TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
KHÓA 2011 – 2015
ĐỀ TÀI
XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH
TRONG LĨNH VỰC ĐĂNG KÝ
VÀ QUẢN LÝ HỘ TỊCH
Cán bộ hƣớng dẫn:
NGUYỄN LAN HƢƠNG
Sinh viên thực hiện:
TRỊNH THỊ MỘNG CẦM
Mã số SV: 5117372
Lớp: HG1163A1
CẦN THƠ – 12/2014
Lời cảm ơn
Trước tiên, em muốn gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến Cô
Nuyễn Lan Hương, người đã tận tình hướng dẫn, đã tạo mọi
điều kiện, động viên và giúp đỡ em trong suốt quá trình thực
hiện luận văn tốt nghiệp. Sự hiểu biết sâu sắc về Luật hành
chính, cũng như kinh nghiệm của cô chính là tiền đề giúp em
đạt được kết quả tốt và kinh nghiệm quý báu cho em sau này.
Em xin cảm ơn chân thành đến các thầy, cô đã giảng
dạy em trong bốn năm qua, những kiến thức mà em nhận
được trên giảng đường đại học sẽ là hành trang giúp em vững
bước trong tương lai.
Cuối cùng, em cũng xin cảm ơn bạn bè và gia đình đã
luôn bên em, cổ vũ và động viên em những lúc khó khăn để
có thể vượt qua và hoàn thành tốt luận văn này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh Viên
Trịnh Thị Mộng Cầm
2
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƢỚNG DẪN
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
Cần Thơ, Ngày........tháng........năm 2014
Giảng viên hƣớng dẫn
(ký và ghi họ tên)
3
Mục lục
MỞ ĐÀU ........................................................................................................................... 5
CHƢƠNG 1 ........................................................................ Error! Bookmark not defined.
KHÁI QUÁT VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH VỀ ĐĂNG KÝ VÀ
QUẢN LÝ HỘ TỊCH ..................................................................................................... 8
1.1. Khái quát về vấn đề đăng ký và quản lý hộ tịch .................................................. 8
1.1.1. Khái niệm hộ tịch, đăng ký hộ tịch, quản lý hộ tịch ....................................... 8
1.1.2. Phạm vi đăng ký hộ tịch và các sự kiện hộ tịch phải đăng ký ...................... 10
1.1.3. Vị trí, vai trò, ý nghĩa của hoạt động đăng ký và quản lý hộ tịch................. 11
1.2. Khái quát về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đăng ký và quản lý hộ
tịch ................................................................................................................................. 12
1.2.1. Khái niệm về vi phạm hành chính và vi phạm hành chính trong lĩnh vực đăng
ký và quản lý hộ tịch ................................................................................................. 12
1.2.2. Đặc điểm của vi phạm hành chính trong lĩnh vực đăng ký và quản lý hộ tịch
................................................................................................................................... 14
1.2.3. Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực đăng ký và quản lý hộ tịch ......................................................................... 15
1.2.4. Nguyên tắc của việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đăng ký và
quản lý hộ tịch .......................................................................................................... 17
1.2.5. Vai trò và ý nghĩa của việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đăng ký
và quản lý hộ tịch...................................................................................................... 19
1.2.6. Sơ lược quá trình phát triển của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực đăng ký và quản lý hộ tịch ......................................................................... 20
CHƢƠNG 2 ...................................................................................................................... 21
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH VỀ ĐĂNG
KÝ VÀ QUẢN LÝ HỘ TỊCH......................................................................................... 22
2.1. Các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực đăng ký và quản lý hộ tịch . 22
2.1.1. Hành vi vi phạm quy định về đăng ký khai sinh ........................................... 22
2.1.2. Hành vi vi phạm quy định về đăng ký kết hôn và môi giới kết hôn ............. 24
2.1.3. Hành vi vi phạm quy định về tổ chức và hoạt động của trung tâm tư vấn, hỗ trợ
hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài ............................................................ 26
2.1.4. Hành vi vi phạm quy định về cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân ........ 28
2.1.5. Hành vi vi phạm quy định về đăng ký khai tử............................................... 28
2.1.6. Hành vi vi phạm quy định về đăng ký giám hộ ............................................. 30
2.1.7. Hành vi vi phạm quy định về đăng ký việc nhận cha, mẹ, con .................... 30
2.1.8. Hành vi vi phạm quy định về thay đổi, cải chính hộ tịch ............................. 31
2.1.9. Hành vi vi phạm quy định về xác định lại dân tộc, xác định lại giới tính ... 31
2.1.10. Hành vi vi phạm về quản lý, sử dụng giấy tờ hộ tịch.................................. 32
2.2. Các hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả ................................. 32
2.2.1. Hình thức xử phạt chính ................................................................................ 32
2.2.2. Hình thức xử phạt bổ sung ............................................................................ 34
2.2.3. Biện pháp khắc phục hậu quả ....................................................................... 35
2.3. Thẩm quyền xử phạt ............................................................................................ 36
2.3.1. Thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính ............................................ 36
2.3.2. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Chủ tịch Ủy ban nhân dân các
cấp ............................................................................................................................. 37
2.3.3. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của cơ quan Thanh tra Tư pháp38
2.3.4. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của cơ quan đại diện ngoại giao, cơ
quan lãnh sự, cơ quan khác được quỷ quyền chức năng lãnh sự của nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài ............................................................... 39
2.3.5. Thẩm quyền phạt tiền đối với hành vi vi phạm của tổ chức......................... 39
4
2.4. Trình tự, thủ tục trong đăng ký và quản lý hộ tịch ........................................... 39
2.4.1. Trình tự, thủ tục đăng ký khai sinh ............................................................... 39
2.4.2. Trình tự, thủ tục đăng ký kết hôn .................................................................. 43
2.4.3. Trình tự, thủ tục đăng ký khai tử................................................................... 44
24.4. Trình tự, thủ tục đăng ký việc nuôi con nuôi ................................................. 45
2.4.5. Trình tự, thủ tục đăng ký giám hộ ................................................................. 47
2.4.6. Trình tự, thủ tục đăng ký việc nhân cha, mẹ, con ........................................ 48
2.4.7. Trình tự, thủ tục đăng ký việc thay đổi, cải chính, bổ sung và điều chỉnh hộ tịch
................................................................................................................................... 49
2.4.8. Trình tự, thủ tục đăng ký quá hạn, đăng ký lại ............................................ 50
CHƢƠNG 3 ...................................................................................................................... 52
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH
CHÍNH VỀ ĐĂNG KÝ VÀ QUẢN LÝ HỘ TỊCH ....................................................... 53
3.1. Tình hình vi phạm hành chính trong lĩnh vực đăng ký và quản lý hộ tịch ..... 53
3.1.1. Trong lĩnh vực đăng ký khai sinh, khai tử .................................................... 53
3.1.2. Trong lĩnh vực đăng ký kết hôn ..................................................................... 54
3.1.3. Trong lĩnh vực đăng ký nuôi con nuôi .......................................................... 55
3.2. Nguyên nhân của việc vi phạm hành chính trong lĩnh vực đăng ký và quản lý hộ
tịch ................................................................................................................................. 56
3.3. Thực trạng xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đăng ký và quản lý hộ tịch
....................................................................................................................................... 59
3.4. Những bất cập trong xử phạt hành chính trong lĩnh vực đăng ký và quản lý hộ
tịch ................................................................................................................................. 60
3.5. Nguyên nhân của các bất cập trong xử phạt hành chính về lĩnh vực đăng ký và
quản lý hộ tịch .............................................................................................................. 61
3.6. Phƣơng hƣớng hoàn thiện hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
đăng ký và quản lý hộ tich .......................................................................................... 62
KẾT LUẬN ...................................................................................................................... 64
5
MỞ ĐẦU
Đăng ký và quản lý hộ tịch là một trong những lĩnh vực trọng yếu của nền hành
chính mà mọi quốc gia, dù ở bất kỳ chế độ chính trị với trình độ phát triển như thế nào
cũng đều quan tâm. Một Chính phủ muốn hoạt động hiệu quả không thể không nắm
chắc và cập nhật thường xuyên các thông tin, dữ liệu về dân cư có được từ hoạt động
đăng ký và quản lý hộ tịch hộ tịch. Hộ tịch là một trong những vấn đề trung tâm của
hoạt động quản lý nhà nước về dân cư. Những sự kiện về đăng ký và quản lý hộ tịch là
một trong vấn đề nóng và cấp thiết của nước ta hiện nay. Từ thời phong kiến cho đến
nay, đăng ký và quản lý hộ tịch luôn được coi trọng như một công cụ của nhà nước để
bảo vệ quyền nhân thân và hoạch định các chính sách kinh tế - xã hội. Đăng ký và
quản lý hộ tịch là những dữ liệu cần có trong mọi bài toán hoạch định chính sách phát
triển kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng. Mặt khác, nó là hoạt động thể hiện tập
trung, sinh động mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân.
