Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

đặc điểm truyện ngắn nguyễn minh châu trước 1975

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (917.21 KB, 98 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

BỘ MÔN NGỮ VĂN


VÕ HỒNG NHẬT
MSSV: 6116139

ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN MINH CHÂU TRƯỚC 1975

Luận văn tốt nghiệp đại học
Ngành Ngữ văn

Cán bộ hướng dẫn: LÊ THỊ NHIÊN

Cần Thơ, năm 2014


ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁT
ĐỀ TÀI: ĐẶC

ĐIỂM TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN MINH CHÂU TRƯỚC 1975

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3. Mục đích nghiên cứu
4. Phạm vi nghiên cứu


5. Phương pháp nghiên cứu

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: TRUYỆN NGẮN – KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM;
TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM
1.1 Truyện ngắn
1.1.1 Khái niệm truyện ngắn
1.1.2 Đặc điểm thể loại truyện ngắn
1.1.3 Đặc điểm truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1954-1975
1.2 Tác giả và tác phẩm
1.2.1 Tác giả Nguyễn Minh Châu
1.2.1.1 Cuộc đời
1.2.1.2 Sự nghiệp sáng tác


1.2.2 Giới thiệu một số truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu trước 1975

CHƯƠNG II: ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN MINH CHÂU TRƯỚC 1975
2.1 Hiện thực chiến tranh trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu trước 1975
2.1.1 Những khó khăn gian khổ trong kháng chiến
2.1.2 Những mất mát, hy sinh trong cuộc chiến
2.1.3 Những thắng lợi của cuộc chiến tranh
2.2 Công cuộc xây dựng Xã Hội Chủ Nghĩa ở miền Bắc trong truyện ngắn Nguyễn Minh
Châu trước 1975
2.2.1 Những mặt tích cực của công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc
2.2.2 Một số tồn tại của công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc
2.3 Tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
trước 1975
2.3.1 Lòng căm thù giặc sâu sắc

2.3.2 Sẵn sàng chiến đấu bảo vệ đất nước
2.3.3 Sẵn sàng là hậu phương vững chắc để phục vụ tiền tuyến

CHƯƠNG III: ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN MINH CHÂU TRƯỚC 1975
3.1 Nghệ thuật xây dựng nhân vật
3.1.1 Miêu tả ngoại hình nhân vật
3.1.2 Nghệ thuật thể hiện tính cách nhân vật
3.1.2.1 Hành động nhân vật
3.1.2.2 Ngôn ngữ đối thoại


3.1.2.3 Ngôn ngữ độc thoại
3.2 Không gian và thời gian nghệ thuật
3.2.1 Không gian nghệ thuật
3.2.2 Thời gian nghệ thuật
3.3 Ngôn từ nghệ thuật
3.3.1 Nghệ thuật sử dụng từ ngữ
3.3.2 Nghệ thuật sử dụng cấu trúc ngữ pháp
3.3.3 Nghệ thuật sử dụng các biện pháp tu từ
3.4 Giọng điệu nghệ thuật

KẾT LUẬN


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nền văn học Việt Nam hiện đại đã được điểm nét son bằng chính cuộc đời và tác
phẩm của những nhà văn chân chính, trong đó có nhà văn Nguyễn Minh Châu. Có lúc
sáng tác của ông đã trở thành “một hiện tượng văn học”, thu hút sự quan tâm của dư luận.

Văn chương của Nguyễn Minh Châu gắn bó chặt chẽ với những bước đi cơ bản của nền
văn học dân tộc trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ và những năm tháng sau chiến
tranh.
Nguyễn Minh Châu là một nhà văn tài năng, luôn đi tìm cái đích của chân, thiện,
mỹ, tìm tòi khám phá cho ra lẽ sống của nghiệp văn chương. Ông yêu cầu rất cao về thiên
chức người nghệ sĩ, cốt lõi là phải có cái tâm. Ngay từ bắt đầu cầm bút tới lúc hấp hối trên
giường bệnh, Nguyễn Minh Châu luôn có trách nhiệm đối với công việc của mình. Khi là
nhà văn quân đội, ông rất nhạy cảm với yêu cầu của cuộc sống cách mạng và sau này,
ông sớm nhận ra con đường tất yếu phải đi đến của một nền văn học và đã trở thành
người lính dũng cảm, kiên trì đấu tranh cho sự nghiệp đổi mới văn học.
Những truyện ngắn Nguyễn Minh Châu viết trong giai đoạn trước năm 1975, xét
trong phạm vi mô tả chủ đề chung của một giai đoạn lịch sử cụ thể, tác phẩm của ông
chưa thật thành công và đặc sắc như ở thể loại tiểu thuyết, tuy vậy, trong một chừng mực
nào đó, chúng ta vẫn thấy được cái riêng của một ngòi bút trầm tĩnh, chắc chắn và đầy
tình người. Với tư cách là nhà văn quân đội, bước chân của ông đi khắp các chiến trường,
có mặt hầu hết ở các đơn vị bộ đội. Những trang nhật kí của ông để lại cho thấy ông đã
thật sự lăn lộn cùng các chiến sĩ và ghi nhận thực tế không chỉ bằng tai, mắt mà bằng cả
trái tim biết chia sẻ, cảm thông. Hàng loạt truyện ngắn được ra đời như tập truyện ngắn
Những vùng trời khác nhau, một số truyện ngắn được in trong Tạp chí Văn nghệ Quân
đội như Sau một buổi tập, Gốc sắn, Đất rừng, Trên vùng đất sỏi, Câu chuyện trên trận
địa… Cách tân nghệ thuật cao, ông không đi vào lối mòn của lối diễn đạt cũ mà khám
phá tìm tòi một cách thể hiện mới rất độc đáo, rất riêng.


