sau nhặt được vợ, Tràng thấy cái gì cũng “thay đổi mới mẻ khác
lạ”. Trong lòng hắn tràn ngập “một nguồn vui sướng phấn chấn”. Hắn nghĩ tới bổn phận phải lo
lắng cho vợ con sau này. Hắn ăn cháo cám, thần mắt nhớ lại lá cờ đỏ và đoàn người đói đi phá
kho thóc Nhật mà hắn mới gặp hôm nào. Với Tràng, hạnh phúc muộn mằn đến bất ngờ, lòng
anh chứa chan hy vọng về một sự đổi đời.
b- Bà cụ Tứ: Già nua. Goá bụa. Nghèo khổ. Chỉ có một mụn con trai thì thô kệch. Lo chết đói. Bà
hiền lành, phúc hậu khi nói chuyện với nàng dâu. Bà tủi thân về phận nghèo hèn của hai mẹ con.
Rất thương con và thương nàng dâu mới. Lo xa về cái đói, nhưng vẫn tin tưởng: “Ai giàu ba họ,
ai khó ba đời…” Bữa cháo cám mà bà nói toàn chuyện vui mai sau. Nước mắt bà chảy ra vì vui, vì

lo buồn, vì con bà đã “có vợ được”. Bà cùng con dâu thu dọn nhà cửa, vườn tược… một sự đổi
đời hé lộ đầy hạnh phúc. Không còn “bủng beo u ám”, mặt bà đổi “rạng rỡ hẳn lên”… Bà cụ Tứ
là hiện thân của lòng mẹ.
c- Vợ của Tràng
Không quê quán. Không người thân thương. Không tên tuổi. Sắp chết đói: áo quần tả tơi như tổ
đỉa, gầy sọp hẳn đi, trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt. Giữa trận đói,
chẳng có cheo cưới gì, chị đã thành vợ nhặt của Tràng. Thật chua chát, “Cái giá” của người con
gái chỉ có 4 bát bánh đúc, 2 hào dầu, một cái thúng. Bữa cơm đầu tiên thị ăn ở nhà chồng là bát
cháo cám! Nỗi đau khổ, tủi nhục của thị cũng là của nhân dân ta một thời mà hơn 2 triệu đồng


bào ta đã chết đói. Trở thành vợ Tràng, thị thay đổi hẳn “hiền hậu đúng mực”…
Kết luận
Chất liệu cuộc sống được tái hiện một cách chân thực cảm động. Tình huống truyện là nét đặc
sắc trong nghệ thuật kể chuyện của Kim Lân. Truyện giàu tính nhân bản. Sau bóng tối của người
dân cày lầm than là một rạng đông về hạnh phúc và ấm no đang dần đến. Cách suy nghĩ và tình
thương của lòng mẹ là những nét vẽ cảm động, đặc sắc nhất của truyện ngắn “Vợ nhặt” này.
“Vợ nhặt” còn có giá trị hiện thực sâu sắc: tố cáo tội ác của Pháp Nhật vơ vét thóc lúa của nhân
dân ta, thủ phạm gây ra nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu 1945, làm hơn 2 triệu đồng bào ta bị
chết đói./.

Ôn tập môn văn: Chuyên đề "Vợ Nhặt"
Mục đích chuyên đề giúp các em củng cố những nội dung cơ bản xung quanh tác phẩm
“Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân.
- Ý nghĩa nhan đề và nghệ thuật xây dựng tình huống.
- Hình ảnh người nông dân Việt Nam trong bối cảnh làng quê ngày đói.
- Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo độc đáo.
- Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, sắc sảo.
- Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ đối thoại tài tình.
KIẾN THỨC CƠ BẢN

A. Vài nét về tác giả, tác phẩm
1. Tác giả
a. Tiểu sử (1920- 2007)
- Tên thật: Nguyễn Văn Tài
- Quê: huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh
- Xuất thân: dân ngụ cư (mẹ dân ngụ cư lấy bố là dân bản xứ, bản thân cùng vợ từ quê ra
Hà Nội, đẩy xe bò ăn cháo cám…), chỉ được học hết bậc tiểu học, vừa làm thợ vừa viết
văn > Liên hệ với Macxim Gorki, Nguyên Hồng…> Bài học về sáng tạo, tài năng.
- Tham gia hội Văn hóa cứu quốc.
b. Sáng tác