Để quản lý dân cư, mỗi quốc gia có những phương thức quản lý khác nhau nhưng
đều hướng đến mục đích quản lý một cách đầy đủ, kịp thời, chính xác các dữ liệu về
đặc điểm nhân thân cơ bản của từng công dân. Ở Việt Nam, đăng ký và quản lý hộ tịch
được xác định là khâu trung tâm của toàn bộ hoạt động quản lý dân cư. Với những giá
trị tiềm tàng như vậy, công tác đăng ký và quản lý hộ tịch đã khẳng định vai trò vô
cùng quan trọng của nó trong tiến trình phát triển của xã hội.
Thông qua nhiều văn bản pháp lý khác nhau, Nhà nước đã thực hiện việc quản lý hộ
tịch trong từng giai đoạn với những phương pháp và cách thức khác nhau đều đã thể
hiện rõ quan điểm, mục đích và những quy định cụ thể của Nhà nước ta về đăng ký và
quản lý hộ tịch. Tuy nhiên, do hạn chế trong quá trình nhận thức ở từng thời điểm, Nhà
nước mà trực tiếp là Chính phủ chưa bao quát hết và dự liệu được tất cả mọi vấn đề
nảy sinh trong thực tiễn đăng ký và quản lý hộ tịch cũng như xu hướng vận động của
các vấn đề hộ tịch. Nhiều sự kiện về đăng ký và quản lý hộ tịch phức tạp phát sinh ở
cơ sở không thể hoặc không được giải quyết do pháp luật chưa quy định. Những quy
định của pháp luật cũng chưa bám sát thực tiễn hoàn toàn, còn bộc lộ nhiều “kẽ hở”,
quy định đơn giản, sơ sài, không thống nhất, gây phiền hà cho người dân cũng như khó
khăn cho chính những cán bộ, công chức thừa hành khi áp dụng pháp luật.
Nhìn vào thực trạng đăng ký và quản lý hộ tịch ở Việt Nam và đặt trong sự so sánh
với các quốc gia trong khu vực, chúng ta không thể không lo ngại trước những bất cập
của thực tiễn đăng ký và quản lý hộ tịch cả về nhận thức và hành động, cả về hành
lang pháp lý , năng lực và trình độ quản lý. Mặc dù hoạt động đăng ký và quản lý hộ tịch
đã có quá trình phát triển đáng kể và đã có sự vận động tích cực trong những năm gần đây
6
nhưng việc quản lý “đầy đủ, chính xác, kịp thời” các thông tin hộ tịch vẫn là mục tiêu đầy
khó khăn đặt ra đối với các cơ quan quản lý Nhà nước.
Hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đăng ký và quản lý hộ tịch,
hộ khẩu có lẽ không phải là một vấn đề mới đối với các cơ quan quản lý hành chính
nhà nước nhưng sự diễn biến trong thực tiễn của hoạt động này đang chỉ ra những khó
khăn, vướng mắc nhất. Những khó khăn, vướng mắc đó xuất phát từ nhiều nguyên
nhân, cả chủ quan lẫn khách quan, với mục đích nghiên cứu, tìm hiểu, để phần nào giải
thích được một số vấn đề về lý luận và thực tiễn trong lĩnh vực hộ tịch, tôi xin lựa
chọn đề tài “Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đăng ký và quản lý hộ
tịch” làm luận văn tốt nghiệp.
7
CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH VỀ
ĐĂNG KÝ VÀ QUẢN LÝ HỘ TỊCH
1.1. Khái quát về vấn đề đăng ký và quản lý hộ tịch
1.1.1. Khái niệm hộ tịch, đăng ký hộ tịch, quản lý hộ tịch
1.1.1.1. Khái niệm hộ tịch
Đối với khái niệm hộ tịch, thì từ trước đến nay vẫn tồn tại khá nhiều quan niệm
khác nhau. Có quan niệm cho rằng: Hộ tịch là sổ biên chép các việc liên hệ đến các
người trong nhà. Hộ tịch gồm ba sổ để ghi chép các sự khai giá thú, khai sinh, khai
tử1. Quan niệm trên còn khá đơn giản và chưa thể hiện rõ ràng những sự việc liên quan
đến hộ tich. Đến khi Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 của Chính phủ về
đăng ký hộ tịch ra đời thì quan niệm rằng: Hộ tịch là những sự kiện cơ bản xác định
tình trạng nhân thân của một người từ khi sinh ra đến khi chết2. Quan niệm này thể
hiện một cách rõ ràng và thấu đáo được quy định cụ thể trong văn bản pháp luật.
Theo đó, hộ tịch không chỉ bao gồm các sự kiện đơn thuần như sinh, kết hôn, tử
mà nó bao gồm các sự kiện cơ bản như: sinh; tử; kết hôn; nuôi con nuôi; giám hộ;
nhận cha, mẹ, con; thay đổi họ, tên, chữ đệm; cải chính họ, tên, chữ đệm, ngày, tháng,
năm sinh; xác định lại dân tộc. Các sự kiện hộ tịch này được xem là các sự kiện cơ
bản, bởi nó có thể làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ pháp
lý của cá nhân.
Kế thừa Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 của Chính phủ về đăng ký
hộ tịch, pháp luật hiện hành về hộ tịch cũng định nghĩa hộ tịch tương tự. Theo Điều 1,
Nghị định 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ
tịch (sau đây gọi tắt là Nghị định 158/2005/NĐ-CP)3 quy định: Hộ tịch là những sự
kiện cơ bản xác định tình trạng nhân thân của một người từ khi sinh ra đến khi chết.
1.1.1.2. Khái niệm đăng ký hộ tịch
Theo quy định tại khoản 2 Điều 1 Nghị định 158/2005/NĐ-CP thì đăng ký hộ tịch
được hiểu là hành vi xác nhận các sự kiện hộ tịch và hành vi ghi vào sổ đăng ký hộ tịch
các thay đổi về hộ tịch. Cụ thể quy định như sau:
1
Vũ Văn Mẫu, Lê Đình Chân - Danh từ tài liệu dân Luật và Hiến Luật, Tủ sách đại học Sài gòn, 1968.
Điều 1, Nghị định số 83/1998/NĐ-CP.
3
Nghị định này thay thế cho Nghị định số 83 ngày 10/10/1998.
2
8
Đăng ký hộ tịch theo quy định của Nghị định này là việc cơ quan nhà nước có thẩm
quyền:
Xác nhận các sự kiện: sinh; kết hôn; tử; nuôi con nuôi; giám hộ; nhận cha, mẹ,
con; thay đổi, cải chính, bổ sung, điều chỉnh hộ tịch; xác định lại giới tính; xác định
lại dân tộc;
Căn cứ vào quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, ghi vào sổ hộ tịch
các việc: xác định cha, mẹ, con; thay đổi quốc tịch; ly hôn; hủy việc kết hôn trái pháp
luật; chấm dứt nuôi con nuôi.
Theo quy định trên thì hành vi đăng ký hộ tịch được phân thành 2 loại hành vi cơ
bản sau: Hành vi xác nhận các sự kiện hộ tịch và hành vi ghi vào sổ đăng ký hộ tịch các
thay đổi về hộ tịch. Xác nhận là việc cơ quan đăng ký hộ tịch ghi các sự kiện hộ tịch
vào Sổ đăng ký hộ tịch gốc và cấp cho đương sự Giấy chứng nhận về các sự kiện đó.
Còn hành vi ghi là việc cơ quan đăng ký hộ tịch ghi chú vào Sổ đăng ký hộ tịch các
thay đổi về hộ tịch như ly hôn, xác định cha, mẹ, con, thay đổi quốc tịch, mất tích, mất
năng lực hành vi dân sự, hạn chế năng lực hành vi dân sự, huỷ hôn nhân trái pháp luật,
hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên...Đối với hành vi ghi chú, thì
cơ quan có thẩm quyền đăng ký hộ tịch phải căn cứ vào các quyết định đã có hiệu lực
pháp luật của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Bản thân hành vi ghi chú không làm
phát sinh hiệu lực pháp lý bởi vì các quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
đã đem lại hiệu lực pháp lý cho các thay đổi về hộ tịch đó. Đây chính là điểm khác biệt
giữa hai hành vi đăng ký hộ tịch.
1.1.1.3. Khái niệm quản lý hộ tịch
Quản lý hộ tịch là công việc thường xuyên của các cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền thực hiện để theo dõi thực trạng và sự biến động về hộ tịch, nhằm bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp, của cá nhân, tổ chức, tạo cơ sở xây dựng, phát triển kinh tế, xã
hội, an ninh quốc phòng và chính sách dân số, kế hoạch hóa gia đình.