Vì những lý do trên chúng tôi chọn Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
trước 1975 làm đề tài nghiên cứu, như một cách ngưỡng mộ về cuộc đời và sự nghiệp của
một con người đi đến ranh giới của sống chết vẫn thiết tha một tình yêu bền chặt với sự
nghiệp văn chương, với Tổ quốc, với nhân dân. Lựa chọn đề tài này chúng tôi đặt mục
đích tìm hiểu sâu sắc hơn một hiện tượng văn học, trang bị những kiến thức và kĩ năng
cần thiết cho việc học.


2. Lịch sử vấn đề
Truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu viết trong thời kì chiến tranh được chọn
trong tập Những vùng trời khác nhau và một số truyện ngắn in trong Tạp chí Văn nghệ
Quân đội. Bước vào con đường viết văn, sáng tác của ông tuy chưa được khẳng định như
các tác giả cùng thời nhưng ông cũng gặt hái được thành công nhất định.
Trong bài viết Đọc Những vùng trời khác nhau của Nguyễn Minh Châu in trong
Tạp chí Văn nghệ Quân đội số 9, 1970, Nguyễn Kiên nhận xét: “Ngòi bút Nguyễn Minh
Châu chăm chỉ, chừng mực, mộc mạc, chân tình, trang sách nào cũng đều thấp thoáng kỉ
niệm, truyện ngắn gọn nhưng không bó hẹp” [11]. Tuy nhiên chúng ta có thể thấy
Nguyễn Minh Châu có hai cách viết khác nhau khá rõ rệt, xuất phát từ cái thực và kết hợp
cái thực với cái kì diệu trong cuộc sống anh hùng của nhân dân và quân đội. Và nhận
định trên phần nào khẳng định được Những vùng trời khác nhau đã thành công và ghi
dấu ấn trong lòng người đọc.
Nguyễn Thị Minh Thái có cái nhìn khá thực về Ấn tượng về nhân vật nữ của
Nguyễn Minh Châu (Tạp chí Văn học số 3, 1985): “Nhân vật nữ đã làm trung tâm với
tính cách mạnh và rõ. Câu chuyện diễn biến theo lời kể, cách dựng truyện thoải mái, tự
nhiên, bút pháp miêu tả diễn biến tâm lý tinh tế” [20]. Với nhận xét trên, nhân vật nữ
trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu được miêu tả rất chân thực, mang vẻ đẹp của
những anh hùng chống Mỹ cứu nước trong thời kì chiến tranh.


Bài viết Hướng đi triển vọng của Nguyễn Minh Châu đăng ở Tuần báo Văn nghệ
số 364, 1970 của Nguyễn Đăng Mạnh và Trần Hữu Tá cho rằng: “Nguyễn Minh Châu
hầu như chỉ xây dựng một loại nhân vật tốt đẹp, cao thượng, anh hùng, cái tiêu cực rất ít
thấy, nhân vật giàu tình cảm và suy tưởng. Đến nay nhân vật thành công của ông đều là
những nhân vật có tuổi, để phản ánh hiện thực ngày nay không chỉ giới hạn thế giới nghệ
thuật của ông trong loại nhân vật đó” [14]. Quả thật vậy, trong nhiều truyện ngắn của
ông, nhân vật được miêu tả với tư cách anh hùng, bất khuất, giàu tình cảm, để lại ấn
tượng sâu đậm trong lòng độc giả, ông ít đề cập đến những nhân vật tiêu cực.