- Thế giới nghệ thuật: Khung cảnh nông thôn và người nông dân lam lũ, chịu thương chịu
khó, gắn bó tha thiết với cách mạng.
- Thành công nổi bật:
+ Viết hay về thú phong lưu đồng ruộng (liên hệ Nguyễn Tuân): Chọi gà, Con mã mái,
Đôi chim thành.
+ Hiểu sâu sắc cảnh ngộ, nỗi lòng, tâm lí của người nông dân nghèo.
+ “Cây bút viết ít nhưng ngày càng được khâm phục nhiều”.
2. Tác phẩm
a. Sự ra đời
- 1954: Dựa vào cốt truyện cũ của cuốn tiểu thuyết viết dở có tên “Xóm ngụ cư”(1946)
- In trong tập “Con chó xấu xí”(1962)
- Vị trí
+ Truyện ngắn hay nhất của Kim Lân.
+ Kim Lân tự đánh giá: “Chất nhân ái, tình thương của người đối với người trong cảnh
khốn cùng. Điều đáng nói nhất là trong cái đói con người vẫn nghĩ tới điều sung sướng
cho nên người ta mới lấy nhau”.
b. Nhan đề:
- Mô tả: Vợ nhặt

- Ý nghĩa:
+ Gợi mở tình huống lạ, éo le, độc đáo.
+ Gây tò mò cho người đọc > sức hấp dẫn của tác phẩm.
B. Phân tích
1. Khung cảnh làng quê Việt Nam ngày đói
* Khái quát
- Bối cảnh lịch sử có thật: nạn đói 1945, cướp đi 1/10 dân số của Việt Nam.


- Tác phẩm hoàn thành khá lâu sau sự kiện lịch sử này nhưng cảm quan về cái đói vẫn
ngấm trong từng chữ, ám ảnh cái nhìn làng quê của nhà văn.
* Không gian làng quê Việt Nam ngày đói quay quắt, xơ xác, tiêu điều
- Cái đói “tràn đến”: Sự hiện hình của cái đói giống như một thảm họa, một cuồng phong,
càn quét mọi sinh linh.
- Thời gian: chiều “chạng vạng”
- Không gian: Con đường vì cái đói mà “ khẳng khiu”.
- Con người:
+ Trẻ con: ủ rũ, không buồn nhúc nhích.
+ Người sống: Xanh xám như những bóng ma, bóng những người đói dật dờ đi lại như
những bóng ma.
+ Người chết: “như ngả rạ”, ba, bốn cái thây nằm cỏng queo bên đường”
Bút pháp tả thực đến trần trụi, qua những so sánh cụ thể, tạo ám ảnh. Câu văn tả người
sống liền kề câu văn tả người chết, hao hao nhau, từa tựa nhau, nhấn mạnh ấn tượng về
ranh giới mong manh giữa sống và chết, cõi âm và cõi dương, chỉ chút sơ sẩy là sa vào
âm địa.
Những con người dắt díu bồng bế nhau hôm nay có thể sẽ là mấy cái “thây nằm còng
queo bên đường” ngày mai.
+ Âm thanh: Tiếng quạ “gào lên từng hồi thê thiết” > “sứ giả” của cái chết, cõi âm > gợi
ám ảnh rợn lạnh, âm khí.
+ Mùi vị: “vẩn lên mùi ẩm thối”: rác, mùi gây của xác người.