Hoạt động quản lý hộ tịch hướng đến đối tượng quản lý là các sự kiện xác định tình
trạng nhân thân của con người từ khi sinh ra đến khi chết. Những sự kiện này phải được
sự xác nhận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và được tiến hành theo một trình tự
thủ tục rất chặt chẽ.
Các cơ quan có thẩm quyền trong việc quản lý hộ tịch bao gồm: Bộ tư pháp giúp
chính phủ thống nhất quản lý hộ tịch, Bộ ngoại giao, Ủy ban nhân dân các cấp, Cơ
quan đại diện ngoại giao, Cơ quan lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài.
Đăng ký hộ tịch và quản lý hộ tịch là 2 khái niệm khó có thể tách rời nhau vì đăng
ký hộ tịch là một trong những yếu tố cơ bản của hoạt động quản lý hộ tịch. Bên cạnh
việc đăng ký hộ tịch, để phục vụ cho hoạt động quản lý, cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền còn thực hiện rất nhiều nhiệm vụ khác như: xây dựng pháp luật về hộ tịch;
9
hướng dẫn chỉ đạo nghiệp vụ chuyên môn về hộ tịch; ban hành và quản lý các loại sổ
sách, biểu mẫu hộ tịch; thống kê hộ tịch; thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại tố
cáo về hộ tịch...
1.1. 2. Phạm vi đăng ký hộ tịch và các sự kiện hộ tịch phải đăng ký
1.1.2.1. Phạm vi đăng ký hộ tịch
Phạm vi đăng ký hộ tịch bao gồm: đăng ký khai sinh; đăng ký khai tử; đăng ký kết
hôn; đăng ký nuôi con nuôi; đăng ký việc giám hộ; đăng ký việc nhận cha, mẹ, con;
đăng ký các việc thay đổi, cải chính hộ tịch, ghi vào sổ các thay đổi hộ tịch khác. Phạm
vi của quản lý hộ tịch bao gồm cả đối tượng là công dân Việt Nam, người Việt
Nam định cư ở nước ngoài và người nước ngoài có những quan hệ hộ tịch thuộc phạm
vi điều chỉnh của pháp luật Việt Nam
Bất kỳ một sự kiện hộ tịch nào kể trên cũng đều phải được đăng ký tại cơ quan có
thẩm quyền của nhà nước. Đối với những thay đổi hộ tịch trên cơ sở quyết định đã có
hiệu lực pháp luật của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, thì không phải thực hiện việc
đăng ký mà cơ quan có thẩm quyền đăng ký hộ tịch sẽ thực hiện việc ghi vào sổ nội
dung các thay đổi hộ tịch. Các thay đổi hộ tịch thường bao gồm các việc về ly hôn; xác
định cha, mẹ, con; thay đổi quốc tịch; mất tích; mất năng lực hành vi dân sự; hủy hôn
nhân trái pháp luật; hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên.
Đối với một số sự kiện, nếu đã đăng ký nhưng có yêu cầu thay đổi, cải chính thì cá
nhân vẫn phải thực hiện thủ tục đăng ký việc thay đổi, cải chính đó. Việc đăng ký thay
đổi, cải chính hộ tịch được áp dụng đối với việc thay đổi họ, tên, chữ đệm; cải chính
họ, tên, chữ đệm, ngày tháng năm sinh; xác định lại dân tộc.
Đối với các
việc sinh, tử chưa đăng ký trong trong thời hạn luật định, thì pháp luật cũng bắt buộc
cá nhân, tổ chức phải thực hiện việc đăng ký theo thủ tục đăng ký quá hạn, bất kể thời
gian quá hạn kéo dài bao lâu. Đối với các việc sinh, tử, kết hôn, nhận nuôi con nuôi đã
được đăng ký, nhưng bản chính và sổ gốc đã bị mất hoặc hư hỏng, thì cá nhân, tổ chức
có thể thực hiện thủ tục đăng ký lại.
1.1.2.2. Các sự kiện hộ tịch phải đăng ký
Theo quy định của pháp luật thì sự kiện hộ tịch phải đăng ký bao gồm các sự kiện
sau:
Đăng ký khai sinh: Cha, mẹ, hoặc người thân thích, người có trách nhiệm phải đi
đăng ký khai sinh cho trẻ em để bảo đảm việc đăng ký khai sinh cho trẻ được kịp thời
và đầy đủ theo pháp luật hộ tịch quy định. Nếu quá thời hạn quy định, thì cũng phải
đăng ký khai sinh theo thủ tục đăng ký khai sinh quá hạn.
Đăng ký khai tử: được hiểu là hành vi khai báo của người thân của người mới
chết hoặc những người có trách nhiệm khác trước cơ quan quản lý Nhà nước ở địa
phương theo trình tự và thủ tục do luật định. Thời hạn đăng ký khai tử đã được quy
10
định khá cụ thể tại Điều 20 Nghị định 158/2005/NĐ-CP. Pháp luật cho phép đăng ký
khai tử quá hạn nếu như việc đăng ký chưa được tiến hành trong thời gian đã được quy
định.
Đăng ký kết hôn: được hiểu là việc một người nam và một người nữ thực hiện việc
khai báo trước cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để được xác nhận quan hệ vợ chồng của
họ theo các yêu cầu về điều kiện, trình tự, thủ tục, nghi thức do pháp luật quy định.
Đăng ký nuôi con nuôi: được hiểu là hành vi của những người không phải là cha
mẹ ruột của đứa trẻ, thực hiện việc khai báo trước cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
nhằm thiết lập quan hệ cha mẹ nuôi con nuôi với đứa trẻ đó theo trình tự, thủ tục do
luật định.
Đăng ký việc nhận cha, mẹ, con: theo quy định của pháp luật thì việc nhận cha,
mẹ, con được thực hiện, nếu bên nhận, bên được nhận là cha, mẹ, con còn sống vào
thời điểm đăng ký nhận cha, mẹ, con và việc nhận cha, mẹ, con là tự nguyện và không
có tranh chấp.4
Giám hộ: Theo quy định tại Bộ luật dân sự 2005, Giám hộ là việc cá nhân, tổ
chức (gọi chung là người giám hộ) được pháp luật quy định hoặc được cử để chăm sóc
và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực
hành vi dân sự (gọi là người được giám hộ).
Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi con
nuôi và người được nhận làm con nuôi.5 Bảo đảm cho người được nhận làm con nuôi
được trông nom nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục phù hợp với đạo đức xã hội. Kể từ
thời điểm đăng ký việc nuôi con nuôi, khi mà các bên trở thành cha mẹ nuôi và con
nuôi của nhau thì giữa các bên có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với
con và ngược lại của con đối với cha mẹ theo quy định của pháp luật.
1.1.3. Vị trí, vai trò, ý nghĩa của hoạt động đăng ký và quản lý hộ tịch
Công tác đăng ký và quản lý hộ tịch là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của
chính quyền các cấp, nhằm theo dõi thực trạng và sự biến động của cộng đồng dân cư
nói chung và của từng cá nhân nói riêng thì Nhà nước mới có thể đưa ra được các biện
pháp đúng đắn và phù hợp để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân cũng như
để quản lý Nhà nước và xã hội. Các số liệu thống kê về hộ tịch là một trong những căn
cứ chủ yếu để Nhà nước thống kê và phân tích dân cư, nghiên cứu khoa học, hoạch
định các chính sách về an ninh quốc phòng, dân số - kế hoạch hoá gia đình, các chính
sách phát triển kinh tế - xã hội.
Nhận thức được vị trí và vai trò quan trọng của công tác đăng ký và quản lý hộ tịch
mà trong 7 năm qua từ khi thực hiện Nghị định 158/2005/NĐ-CP đã có nhiều chuyển
4
5
Khoản 1, Điều 32 Nghị định 158/ 2005/NĐ-CP.
Khoản 4, Điều 3 Luật nuôi con nuôi năm 2010.
11
biến tích cực, các sự kiện đăng ký hộ tịch của nhân dân cơ bản được thực hiện kịp thời
và đúng quy định của pháp luật; công tác phổ biến giáo dục pháp luật về hộ tịch được
chú trọng triển khai đến tận cơ sở. Nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật về hộ tịch
của nhân dân được nâng lên; đội ngủ cán bộ làm công tác hộ tịch cơ sở được quan tâm,
củng cố về số lượng và kỹ năng thực hiện nghiệp vụ; các loại sổ sách, biễu mẫu hộ tịch
được hỗ trợ và cung cấp kịp thời đáp ứng yêu cầu quản lý Nhà nước.