Trong bài Sự khám phá con người Việt Nam qua truyện ngắn đăng trên Tạp chí
Quân đội, Hà Nội, số 10, 1987, Ngọc Trai cho rằng: “Phần lớn các truyện ngắn Nguyễn
Minh Châu là loại truyện luận đề về đạo đức nhân văn, tâm lý xã hội và biểu đạt thông
qua chính cuộc sống chân thật, nhiều chiều, đầy mâu thuẫn, ông có cái nhìn sâu sắc,
toàn diện với con người và hiện thực” [24]. Truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu luôn đi
tìm giá trị thật của con người, “cái sợi chỉ xanh óng ánh” trong tâm hồn người, khám phá
những tầng sâu bí ẩn, bất ngờ trong thế giới tâm hồn con người, điều mà Nguyễn Minh
Châu luôn trăn trở suốt đời cầm bút của mình.
Mảnh trăng cuối rừng là truyện ngắn được nhiều nhà phê bình nhắc đến và được
đánh giá cao. Nguyễn Thanh Hùng lại tìm được Cái đẹp và cái hay của Mảnh trăng cuối
rừng (Văn nghệ Quân đội, 1994) ở khía cạnh khác, ông cho rằng: “Truyện ngắn này nên
quan tâm đến thi pháp truyện kể và hãy bắt đầu với phương thức kể và mỗi yếu tố thi
pháp trong phương thức kể đều thể hiện kết quả tìm tòi nghệ thuật đầy sáng tạo của
Nguyễn Minh Châu” [9, Tr. 103]. Mảnh trăng cuối rừng là một câu chuyện đẹp đậm màu
sắc lãng mạn gợi sự tìm kiếm và phát hiện “hạt ngọc ẩn sâu trong tâm hồn con người”,
điều mà Nguyễn Minh Châu luôn trăn trở suốt dời cầm bút của mình. Hạt ngọc ấy ông
đặt vào Nguyệt, người con gái đã tạo ấn tượng cho người đọc một sức sống trong trẻo lạ
kỳ. Vẻ đẹp ấy được soi chiếu ở nhiều điểm nhìn khác nhau. Ngoài tác giả trong vai trò
người dẫn truyện thỉnh thoảng xuất hiện chen giữa mạch chuyện thì chủ thể trần thuật lại


là Lãm, Lãm cũng chính là nhân vật chính trong truyện. Ngôn ngữ trần thuật của Lãm tập
trung miêu tả, tái hiện các sự kiện, hiện tượng làm nên diễn biến câu chuyện.
Bùi Việt Thắng khi bàn về Vấn đề tình huống trong truyện ngắn Nguyễn Minh
Châu (Tạp chí Văn học số 2/94) lại cho rằng: “Tình huống truyện là một hướng tiếp cận
truyện ngắn của nhà văn. Ông sử dụng ba loại tình huống: tương phản, thắt nút, luận đề
để thể hiện tính tầm cỡ của các tình thế đời sống của con người, hình tượng văn học
mang tính đa nghĩa giúp người đọc nhận thức được quay luật đời sống” [21]. Đôi khi
truyện ngắn Nguyễn Minh Châu trước 1975 chỉ là một khoảnh khắc của cuộc sống (một
câu chuyện trên trận địa, một câu chuyện vui của anh lính lái xe, cảnh một con trâu đẻ

của đại đội, câu chuyện trên vùng đất sỏi), ông tái hiện đời sống khách quan thông qua sự
nhận thức, đánh giá, khái quát, thể hiện mang tính chủ quan của nhà văn, nhà văn phải
tập trung phản ánh đời sống, con người qua các biến cố, các sự kiện xảy ra với nó.
“Nguyễn Minh Châu rất coi trọng yếu tố chi tiết trong tác phẩm, chi tiết có sức
chuyên chở khá nặng tư tưởng của nhà văn và thái độ bình giá của ông trước một hiện
thực bộn bề, phức tạp. Ở một số tác phẩm ngôn ngữ đã đạt sự chuẩn xác, hài hòa” [12]
là ý kiến của Tôn Phương Lan trong bài viết Chiến tranh qua những tác phẩm văn xuôi
được giải (Tạp chí Văn học số 12/94). Ở truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, chi tiết đóng
vai trò quan trọng, nó góp phần tạo dựng không khí và tình huống, khắc họa tính cách,
hành động, tâm lý nhân vật, tạo nên thành công cho truyện ngắn của ông trong thời kì
này.
Nguyễn Minh Châu là hiện tượng văn học khá hiếm hoi bởi vì xung quanh sáng
tác của ông có quá nhiều ý kiến đánh giá khác nhau, thậm chí đối nghịch hoàn toàn. Như
vậy, nghiên cứu về Nguyễn Minh Châu và truyện ngắn của ông là đề tài được rất nhiều
nhà nghiên cứu quan tâm. Tuy nhiên vẫn còn thiếu những công trình khảo sát một cách
chuyên sâu về đặc điểm truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu trước 1975.