* Tóm lại: Ngòi bút tài hoa của Kim Lân đã khơi lật được mảng hiện thực trần trụi “tối
sầm lại vì đói khát” tạo ấn tượng về một cõi dương đậm đặc âm khí. Cả làng quê giống
như một đám ma khổng lồ mà bản nhạc huyên luôn ám ảnh chỉ chực cất lên khi có thêm
một ma đói.
2. Hình ảnh người nông dân ngày đói
a. Tràng
- Ngoại hình:
+ Mắt nhỏ tí


+ Hàm bạnh, mặt thô kệch.
+ Đầu: trọc nhẵn.
+ Lưng: to, rộng như lưng gấu.
+ Áo: nâu tàng.
Các chi tiết cụ thể pha chút trào lộng đặc tả một thanh niên lao động thô kệch, vất vả,
lam lũ, được hóa công đẽo gọt quá sơ sài, dường như vẫn phảng nét hoang dại.
- Tên gọi: Dụng cụ trong nghề mộc.
- Xuất thân: dân ngụ cư > Tầng lớp sống lang bạt, không quê quán, lai lịch rõ ràng,
thường bị dân bản xứ khinh miệt.
Gợi liên tưởng các nhân vật chàng ngốc, người đần trong truyện cổ dân gian, hiện thân
cho một số phận bất hạnh.
- Phẩm chất: bộc lộ trong tình huống nhặt được vợ.
+ Câu văn bản lề mở ra toàn bộ câu chuyện cảm động là câu văn diễn tả sự kiện người
đàn bà xa lạ “rơi” vào cuộc đời Tràng “giữa cái ảnh tối sầm lại vì đói khát ấy, một buổi
chiều người trong xóm bỗng thấy Tràng về với một người đàn bà nữa”.
+ Nhớ lại chuyện lấy vợ: nhặt được vợ trên con đường đời thảm đạm. Một số phận bất
hạnh dạt vào cuộc đời một người bất hạnh.
+ Ứng xử trước phản ứng của mọi người:
Với đám trẻ: trước khi lấy vợ, Tràng giống như một đứa trẻ lớn tuổi thì bây♣ giờ Tràng
tách hẳn ra như một người trưởng thành.

Bảo vệ vợ mình trước con mắt tò mò của dân ngụ cư.♣
Đối thoại với vợ: toàn câu tỉnh lược, không có chủ ngữ♣ > tâm lí ngượng nghịu, sượng
sùng.
+ Diễn biến tâm trạng:
Liều, sợ.♣
Bao trùm là hạnh phúc.♣
Ứng xử với vợ:♣


o Lấy vợ như nhặt một mớ rác nhưng không hề rẻ rúng vợ, ngược lại Tràng không ít tế
nhị khi đi mua một số vật dụng làm của hồi môn cho vợ.
o Ý thức vun vén cho hạnh phúc mình đang có: mua dầu thắp.
o Chủ động giới thiệu vợ với mẹ đẻ> tránh cho người phụ nữ cảm giác ngượng ngùng và
mặc cảm theo không.
Hân hoan với niềm vui và trách nhiệm mới, hăm hở vun vén cho tổ ấm của♣ mình. Buổi
sớm đầu tiên có vợ, Tràng lâng lâng trong hạnh phúc “trong người êm ái lửng lơ như vừa
ở trong giấc mơ đi ra”, “ ngỡ ngàng như không phải”, thấy “thương yêu gắn bó với cái
nhà cảu hắng lạ lùng”, nghĩ về tổ ấm tương lai, quyết tâm vun vén cho nó.
Đoạn văn đậm chất thơ với giọng điệu trữ tình tha thiết. Ám ảnh về cái đói thoáng chốc
bay biến để chỉ còn cảm giác hạnh phúc
Bài học nhân sinh:
- Ngay trên bờ vực cái đói, khi tưởng như miếng ăn là nhu cầu bức thiết thì tình người,
giá trị con người và khao khát được yêu thương vẫn cao quí hơn cả và vẫn không bị mất
đi.
- Hạnh phúc làm thay đổi con người. Trong tăm tối khốn cùng, khát vọng được yêu
thương giống như một bản năng bất diệt vẫn cháy sáng.
- Đặt nhân vật trong tình huống đặc biệt, một mặt nhà văn lột tả được đời sống khổ cực
của người nông dân trong năm đói, mặt khác khám phá vẻ đẹp kì diệu nơi tâm hồn của
họ.
b. Người vợ nhặt

- Ngoại hình:
+ Quần áo: tả tơi như tổ đỉa.
+ Gầy sọp.
+ Mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai hố mắt.
+ Ngực gầy lép
Không có chút dấu hiệu gì của nữ tính.
- Ngôn ngữ:
+ Đanh đá, trơ trẽn của người dân nghèo ít học.