Đăng ký hộ tịch cũng là căn cứ pháp lý để mỗi cá nhân hưởng các quyền và thực
hiện nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước. Đồng thời để phân biệt cá nhân này với cá
nhân khác thông qua các yếu tố về nhân thân của họ. Thông qua việc đăng ký hộ tịch,
thể hiện sự xác nhận của Nhà nước đối với các sự kiện hộ tịch và Nhà nước có trách
nhiệm bảo hộ các quan hệ phát sinh từ các sự kiện đó. Mọi hành vi xâm phạm đến các
quan hệ này sẽ bị Nhà nước áp dụng các biện pháp xử lý thích hợp. Tuy nhiên, để
được hưởng quyền bảo hộ thì cá nhân cũng đồng thời phải có nghĩa vụ thực hiện việc
đăng ký đó.
1.2. Khái quát về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đăng ký và quản lý
hộ tịch
1.2.1. Khái niệm về vi phạm hành chính và vi phạm hành chính trong lĩnh vực
đăng ký và quản lý hộ tịch
1.2.1.1. Khái niệm vi phạm hành chính
Vi phạm hành chính là một phạm trủ triết lý có ý nghĩa quan trọng trong thực tiễn
của hoạt động hành pháp ở nước ta, được khoa học luật hành chính nghiên cứu như
một đối tượng, nội dung cơ bản. Xét về mặt lý luận, vi phạm hành chính là một dạng
cụ thể của vi phạm pháp luật, đây là một loại vi phạm trong lĩnh vực quản lý Nhà
nước. Tuy không nghiêm trọng như tội phạm song là vi phạm rất phổ biến xảy ra trong
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và tính nghiêm trọng ngày một gia tăng, với những
hành vi kéo dài. Chẳng hạn như: “ giết sông Thị Vải của VEDAN”, “ đầu độc sông
Hồng của MIWON” và rất nhiều những hành vi khác gây tác hại đến trật tự quản lý
hành chính. Vì vậy công tác đấu tranh phòng chống vi phạm hành chính luôn là vấn đề
được xã hội quan tâm.
Việc đưa ra khái niệm vi phạm hành chính nhằm nêu ra sự khác biệt giữa vi phạm
hành chính với tội phạm và các loại vi phạm pháp luật khác và xác định được những
hành vi vi phạm hành chính cụ thể. Đồng thời, thông qua đó xác định được trách
nhiệm hành chính cho các chủ thể vi phạm hành chính dưới các hình thức xử phạt, các
biện pháp hành chính khác,…Hành vi vi phạm hành chính tư trước đến nay đã được
quy định ở nhiều văn bản khác nhau. Một số văn bản chủ yếu là:
Trước khi Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính ban hành ngày 30/11/1989 thì
hành vi vi phạm pháp luật hành chính không gọi là vi phạm hành chính mà gọi là vi
12
cảnh. Từ sau ngày 30/11/1989 đến khi Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính được ban
hành ngày 6/7/1995 thì hành vi này được gọi là vi phạm hành chính. Trong Pháp lệnh
xử lý vi phạm hành chính 1995 cũng như Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002
không đưa ra khái niệm vi phạm hành chính mà chỉ đưa ra khái niệm xử lý vi phạm
hành chính, bao gồm:
- Xử phạt vi phạm hành chính;
- Các biện pháp xử lý vi phạm hành chính khác.6
Đến khi Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 ra đời thì mới có khái niệm một
cách cụ thể và rõ ràng về vi phạm hành chính. Theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật
xử lý vi phạm hành chính năm 2012 thì vi phạm hành chính là hành vi có lỗi do cá
nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà
không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành
chính.
Ví dụ: Chị C đi xe gắn máy và vượt đèn đỏ của đèn tín hiệu giao thông khi qua
ngã tư vì sợ trễ giờ làm. Hành vi vượt đèn đỏ của chị C là hành vi vi phạm hành chính
về an toàn giao thông.
Hành vi vi phạm hành chính được xác định là hành vi vi phạm mà cá nhân hoặc tổ
chức khi vi phạm do lỗi cố ý hay vô ý đều được xác định là hành vi vi phạm hành
chính. Vi phạm hành chính có mức độ nguy hiểm cho xã hội thấp hơn so với tội hình
sự. Vi phạm hành chính khác với tội vi phạm hình sự và mức độ nguy hiểm của hành
vi vi phạm. Tính chất nguy hiểm của hành vi phụ thuộc vào khả năng gây thiệt hại của
hành vi. Nếu khả năng này lớn thì tính nguy hểm của hành vi cao và ngược lại mức độ
nguy hiểm của hành vi phụ thuộc vào quy mô vi phạm và thiệt hại thực tế đã xảy ra.
Những hành vi vi phạm hành chính thể hiện rất đa dạng và phong phú hầu hết
trong tất cả lĩnh vực, nhưng đều có một số đặc điểm cơ bản sau:
Vi phạm hành chính luôn là hành vi và hành vi đó luôn thể hiện tính có lỗi. Lỗi
trong vi phạm hành chính bao gồm lỗi cố ý và vô ý. Lỗi là một dấu hiệu cơ bản, bắt
buộc phải hiện diện trong mọi cấu thành của hành vi vi phạm hành chính, có ý nghĩa
quyết định đến các yếu tố khác trong mặt chủ quan của vi phạm hành chính. Vì vậy,
các trường hợp loại trừ yếu tố lỗi thì không đủ các dấu hiệu cần thiết khi xác định một
vi phạm hành chính. Chẳng hạn như: tình thế cấp thiết, phòng vệ chính đáng,…
Là hành vi trái pháp luật, xâm phạm đến trật tự quản lý nhà nước làm ảnh hưởng
đến hiệu quả quản lý nhà nước trong các lĩnh vực đời sống xã hội. Tuy nhiên, đây
không phải là tội phạm vì vi phạm hành chính có tính chất và mức độ thấp hơn tội
phạm.
6
Phan Trung Hiền, Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, Phần II – Phương cách quản lý nhà nước, Cần thơ
năm 2009, tr.30.
13
Chủ thể của vi phạm hành chính là tổ chức hoặc cá nhân. Các chủ thể thực hiện
hành vi vi phạm hành chính là tổ chức hoặc cá nhân có năng lực chịu trách nhiệm hành
chính. Trách nhiệm pháp lý hành chính sinh như một tất yếu khách quan, vì thế khi
thưc hiện hành vi hành chính cá nhân, tổ chức phải chịu những hình thức xử lý do
pháp luật quy định.
Khách thể của vi phạm hành chính là quan hệ xã hội về quản lý nhà nước trong
các lĩnh vực bị hành vi vi phạm xâm hại. Khách thể của vi phạm hành chính là yếu tố
quan trọng để xác định tình chất và mức độ nguy hiểm của vi phạm hành chính.
1.2.1.2. Khái niệm vi phạm hành chính trong lĩnh vực đăng ký và quản lý hộ tịch
Trên thực tế, hoạt động đăng ký và quản lý hộ tịch luôn có những hành vi cố ý hay
vô ý vi phạm các quy định của pháp luật về chế độ quản lý, trình tự, thủ tục của cơ
quan quản lý hộ tịch cũng như người dân. Các vi phạm đó là hành vi vi phạm về hộ
tịch, xâm phạm đến trật tự quản lý về hộ tịch và diễn ra phổ biến ở hầu hết các địa
phương. Các hành vi vi phạm pháp luật này, tùy theo tính chất và mức độ vi phạm của
hành vi bị xử phạt theo quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012.
Từ khái niệm vi phạm hành chính và những phân tích trên có thể hiểu vi phạm
hành chính trong lĩnh vực đăng ký và quản lý hộ tịch như sau: vi phạm hành
chính trong lĩnh vực đăng ký và quản lý hộ tịch là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức
thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước về đăng ký và quản lý
hộ tịch mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi
phạm hành chính.
Ví dụ: Anh A và chị B vừa sinh đứa con đầu lòng nhưng do công việc hay yếu tố
nào đó mà đã không đăng ký khai sinh cho con đúng thời hạn. Hành vi của anh A và
chị B đã vi phạm hành chính về đăng ký hộ tịch.
1.2.2. Đặc điểm của vi phạm hành chính trong lĩnh vực đăng ký và quản lý hộ tịch
Về hình thức của hành vi vi phạm: Trong lĩnh vực đăng ký và quản lý hộ tịch, hành
vi vi phạm thường thể hiện dưới hai hình thức sau:
- Hành vi không hành động: Pháp luật quy định phải tiến hành thủ tục đăng ký
hộ tịch nhưng không thực hiện (không đăng ký khai sinh, khai tử, không đăng ký kết
hôn, không đăng ký nuôi con nuôi...)