3. Mục đích nghiên cứu


Trong một tác phẩm văn học, nội dung và hình thức là hai mặt của của một chỉnh
thể thống nhất. Sự hài hòa giữa nội dung và hình thức sẽ làm nên giá trị của tác phẩm văn
học. Việc nghiên cứu đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Minh Châu trước 1975 nhằm đi tìm
thế giới nội dung và thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu để chỉ ra
sự hài hòa, hợp lý của hình thức nghệ thuật mà tác giả đã tạo dựng nên đối với nội dung
và tư tưởng tương ứng. Vì vậy, trong quá trình nghiên cứu chúng tôi sẽ làm nổi bật một
số phương diện của nội dung và nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu trước
1975. Đây là đề tài tương đối mới nên những công trình nghiên cứu, nhận xét trên cũng
cung cấp nhiều thông tin quý giá để chúng tôi tiếp cận và làm nền tảng để có hướng đi
đúng đắn trong quá trình nghiên cứu đề tài đạt được hiệu quả cao hơn.


4. Phạm vi nghiên cứu
Tìm hiểu đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Minh Châu trước 1975 chúng tôi dành ra
một chương để tìm hiểu khái quát đặc trưng của truyện ngắn và cuộc đời, sự nghiệp sáng
tác của Nguyễn Minh Châu. Sau đó sẽ đi vào tìm hiểu đặc điểm truyện ngắn Nguyễn
Minh Châu trên các bình diện đề tài, chủ đề, cảm hứng nghệ thuật, thế giới nhân vật,
nghệ thuật xây dựng nhân vật, thời gian và không gian nghệ thuật, ngôn từ nghệ thuật.
Từ những nghiên cứu có tính chất cơ sở đó, chúng tôi sẽ cố gắng chỉ ra những đóng
góp của truyện ngắn Nguyễn Minh Châu trước 1975 trên các mặt nội dung tư tưởng (cảm
hứng sử thi anh hùng ca, hiện thực của chiến tranh, những thành tựu và hạn chế của công
cuộc xây dựng XHCN ở miền Bắc) và hình thức nghệ thuật (sự đặc sắc trong nghệ thuật
xây dựng nhân vật, nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ, thời gian và không gian nghệ thuật…)
dựa trên những truyện ngắn đã được xuất bản in trong tập Những vùng trời khác nhau và
in trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội của Nguyễn Minh Châu:
-

Nguồn suối

-

Nhành mai

-

Những vùng trời khác nhau

-

Chuyện đại đội



-

Người mẹ xóm nhà thờ

-

Mảnh trăng

-

Sau một buổi tập

-

Gốc sắn

-

Đôi đũa trúc

-

Trên vùng đất sỏi

-

Những hạt thóc lép

-


Câu chuyện trên trận địa

-

Vừng sáng ở chân trời.

5. Phương pháp nghiên cứu
Để đáp ứng yêu cầu luận văn đặt ra trong quá trình nghiên cứu đề tài chúng tôi đã
sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau:
Trên cơ sở vận dụng phương pháp hệ thống tìm ra những mối quan hệ và những
tác động của các hiện tượng, các thành tố trong một hệ thống, nghiên cứu thế giới nghệ
thuật phải chú ý trước hết đến hệ thống các yếu tố hình thức của tác phẩm.
Phương pháp phân tích để chia tách, phân loại nhân vật, không gian, thời gian
nghệ thuật trong các truyện ngắn Nguyễn Minh Châu trước 1975 để làm nổi bật giá trị
nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
Phương pháp tổng hợp giúp chúng tôi sàn lọc, tổng hợp nhiều tư liệu về nhà văn
cũng như những truyện ngắn đã qua quá trình phân tích để nhìn nhận đúng đắn hơn về
truyện ngắn trong tác phẩm của Nguyễn Minh Châu.
Phương pháp so sánh là phương pháp chính nhằm làm nổi bật sự khác biệt của
truyện ngắn Nguyễn Minh Châu trước 1975 so với các nhà văn cùng thời trên các
phương diện: cảm hứng nghệ thuật, phương pháp sáng tác…. Những phương pháp này sẽ


giúp chúng tôi vận dụng một cách linh hoạt trong quá trình nghiên cứu để triển khai bài
viết được mạch lạc qua đó làm sáng tỏ đề tài nghiên cứu.