+ Cong cớn mà không nanh nọc, trơ trẽn nhưng không đĩ thõa. Cong cớn, trơ trẽn là sản
phẩm sinh ra từ đói nghèo, tăm tối, chứ không phải cái xấu, cái ác.
Tài năng trong sử dụng ngôn ngữ đối thoại.
Số phận đầy bất hạnh của người phụ nữ: xấu, nghèo, bị cái đói xô đẩy đến gần kề cái
chết, bị biến thành thân phận trôi dạt, cỏ rác, thành thứ có thể nhặt được.
- Là người phụ nữ tinh tế, hiền hậu.
+ Ý tứ: ngồi ở mép giường (liên hệ với Nguyệt trong “Mảnh trăng cuối rừng”).
+ Thể hiện trách nhiệm của cô con dâu, một người vợ hiền: quét dọn nhà cửa.
+ Ứng xử khi ăn bát chè khoán “đắng chát và nghẹn bứ”: “thản nhiên và vào miệng”.
c. Bà cụ Tứ
- Xuất hiện trong tình hướng đầy ngỡ ngàng: có một người phụ nữ ngồi ở mép giường
con trai mình > Chỉ có 2 khả năng: là em - con cái Đục nhưng cái Đục không còn nữa,
hoặc là vợ - không thể vì ai có thể chịu cưới con mình?
- Chuỗi tâm lí phức tạp chân thực:
+ Ngạc nhiên: “mắt nhoèn ra thì phải”: do rỉ mắt, nước mắt người già > Không tin vào
mắt, tai mình.
+ Cảm thông: sự từng trải một người mẹ, một phụ nữ lao động nghèo.
+ Sự hàm ơn đối với người phụ nữ vợ nhặt bởi: là mẹ bà không lo nổi mà phải để con tự
lấy vợ - người vợ theo không. “Mừng lòng” chứ không phải “bằng lòng”.
Bà cụ đang nói bằng tình bằng nghĩa chứ không phải bằng lí trí, quyền phép của một

người mẹ đối với con. Lời nói nghe vừa tội nghiệp vừa xót xa nhưng cũng chan chứa hồn
hậu yêu thương.
+ Tủi phận: ám ảnh về gia cảnh > Tự trách mình.
+ Bao trùm: cảm giác hạnh phúc, tin tưởng: nói nhiều về tương lai, khuôn mặt “rạng rỡ”,
chủ động tổ chức bữa tiệc đón con dâu mới - bữa cơm của tình người, của tấm lòng.
Đặt những ấp ủ về hạnh phúc, về tương lai vào trong suy nghĩ của bà mẹ, Kim Lân đã
dạo lên bài ca sự sống bất diệt. Bà mẹ nông dân với những nỗi tủi cực, khốn cùng trong
năm đói cũng là bà mẹ Việt Nam hồn hậu, vị tha, độ lượng, lạc quan trong ca dao dân ca
thủa nào.


3. Một số đặc sắc vè nghệ thuật
- Nghệ thuật sáng tạo tình huống, 2 giá trị:
+ Hiện thực: có 3 định nghĩa về vợ: vợ là thứ nhặt được (Kim Lân), vợ là của nợ đời
(hàng xóm), đèo bòng (Tràng) > Số phận thảm hại của con người trong ngày đói, người
vợ không khác gì một thứ cỏ rác trôi nổi trong họa đói.
+ Nhân đạo: trong tăm tối vẫn cháy lên khát vọng sống, khát vọng yêu thương mãnh liệt.
- Khung cảnh: mở là chiều chạng vạng với sự xâm tràn của bóng tối > kết: bình minh với
dự cảm tương lai tươi sáng.
- Bút pháp
+ Miêu tả tâm lí: am hiểu tâm lí con người, đặc biệt là tâm lí bà mẹ nông dân.
+ Tương phản: sự sống và cái chết.
- Ngôn ngữ: đối thoại tài tình > thạo hiểu tâm lí, tính cách, lời ăn tiếng nói của người lao
động.
CỦNG CỐ KIẾN THỨC
Đề 1: Phân tích tình huống trong “Vợ nhặt” của Kim Lân.
Đề 2: Phân tích ý nghĩa nhan đề truyện ngắn “ Vợ nhặt” của Kim Lân.
Đề 3: Phân tích hình tượng nhân vật Tràng.
Đề 4: Phân tích hình tượng nhân vật Tràng để làm sáng tỏ giá trị nhân đạo độc đáo trong
tác phẩm.