- Hành vi hành động: Chủ thể hành vi vẫn thực hiện hành vi đăng ký hộ tịch
nhưng khai báo gian dối, giả mạo giấy tờ hoặc cung cấp thông tin làm sai lệch giữa các
giấy tờ hộ tịch và hồ sơ cá nhân...
Mặt chủ quan của vi phạm hành chính thể hiện tập trung, cơ bản nhất ở yếu tố lỗi
của người vi phạm. Trong lĩnh vực đăng ký và quản lý hộ tịch thì yếu tố lỗi thường
biểu hiện ở cả hình thức lỗi vô ý và cố ý. Lỗi vô ý thể hiện ở chỗ người vi phạm do
chưa nắm vững các quy định của pháp luật về hộ tịch nên không thực hiện đúng các
14
thủ tục đăng ký cần thiết. Lỗi cố ý thể hiện ở hai trường hợp: Người vi phạm biết rõ
nghĩa vụ của mình là phải thực hiện các đăng ký về hộ tịch nhưng cho rằng không
quan trọng, không cần thiết đối với mình nên không thực hiện các nghĩa vụ luật định.
Hoặc người vi phạm biết rõ hành vi của mình là trái pháp luật nhưng vẫn cố tình thực
hiện với mục đích, động cơ lẩn tránh pháp luật hoặc vụ lợi cá nhân như các hành vi giả
mạo giấy tờ về hộ tịch...
Chủ thể của hành vi vi phạm: Trong lĩnh vực đăng ký và quản lý hộ tịch, chủ thể của
các hành vi vi phạm pháp luật chưa đến mức độ phạm tội hình sự có thể bị áp dụng chế
tài xử phạt hành chính gồm hai loại: Cá nhân và tổ chức. Trong đó cá nhân là chủ thể
tương đối phổ biến của vi phạm hành chính về đăng ký và quản lý hộ tịch. Tổ chức
cũng có thể là chủ thể vi phạm hành chính về đăng ký hộ tịch (ví dụ: tổ chức nuôi
dưỡng đăng ký khai sinh cho trẻ em bị bỏ rơi, tổ chức từ thiện đăng ký cử người giám
hộ, trại giam đăng ký khai tử cho phạm nhân chết trong trại...). Tuy nhiên đây là loại
chủ thể không phổ biến của vi phạm trong lĩnh vực này.Về nguyên tắc thì cá nhân là
chủ thể của vi phạm hành chính là những người từ đủ 14 tuổi trở lên có năng lực trách
nhiệm hành chính. Tuy nhiên, trong lĩnh vực đăng ký và quản lý hộ tịch thì chủ thể của
vi phạm hành chính đều là những người đã thành niên.
1.2.3. Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực đăng ký và quản lý hộ tịch
1.2.3.1. Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính
Xử phạt vi phạm hành chính là một nội dung quan trọng trong Luật xử lý vi phạm
hành chính năm 2012. Đây là hoạt động đặc biệt của quản lý nhà nước bao gồm một
loạt hành vi cụ thể như:
- Phân tích đánh giá mức độ vi phạm hành chính;
- Đối chiếu quy định của pháp luật để xác định thẩm quyền xử phạt;
- Áp dụng hình thức và mức phạt thông qua việc ban hành quyết định xử phạt
hành chính.
Quyết định xử phạt hành chính khi được ban hành sẽ gây một hậu quả pháp lý làm
phát sinh trách nhiệm hành chính của cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính, tức là buộc
họ phải gánh chịu những hậu quả bất lợi trước nhà nước về tinh thần (bị hạn chế
quyền) hoặc tài sản(bị phạt tiền, tịch thu tang vật, phương tiện,...). Xử phạt vi phạm
hành chính có những đặc điểm sau:
15
-
Xử phạt vi phạm hành chính là một loại hoạt động cưỡng chế nhà nước, mang
tính quyền lực nhà nước;
-
Cơ sở để xử phạt hành chính là hành vi vi phạm hành chính;
-
Hoạt động xử phạt hành chính được tiến hành qua nhiều khâu, nhiều giai đoạn
nhưng kết quả của hoạt động này phải được tiến hành bằng hoạt động xử phạt hành
chính;
- Hoạt động xử phạt hành chính phải được tiến hành trong khuôn khổ và phải
tuân theo pháp luật về trình tự và thủ tục hành chính.
Từ những đặc điểm trên ta có thể đưa ra khái niệm sau: Xử phạt vi phạm hành
chính là một loại hoạt động cưỡng chế hành chính cụ thể mang tính quyền lực nhà
nước, phát sinh khi có vi phạm hành chính, biểu hiện ở việc áp dụng chế tài hành
chính mang tính trừng phạt gây cho đối tượng bị áp dụng thiệt hại về vật chất hoặc
tinh thần và do các chủ thể có thẩm quyền nhân danh nhà nước thực hiện theo quy
định của pháp luật.
Ngoài ra, theo Khoản 2 Điều 2 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định
như sau: Xử phạt vi phạm hành chính là việc người có thẩm quyền xử phạt áp dụng
hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực hiện
hành vi vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính.
Ví dụ: Chị C đi xe gắn máy và khi tín hiệu đèn giao thông đã chuyển sang màu
đỏ nhưng chị không dừng lại trước vạch dừng mà vẫn tiếp tục đi. Hành vi vượt đèn đỏ
của chị C là hành vi vi phạm hành chính về an toàn giao thông. Theo quy định tại
Điểm c, Khoản 4, Điều 6 Nghị định 171/2013/NĐ-CP của Chính phủ về Quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt thì hành vi
trên bị phạt tiền từ 200.000 đồng đến 400.000 đồng.
1.2.3.2. Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính vi phạm hành chính trong lĩnh
vực đăng ký và quản lý hộ tịch
Từ khái niệm xử phạt vi phạm hành chính trên ta có thể hiểu xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực đăng ký và quản lý hộ tịch như sau: Xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực đăng ký và quản lý hộ tịch là việc người có thẩm quyền xử phạt
áp dụng hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực
hiện hành vi vi phạm hành chính về đăng ký và quản lý hộ tịch theo quy định của pháp
luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đăng ký và quản lý hộ tịch.
Ví dụ: Anh A và chị B không đăng ký khai sinh cho con đúng thời hạn. Hành vi
của anh A và chị C đã vi phạm hành chính về đăng ký hộ tịch. Theo quy định tại
Khoản 1 Điều 27 Nghị định 110/2013/NĐ-CP của Chính phủ về Quy định xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực bỗ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia
16
đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã thì anh A và chị B bị phạt
vi phạm hành chính với hình thức cảnh cáo.
Xuất phát từ khái niệm xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đăng ký và quản
lý hộ tịch trên cho thấy, ngoài những đặc điểm chung của xử phạt vi phạm hành chính
thì xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đăng ký và quản lý hộ tịch có một số
đặc điểm sau:
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực đăng ký và quản lý hộ tịch được thể hiện với
nhiều hình thức khác nhau và tương ứng với những hành vi đó tại Nghị định 110/NĐCP đã có quy định những mức xử phạt cụ thể.
Khi thực hiện xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đăng ký và quản lý hộ
tịch, người có thẩm quyền xử phạt chỉ được thực hiện quyền xử phạt của mình trong
phạm vi mà pháp luật đã quy định. Trong trường hợp quyết định xử phạt hoặc quyết
định áp dụng biện pháp hành chính khác vượt thẩm quyền cho phép là vi phạm pháp
luật và phải bị xử lý.
Kết quả của việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đăng ký và quản lý
hộ tịch thể hiện ở các quyết định xử phạt hành chính, quyết định các biện pháp khắc
phục hậu quả do vi phạm hành chính gây ra. Việc quyết định áp dụng các quyết định
xử phạt hành chính, các biện pháp khắc phục hậu quả vi phạm hành chính thể hiện sự
trừng phạt nghiêm khắc của Nhà nước đối với cá nhân, tổ chức trong lĩnh vực đăng ký
và quản lý hộ tịch, qua đó giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật về quản lý nhà nước
trong lĩnh vực hộ tịch.
1.2.4. Nguyên tắc của việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đăng ký và
quản lý hộ tịch
Cũng như khi xử lý vi phạm hành chính trong các lĩnh vực khác, việc xử lý các vi
phạm hành chính trong lĩnh vực đăng ký và quản lý hộ tịch phải tuân thủ những
nguyên tắc chung được quy định tại Khoản 1 Điều 3 Luật xử lý vi phạm hành chính
2012, cụ thể như sau:
Thứ nhất, mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện, ngăn chặn kịp thời và phải
bị xử lý nghiêm minh, mọi hậu quả do vi phạm hành chính gây ra phải được khắc phục
theo đúng quy định của pháp luật. Nguyên tắc này đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền
phải tích cực chủ động trong việc thanh tra, kiểm tra và thực thi công vụ để kịp thời phát
hiện các vi phạm hành chính và một khi đã phát hiện thì phải tiến hành xử lý một cách
nhanh chóng, công minh và triệt để. Hậu quả do hành vi vi phạm gây ra phải được khắc
phục vì lợi ích của cộng đồng nhằm đảm bảo lập lại trật tự pháp luật, góp phần thiết lập
kỉ
cương,
ổn
định
xã
hội,
phát
triển
kinh
tế.
Đối với việc xử phạt, việc phát hiện kịp thời sẽ góp phần nhanh chóng vào việc xử lý,
giải quyết các vi phạm đã xảy ra tạo lòng tin cho nhân dân. Đồng thời việc phát hiện
17
sớm các vi phạm hành chính còn có ý nghĩa cực kì quan trọng khác, đó là việc góp phần
vào việc thiết lập và duy trì trật tự quản lý nhà nước, có tác dụng tích cực trong phòng
ngừa và chống vi phạm hành chính, giáo dục người dân trong xã hội có ý thức tôn trọng
pháp luật, thực hiện các quy tắc của đời sống cộng đồng.
Thứ hai, việc xử phạt vi phạm hành chính được tiến hành nhanh chóng, công khai,
khách quan, đúng thẩm quyền, bảo đảm công bằng, đúng quy định của pháp luật. Đây
là một nguyên tắc pháp chế trong xử lý các vi phạm hành chính, theo đó thì chỉ có
những chức danh được quy định trong Luật xử lý vi phạm hành chính mới có thẩm
quyền xử phạt vi phạm hành chính, ngoài các chức danh này thì không một người nào
có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính và việc xử lý phải dựa trên quy định của
pháp luật. Do vậy, những người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính là những
người được pháp luật trao quyền, thay mặt nhà nước xử phạt các chủ thể có hành vi vi
phạm các quy định của pháp luật hành chính, do vậy khi tiến hành xử phạt thì các chủ
thể có thẩm quyền không được tùy tiện mà nhất thiết phải tuân thủ triệt để các quy
định của pháp luật.
Thứ ba, việc xử phạt vi phạm hành chính phải căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu
quả vi phạm, đối tượng vi phạm và tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng. Nguyên tắc
này đòi hỏi người có thẩm quyển xử phạt trước khi ra quyết định xử phạt cần phải
phân tích, làm rõ mức độ cũng như tính chất, các tình tiết tăng nặng hay giảm nhẹ đối
với từng hành vi vi phạm hành chính cụ thể. Nếu vi phạm do nhiều người gây ra thì
phải đánh giá chính xác mức độ lỗi của mỗi người tham gia thực hiện vi phạm hành
chính đó để từ đó có thể ra các biện pháp xử phạt hợp lý cho từng người. Và tất cả các
tình tiết đó đều phải được ghi trong biên bản xử phạt.
Thứ tư, chỉ xử phạt vi phạm hành chính khi có hành vi vi phạm hành chính do pháp
luật quy định.Một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt một lần.Nhiều người
cùng thực hiện một hành vi vi phạm hành chính thì mỗi người vi phạm đều bị xử phạt
về hành vi vi phạm hành chính đó.Một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành
chính hoặc vi phạm hành chính nhiều lần thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm. Nếu
một hành vi vi phạm đã bị một người có thẩm quyền lập biên bản xử phạt hoặc ra
quyết định xử phạt thì không được lập biên bản hoặc ra quyết định xử phạt lần thứ hai
đối với cùng một hành vi đó nữa. Khái niệm xử phạt lần thứ hai và khái niệm xử phạt
khi tái phạm tuy có nhiều điểm giống nhau, nhưng đó không cùng loại. Tái phạm là
một hành vi vi phạm khác có tính chất cùng loại với hành vi vi phạm mà chủ thể đã
từng bị xử lý, trong khi đó thì khái niệm kia chỉ có 1 hành vi vi phạm tồn tại. Một hành
vi vi phạm hành chính đã được người có thẩm quyền ra quyết định xử phạt thì không
đồng thời áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác đối với người thực hiện hành
vi vi phạm này. Một hành vi vi phạm hành chính đã bị ra quyết định xử phạt, nếu sau
18
này phát hiện hành vi đó có các dấu hiệu của tội phạm phải truy cứu trách nhiệm hình
sự thì phải hủy quyết định xử phạt hành chính trước đây, rồi mới chuyển hồ sơ vi
phạm cho cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền để truy cứu trách nhiệm hình sự.
Đối với trường hợp một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm, thì người đó sẽ bị xử
phạt về từng hành vi, sau đó tổng hợp lại thành mức phạt chung. Trường hợp nhiều
người cùng thực hiện một vi phạm hành chính thì mỗi người đều bị xử phạt.
Thứ năm, người có thẩm quyền xử phạt có trách nhiệm chứng minh vi phạm hành
chính. Cá nhân, tổ chức bị xử phạt có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện
hợp pháp chứng minh mình không vi phạm hành chính. Nguyên tắc trên cho thấy
người có thẩm quyền xử phạt, người có thẩm quyền áp dụng biện pháp xử lý hành
chính có trách nhiệm chứng minh hành vi vi phạm bằng việc áp dụng các biện pháp
hợp pháp để xác định sự thật của vụ việc một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ; cá
nhân, tổ chức bị xử phạt, cá nhân bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính có quyền tự
mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp chứng minh mình không vi phạm hành
chính.
Cuối cùng, đối với cùng một hành vi vi phạm hành chính thì mức phạt tiền đối với
tổ chức bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân. Nguyên tắc trên nhằm phân định
mức phạt tiền giữa cá nhân và tổ chức vi phạm, phù hợp với tính chất vi phạm
Tuy nhiên trong xử phạt vi phạm hành chính thuộc lĩnh vực đăng ký và quản lý hộ
tịch thì bên cạnh các nguyên tắc khác, nguyên tắc thứ 3 (Việc xử phạt vi phạm hành
chính phải căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả vi phạm, đối tượng vi phạm và tình
tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng) là nguyên tắc cần được đặc biệt lưu ý. Vì trong
nhiều trường hợp, các vi phạm hành chính trong lĩnh vực đăng ký và quản lý hộ tịch là
những vi phạm không cố ý và cũng do nhiều lý do khách quan khác nhau.
Ví dụ: Cá nhân vì không thấy hết ý nghĩa của việc đăng ký hộ tịch mà không đi
đăng ký hộ tịch (như đăng ký nuôi con nuôi, đăng ký kết hôn ...).
1.2.5. Vai trò và ý nghĩa của việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đăng
ký và quản lý hộ tịch
Việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đăng ký và quản lý hộ tịch là một
trong những yếu tố quan trọng góp phần đảm bảo kỷ cương pháp chế trong quản lý
nhà nước về lĩnh vực hộ tịch. Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
hộ tịch là các quy định pháp luật do nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ
xã hội phát sinh trong lĩnh vực quản lý Nhà nước về đăng ký và quản lý hộ tịch. Như
vậy, Nhà nước xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đăng ký và quản lý hộ tịch
để thực hiện quyền lực của mình trong quản lý và đăng ký hộ tịch. Nhờ có sự quy định
chặt chẻ của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đăng ký và quản
lý hộ tịch mà các cơ quan quản lý Nhà nước cũng như người dân tham gia đăng ký hộ
19
tịch thực hiện một cách nghiêm túc, bảo đảm thực hiện đường lối, chủ trương của
Đảng, pháp luật của Nhà nước; đảm bảo thực hiện tốt cải cách hành chính Nhà nước,
giảm phiền hà, tiêu cực trong hoạt động đăng ký và quản lý hộ tịch đảm bảo trật tự xã
hội, tạo điều kiện phát triển xã hội.
Việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đăng ký và quản lý hộ tịch còn
góp phần giáo dục ý thức pháp luật cho cơ quan quản lý Nhà nước cũng như người dân
tham gia đăng ký hộ tịch bởi các quy định chặt chẽ buộc các chủ thể phải tự giác chấp
hành nếu không sẽ bị xử phạt theo quy định của pháp luật. Đồng thời, pháp luật về xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đăng ký và quản lý hộ tịch cũng là các biện
pháp ngăn chặn hữu hiệu các hành vi phạm pháp luật về đăng ký và quản lý hộ tịch;
góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước về hộ tịch.