Đề 5: Phân tích hình tượng nhân vật người phụ nữ vợ nhặt trong “Vợ nhặt”.
Đề 6: Phân tích hình tượng nhân vật người phụ nữ vợ nhặt để làm sáng tỏ giá trị nhân đạo
độc đáo của tác phẩm.
Đề 7: Phân tích diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ trong truyện ngắn “Vợ nhặt”.
Đề 8: Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn “Vợ nhặt”.
Đề 9: So sánh hình tượng người phụ nữ vợ nhặt trong “Vợ nhặt” của Kim Lân và Mị
trong “Vợ chồng A Phủ”.
Gợi ý giải đề:


Đ ề 1: Phân tích tình huống.
+ Giới thuyết về tình huống:
- Là gì: “lát cắt trăm năm của đời thảo mộc” (Nguyễn Minh Châu) > qua đó bộc lộ rõ
nhất tính cách nhân vật.
- Vai trò:
Phần nào khẳng định tài năng nghệ sĩ.ο
Là dấu hiệu của những tác phẩm có giá trị.ο
Lấy ví dụ: Nguyễn Tuân với “Chữ người tử tù”, Thạch Lam với “Hai đứa trẻ”, Nguyễn
Minh Châu với "Mảnh trăng cuối rừng”, …
+ Phân tích:
- Khái quát tình huống.
- Mô tả diễn biến.
- Ý nghĩa.
Đề 2: Phân tích ý nghĩa nhan đề.
+ Vai trò của nhan đề trong tác phẩm văn học.
+ Mô tả.
+ Ý nghĩa:
- Gợi mở tình huống lạ, éo le trong tác phẩm: phân tích khái quát > thể hiện niềm cảm
thông sâu xót của nhà văn với số phận, cảnh ngộ người nông dân trong năm đói.
- Gây tò mò, tạo tính hấp dẫn cho tác phẩm.

Đề 3 - 5:
Phân tích hình tượng nhân vật Tràng.
Phân tích hình tượng nhân vật người phụ nữ vợ nhặt.
Với mỗi nhân vật cần làm nổi rõ các ý sau:
+ Số phận bất hạnh > đánh giá:


- Thể hiện cái nhìn hịên thực sâu sắc (giá trị hiện thực).
- Niềm cảm thông chân thành, sâu xót của nhà văn (nhân đạo).
+ Vẻ đẹp tâm hồn, đặc biệt là khao khát sống mãnh liệt ngay cả khi chấp chới bên bờ vực
của cái chết > thể hiện:
- Tấm lòng trân trọng và tin yêu của Kim Lân.
- Góp phần tạo nên nét độc đáo trong giá trị nhân đạo của tác phẩm (so sánh ở mức độ
tổng hợp, khái quát).
Đề 4 - 6:
Phân tích hình tượng nhân vật Tràng để làm sáng tỏ giá trị nhân đạo độc đáo..
Phân tích hình tượng nhân vật người phụ nữ vợ nhặt để làm sáng tỏ giá trị nhân đạo độc
đáo.
+ Lưu ý:
- Giới thiệu được vị trí của nhân vật trong tác phẩm.
- Trong quá trình phân tích có thể so sánh với hai nhân vật còn lại để thấy được điểm
riêng của mỗi nhân vật đồng thời làm sáng tỏ giá trị độc đáo, nét khác biệt so với tác
phẩm khác cùng đề tài và giàu giá trị nhân đạo.
- Tránh đồng nhất với kiểu bài phân tích nhân vật: khi phân tích đặc điểm của mỗi nhân
vật phải gắn chặt với các biểu hiện độc đáo của giá trị nhân đạo và đánh giá
+ Cách phân tích: có thể phân tích theo đặc điểm nhân vật, từ đặc điểm đó phân tích biểu
hiện của giá trị nhân đạo và đánh giá.
+ Dựa vào gợi ý của đề 8 và đề 3-5 để làm.
Đề 8: Phân tích giá trị nhân đạo.
+ Khái quát