1.2.6. Sơ lược quá trình phát triển của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực đăng ký và quản lý hộ tịch
Sau khi chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, Nhà nước ta đã ban hành các văn
bản quy phạm pháp luật chính yếu điều chỉnh về đănng ký và quản lý hộ tịch sau:
Nghị định số 764/TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 08/5/1956 ban hành bản
điều lệ đăng ký hộ tịch; Nghị định số 4/CP của Hội đồng Chính phủ ngày 16/01/1961
ban hành bản điều lệ đăng ký hộ tịch. Hai văn bản trên không quy định về việc xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực đăng ký hộ tịch mà chỉ quy định một cách chung
chung là các vi phạm chủ yếu giải quyết thông qua giáo dục và chỉ kỷ luật khi thật quá
đáng.
Năm 1996, Chính phủ đã ban hành Nghị định 49/CP của Chính phủ ngày
15/8/1996 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự. Trong Nghị
định này, tại Điều 9 có quy định xử phạt đối với đăng ký hộ tịch nhưng rất ít.
Đến năm 1998, Nhà nước ban hành Nghị định 83/1998/NĐ-CP về đăng ký và
quản lý hộ tịch đã quy định rõ tại Chương V (Điều 93 và 94) về xử lý vi phạm hành
chính trong đăng ký và quản lý hộ tịch, cụ thể hóa Nghị định này và pháp lệnh xử lý vi
phạm hành chính năm 1995, Nghị định 87/2001/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành
chính trong hôn nhân gia đình có quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong đăng
ký và quản lý hộ tịch. Tuy nhiên, Nghị định này chỉ quy định xử phạt hai nội dung
(Điều 9 và 14).
Đến ngày 02/8/2006, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 76/2006/NĐ-CP quy
định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp. Cụ thể tại Mục 3 của Nghị
định 76/2006/ NĐ-CP quy định nhiều hành vi liên quan đến đăng ký và quản lý hộ tịch
bị xử phạt như: đăng ký khai sinh, đăng ký kết hôn, đăng ký khai tử, đăng ký giám hộ,
đăng ký nhận cha mẹ con,…Nghị định này đã trở thành cơ sở pháp lý quan trọng trong
việc đấu tranh phòng, chống các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp,
20
góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Tuy nhiên, sau hơn hai năm
triển khai thực hiện, nội dung của Nghị định đã phát sinh một số tồn tại, bất cập, như
Nghị định quy định thiếu một số hành vi cần phải xử phạt phát sinh trong thực tiễn,
mức tiền phạt được quy định trong Nghị định còn thấp nên không bảo đảm tính sức
răn đe, giáo dục, phòng ngừa…Vì vậy, việc soạn thảo và ban hành Nghị định mới quy
định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp để thay thế cho Nghị định số
76/2006/NĐ-CP hiện hành là cần thiết.
Ngày 23/7/2009, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 60/2009/NĐ-CP quy
định xử phạt hành chính trong lĩnh vực tư pháp để giải quyết những vấn đề thật sự bức
xúc trong thực tiễn đấu tranh phòng, chống vi phạm hành chính về tư pháp nói chung
và đăng ký và quản lý hộ tịch nói riêng. Nghị đinh tập trung sửa đổi, bổ sung những
vấn đề lớn, bức xúc, nổi cộm phát sinh trong thực tiễn xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực tư pháp hơn hai năm vừa qua nhằm kịp thời tăng cường hiệu lực, hiệu
quả quản lý nhà nước. Mặc dù vậy, nhưng so với thời điểm hiện tại thì Nghị định vẫn
còn một số điểm bất cập và thiếu sót. Nhằm đáp ứng tình hình hiện tại, ngày 24/9/2013
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 110/2013/NĐ-CP có hiệu lực thi hành từ ngày
11/11/2013 thay thế cho Nghị định số 60/2009/NĐ-CP ngày 23/7/2009 của Chính phủ
quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp; Nghị định số
87/2001/NĐ-CP ngày 21/11/2001 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực hôn nhân và gia đình; Nghị định số 10/2009/NĐ-CP ngày 06/02/2009 của
Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong quá trình tiến hành thủ tục phá
sản. Nghị định này quy định cụ thể về hành vi vi phạm hành chính; hình thức, mức xử
phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với từng hành vi vi phạm; thẩm quyền lập biên
bản, thẩm quyền xử phạt, theo từng chức danh và mức phạt tiền cụ thể đối với hành vi
vi phạm hành chính trong các lĩnh vực như bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn
nhân và gia đình,thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.
21
CHƢƠNG 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH
CHÍNH VỀ ĐĂNG KÝ VÀ QUẢN LÝ HỘ TỊCH
2.1. Các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực đăng ký và quản lý hộ tịch
2.1.1. Hành vi vi phạm quy định về đăng ký khai sinh
Hành vi vi phạm quy định về đăng ký khai sinh bao gồm các hành vi sau:
Thứ nhất, hành vi không đăng ký khai sinh cho trẻ em đúng thời hạn quy định:
Theo quy định tại Điều 14 của Nghị định 158/2005/NĐ-CP, trong thời hạn 60
ngày, kể từ ngày sinh con, cha, mẹ có trách nhiệm đi khai sinh cho con; nếu cha, mẹ
không thể đi khai sinh, thì ông bà hoặc những người thân thích khác đi khai sinh cho
trẻ em.
Người có trách nhiệm đăng ký khai sinh cho trẻ em mà không thực hiện việc
đăng ký đúng thời hạn quy định sẽ bị phạt cảnh cáo theo quy định tại Điều 27 Nghị
định 110/2013/NĐ-CP. Theo quy định tại Điều 43, Nghị định 158/2005/NĐ-CP thì
việc sinh chưa đăng ký theo thời hạn đã quy định thì phải đăng ký theo thủ tục đăng ký
quá hạn.
Ví dụ: Anh C và chị D sinh con đã được 8 tháng nhưng vì một vài lý do nên
chưa thể đăng ký khai sinh cho con được. Theo đó, việc con của anh, chị đã 8 tháng
tuổi mà chưa đăng ký khai sinh thì anh, chị sẽ tiến hành đăng ký khai sinh cho con
theo thủ tục đăng ký quá hạn quy định tại Điều 43, Nghị định 158/2005/NĐ-CP. Về
việc gia đình chị thực hiện việc đăng ký khai sinh cho cháu bé không trong thời hạn do
pháp luật quy định thì sẽ bị xử phạt cảnh cáo theo quy định tại khoản 1, Điều 27, Nghị
định 110/2013/NĐ-CP của Chính phủ.
Thứ hai, hành vi sửa chữa, tẩy xóa, làm sai lệch nội dung giấy tờ do cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền cấp để làm thủ tục đăng ký khai sinh:
Tùy theo mức độ của hành vi mà theo quy định tại khoản 2 Điều 27 Nghị định
110/2013/NĐ-CP thì bị cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 300.000 đồng đến 500.000 đồng.
Ví dụ: Anh C và chị D do muốn làm thủ tục đăng ký khai sinh cho con một
cách thuận lợi và nhanh chóng nên đã sửa chửa nội dung của giấy chứng sinh. Hành vi
trên đã vi phạm hành chính về đăng ký khai sinh. Theo quy định nêu trên thì anh C và
chị D bị cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 300.000 đồng đến 500.000 đồng.
Thứ ba, làm chứng sai sự thật về việc sinh và cố ý khai không đúng sự thật về nội
dung khai sinh:
Theo quy định tại Điều 15 Nghị định 158/2005/NĐ-CP thì khi đi đăng ký khai
sinh, cha, mẹ, ông , bà hoặc người thân thích khác của trẻ phải mang theo giấy chứng
22
sinh (do Bệnh viện, Cơ sở y tế nơi trẻ sinh ra cấp). Nếu trẻ sinh ra ngoài cơ sở y tế, thì
Giấy chứng sinh thay bằng văn bản xác nhận của người làm chứng. Nếu không có
người làm chứng, người đi khai sinh làm giấy cam đoan việc sinh là có thực. Quy định
là bắt buộc nhằm đảm bảo tính chính xác về ngày sinh của trẻ. Theo quy định tại
khoản 3 Điều 27 Nghị định 110/NĐ-CP thì hành vi trên bị phạt tiền từ 1.000.000 đồng
đến 3.000.000 đồng.
Ví dụ: Cách đây 3 năm, chị A chưa lấy chồng nhưng đã mang thai. Do chị cố ý
che dấu mọi người nên đến ngày sinh, chị sinh con ở nhà người bạn là chị B và chưa
đăng ký khai sinh. Đến nay, chị A muốn làm giấy khai sinh cho con nhưng chị B đã đi
xa. Do đó, chị A nhờ chị C làm chứng về việc sinh để đăng ký khai sinh cho cháu mặc
dù chị C không biết rõ việc này. Hành vi trên của chị C đã vi phạm hành chính về đăng
ký khai sinh. Theo quy định của pháp luật thì chị C có thể bị phạt tiền từ 1.000.000
đồng đến 3.000.000.
Thứ tư, sử dụng giấy tờ giả để làm thủ tục đăng ký khai sinh. Thực tế có những
trường hợp một người sinh con xong rồi cho hoặc bán con cho người khác nuôi. Khi
làm Giấy khai sinh thì mẹ là người có giấy chứng sinh sinh ra bé. Tuy nhiên, người mẹ
nuôi đó lại muốn xóa gốc tích của đứa con và có thể sử dụng Giấy chứng sinh giả để
được ghi tên mình trên giấy khai sinh của con.
Theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 27 Nghi định 110/2013/NĐ-CP thì hành
vi sử dụng giấy tờ giả để làm thủ tục đăng ký khai sinh ngoài bị phạt tiền còn áp dụng
biện pháp khắc phục hậu quả hủy giấy tờ giả. Cụ thể là hủy Giấy khai sinh và buộc
đăng ký khai sinh theo đúng quy định của pháp luật.
Thứ năm, làm giả giấy tờ để làm thủ tục đăng ký khai sinh.
Theo quy định tại Nghị định 158/2005/NĐ-CP thì khi đăng ký khai sinh, người
đi đăng ký khai sinh phải nộp cũng như xuất trình một số giấy tờ liên quan, chẳng hạn
như Giấy chứng sinh, Giấy đăng ký kết hôn,… Một số trường hợp do không có đầy đủ
các giấy tờ liên quan nhưng muốn đăng ký khai sinh một cách thuận lợi nên đã làm giả
các giấy tờ trên. Đối với hành vi này, theo quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 27
Nghị định 110/2013/NĐ-CP thì bị phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng,
đồng thời áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả hủy giấy tờ giả đối với hành vi trên.
Ví dụ: Anh Tuấn và chị Hoa kết hôn được 6 năm và có một đứa con, nhưng
không đăng ký kết hôn. Đến năm 2014 con của anh chị đã được 5 tuổi, anh chị muốn
làm giấy khai sinh cho con để cho con đi học mẫu giáo. Mặc dù biết không có giấy
đăng ký kết hôn vẫn làm giấy khai sinh đươc nhưng anh chị không muốn làm giấy
khai sinh cho con ngoài giá thú nên đã làm Giấy đăng ký kết hôn giả để đăng ký khai
sinh cho con. Hành vi của anh chị theo quy định nêu trên thì bị phạt tiền từ 3.000.000
23
đồng đến 5.000.000 đồng và Giấy hai sinh của con anh chị sẽ bị cơ quan có thẩm
quyền hủy bỏ và buộc phải đăng ký khai sinh theo đúng quy định của pháp luật.
2.1.2. Hành vi vi phạm quy định về đăng ký kết hôn và môi giới kết hôn
Hành vi vi phạm quy định về đăng ký kết hôn và môi giới kết hôn bao gồm các
hành vi sau:
Thứ nhất, sửa chữa, tẩy xóa, làm sai lệch nội dung giấy tờ do cơ quan có thẩm
quyền cấp để làm thủ tục đăng ký kết hôn.
Tùy theo mức độ của hành vi mà người vi phạm có thể bị phạt cảnh cáo hoặc
phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng. Theo quy định của pháp luật thì
“Cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 300.000 đồng đến 500.000 đồng đối với hành vi sửa
chữa, tẩy xóa, làm sai lệch nội dung giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền cấp để làm thủ
tục đăng ký kết hôn.”7
Thứ hai, cho người khác mượn giấy tờ để làm thủ tục đăng ký kết hôn; sử dụng
giấy tờ của người khác để làm thủ tục đăng ký kết hôn.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 28 Nghị định 110/2013/NĐ-CP của Chính phủ
thì hành vi trên có thể bị phạt tiển từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng.
Ví dụ: Anh A và chị C muốn đăng ký kết hôn nhưng không có giấy xác nhận
tình trạng hôn nhân do 2 anh chị đi làm xa không có về địa phương nơi anh chị cư trú
vì vậy anh A đã mượn giấy xác nhận tình trạng hôn nhân của anh B (đồng nghiệp cùng
làm chung công ty). Hành vi của anh A có thể bị phạt tiển từ 1.000.000 đồng đến
3.000.000 đồng.
Thứ ba, sử dụng giấy tờ giả để làm thủ tục đăng ký kết hôn.
Cũng như đăng ký khai sinh, theo quy định tại Nghị định 158/2005/NĐ-CP thì
khi đăng ký kết hôn, người đi đăng ký kết hôn phải nộp cũng như xuất trình một số
giấy tờ liên quan như Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân, Tờ khai đăng ký kết hôn,
Giấy chứng minh nhân dân của hai bên nam nữ,...Trong một số trường hợp do không
có đầy đủ các giấy tờ trên nhưng muốn đăng ký kết hôn nên sử dụng một số giấy tờ
giả. Hành vi trên theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 28 Nghị định 110/2013/NĐCP của Chính phủ thì bị phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đồng thời áp
dụng biện pháp khắc phục hậu quả hủy giấy tờ giả đối với hành vi trên. Cụ thể ở đây là
hủy Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn và yêu cầu đăng ký kết hôn đúng quy định của
pháp luật.
Thứ tư, cam đoan không đúng về tình trạng hôn nhân để làm thủ tục đăng ký kết
hôn.
7
Khoản 1 Điều 28 Nghị định 110/2013/ NĐ-CP.
24
Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân được cấp cho cá nhân là nhằm chứng minh
tình trạng hôn nhân của đương sự trong thời điểm hiện tại để sử dụng vào việc đăng ký
kết hôn hoặc thực hiện mục đích khác. Nội dung xác nhận tình trạng hôn nhân phải
được ghi rõ: đương sự hiện tại chưa đăng ký kết hôn với ai; đối với người đã có
vợ/chồng nhưng đã ly hôn hoặc người kia đã chết thì cũng phải ghi rõ điều đó. Đối với
những người đã qua nhiều nơi cư trú khác nhau, mà Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi xác
nhận tình trạng hôn nhân không rõ về tình trạng hôn nhân của họ ở những nơi đó, thì
yêu cầu đương sự viết bản cam đoan về tình trạng hôn nhân của mình trong thời gian
trước khi về cư trú tại địa phương và chịu trách nhiệm về việc cam đoan. Hành vi cam
đoan không đúng về tình trạng hôn nhân để làm thủ tục đăng ký kết hôn sẽ bị phạt từ
1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng theo quy định tại diểm c khoản 2 Điều 28 Nghị
định 110/NĐ-CP.
Ví dụ: Anh Hùng đã có vợ rồi, chưa làm thủ tục ly hôn nhưng anh và vợ mỗi
người ở một nơi. Nay anh chuẩn bị kết hôn với người vợ mới, đăng ký kết hôn ở quê
với người vợ mới. Anh Hùng khai tình trạng hôn nhân mình là độc thân và thực hiện
kết hôn với người vợ mới. Hành vi của anh Hùng theo quy định nêu trên có thể bị phạt
tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng.
Thứ năm, làm giả giấy tờ để làm thủ tục đăng ký kết hôn.
Cùng với sự phát triển của xã hội hiện nay, hiện tượng làm giấy tờ giả ngày
càng gia tăng, tình trạng làm giấy tờ giả để kết hôn cũng theo đó cũng đã, đang diễn ra
ngày càng tinh vi, phức tạp. Việc làm giả giấy tờ để đăng ký kết hôn tùy từng trường
hợp vi phạm có thể bị xử phạt hành chính theo Khoản 3, Điều 28, Nghị định Số
110/2013/NĐ-CP với quy định như sau: “Hành vi vi phạm quy định về đăng ký kết
hôn và môi giới kết hôn thì phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với
hành vi làm giả giấy tờ để làm thủ tục đăng ký kết hôn.”
Thứ sáu, theo quy định tại khoản 4 Điều 28 Nghị định 110/2013/NĐ-CP, phạt tiền
từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:
- Lợi dụng việc kết hôn nhằm mục đích xuất cảnh, nhập cảnh; nhập quốc tịch
Việt Nam, quốc tịch nước ngoài;
- Lợi dụng việc kết hôn để hưởng chế độ ưu đãi của nhà nước hoặc để thực hiện
các mục đích trục lợi khác.
Đối với hai hành vi trên, do tính chất nghiêm trọng của hành vi nên ngoài việc
phạt với số tiền khá cao là 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng thì còn phải áp dụng
biện pháp khắc phục hậu quả buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được từ hành vi trên.
Cuối cùng, môi giới kết hôn trái pháp luật.
Thực tiễn vừa qua đã xảy ra nhiều vụ việc liên quan đến môi giới kết hôn bất
hợp pháp đặc biệt với người nước ngoài nhằm mục đích trục lợi, kết hôn giả tạo,
25