- Giới thuyết về giá trị nhân đạo
• Là gì? Yêu thương con người.
• Vai trò: góp phần


Thể hiện tầm vóc tư tưởng nhà văn (“Nhà văn chân chính là nhà nhân đạo từο trong cốt
tuỷ” – Biêlinxki)
Xác lập vị trí văn học sử cho tác phẩm.ο
• Biểu hiện:
Phê phán những thế lực gây ra đau khổ cho con người.ο
Cảm thông với những kiếp người nhỏ bé, bất hạnh.ο
Khám phá và ngợi ca vẻ đẹp, sức sống của nhân vật, hướng tới tương lai tươiο sáng.
- Giá trị nhân đạo trong “Vợ nhặt” bộc lộ sâu sắc và cảm động qua 3 nhân vật: Tràng,
người phụ nữ vợ nhặt và bà cụ Tứ.
+ Phân tích:
- Sự cảm thông chân thành trước cảnh ngộ khốn cùng và số phận bất hạnh củ người nông
dân trước thảm hoạ cái đói năm 1945.
• Bối cảnh 3 nhân vật xuất hiện: làng quê Việt Nam ngày đói (phân tích khái quát)
• Tấm lòng cảm thông sâu xót dành cho nhân vật:
Tràngο
Cô vợ nhặtο
Bà cụ Tứο
Am hiểu sâu s ắc, miêu tả chân thực với tấm lòng trắc ẩn tha thiết.
- Trân trọng, tin tưởng khám phá những vẻ đẹp tâm hồn và khao khát sống mãnh liệt của
những con người bị cái đói đẩy vào hoàn cảnh “cùng đường tuyệt lộ”
Tràngο
Cô vợ nhặtο
Bà cụ Tứο
- Niềm tin qua dự cảm tương lai tươi sáng:
• Cấu trúc không gian: mở ra là bóng tối chạng vạng > khép lại là bình minh.



• Tương quan đối lập: cái chết và sự sống, càng về cuối, sự sống tuy nhỏ nhoi nhưng âm
ỉ, dần đầy thêm mãi.
• Chi tiết lá cờ.
+ Đánh giá:
- Chốt ý
- So sánh:
• Với các cây bút của dòng văn học hiện thực phê phán (cùng miêu tả người nông dân
trong đói khổ bần hàn nhưng cách nhìn khác nhau như thế nào về tương quan giữa con
người và hoàn cảnh)
• Với các cây bút cùng thời (Tô Hoài, Nguyễn Công Hoan) > cho thấy:
Nét chung chứng minh đặc điểm thi pháp văn học cách mạng.ο
Nét độc đáo của giá trị nhân đạo trong tác phẩm.ο
• Khẳng định: giá trị nhân đạo đã làm nên tầm vóc tư tưởng Kim Lân và vị trí văn học sử
của tác phẩm như thế nào?
Đề 9 (dành cho học sinh khá giỏi)
- So sánh dựa trên các tiêu chí
+ Đề tài.
+ Hoàn cảnh ra đời tác phẩm
+ Vị trí nhân vật
Trong tác phẩm
Với việc xác lập tầm vóc tư tưởng nghệ thật và giá trị tác phẩm.
+ Số phận.
+ Vẻ đẹp tâm hồn
- Lưu ý:
+ Phân tích điểm giống > khái quát thành đặc điểm thi pháp văn học cách mạng.



×