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: TRUYỆN NGẮN – KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM;
TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM

1.1 Truyện ngắn – khái niệm và đặc điểm
1.1.1 Khái niệm truyện ngắn
Khái niệm truyện ngắn là một vấn đề mà nhiều nhà nghiên cứu còn thắc mắc và chưa
thống nhất với nhau. Vì vậy, trong phạm vi đề tài nghiên cứu này chúng tôi xin đưa ra
một số nhận định và ý kiến của một số nhà văn, nhà nghiên cứu trong và ngoài nước về
khái niệm truyện ngắn.
Trong bài viết Nhìn lại truyện ngắn hiện đại, nhà văn Anh H.E. Bates cho rằng:
“Truyện ngắn rất khó định nghĩa vì truyện ngắn có thể là bất cứ thứ gì mà tác giả quyết
định, từ tĩnh tại, không cốt truyện, từ bài thơ ở dạng văn xuôi, được vẽ chứ không phải
được viết, từ ánh sáng phát ra tia rực rỡ của cảm xúc không thể nắm bắt được đến một
câu chuyện chặt chẽ trong đó cảm xúc, hành động, phản hành động đều được đo đạc, cố
định, gắn chặt, đánh bóng và hoàn thiện như một ngôi nhà được xây kĩ, sơn ba lớp bóng
nhoáng và bền” [23, tr. 11]. Ở đây nhà văn cho rằng chưa có một định nghĩa cụ thể, đầy
đủ cho thể loại truyện ngắn mà còn lý giải ở nhiều khía cạnh khác nhau chưa định hình rõ
về thể loại.
Nhà văn Nga K. Pauxtopxki cũng có một định nghĩa về truyện ngắn, gắn với định
nghĩa của Goethe: “Thật chất truyện ngắn là gì? Tôi nghĩ rằng truyện ngắn là một truyện
viết ngắn gọn, trong đó cái không bình thường hiện ra như một cái bình thường và cái gì
bình thường hiện ra như một cái không bình thường” [17, tr. 105]. Như thế các tác giả và


nhà nghiên cứu đều thừa nhận yếu tố bất thường, kỳ lạ gây ngạc nhiên và hấp dẫn đối với
người đọc là đặc trưng chủ yếu của truyện ngắn hiện đại.
Theo nhà văn Mĩ U.Xaryoan: “Truyện ngắn là một thể tài văn học sinh ra một cách
tự nhiên, từ những câu chuyện hằng ngày, những câu đùa, những lời trêu chọc của người
này, người nọ, người kia. Nó hết sức dẻo dai để thích hợp với những biến động trong cảm
hứng, cũng tức là tải được mọi sắc thái tài năng của người kể chuyện” [18, tr. 104]. Như
thế, nhà văn cho rằng truyện ngắn hình thành từ những bình dị của đời thường mà ta có
thể cảm nhận và khéo léo pha một chút sáng tạo thì có thể tạo ra phong cách sáng tác
riêng cho một tác giả.

Theo nhà văn Nguyễn Công Hoan thì: “Truyện ngắn không phải là truyện, mà là một
vấn đề được xây dựng bằng chi tiết và sự bố trí chặt chẽ và bằng một thái độ với cách đặt
câu có cân nhắc” [8]. Có nghĩa là truyện ngắn được viết bằng chi tiết và các chi tiết ấy
kết hợp chặt chẽ với nhau tạo nên cảm xúc, sự thống nhất tạo nên một tác phẩm.
Một trong những xác định súc tích và khá chuẩn về truyện ngắn là định nghĩa của
Lại Nguyên Ân trong Từ điển văn học: “Truyện ngắn là một thể loại tự sự cỡ nhỏ,
thường được viết bằng văn xuôi, đề cập hầu hết các phương diện của đời sống, con
người và xã hội. Truyện ngắn khác với truyện vừa và truyện dài – vốn là những thể tài
mà quy mô cho phép chiếm lĩnh đời sống trong toàn bộ sự toàn vẹn, đầy đặn của nó –
truyện ngắn là nhằm khắc họa một hiện tượng, phát hiện một đặc tính trong quan hệ con
người hay trong đời sống tâm hồn con người” [1, tr. 10].
Nhìn chung, hầu hết các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước đều đưa ra cách
nhìn đa chiều về định nghĩa truyện ngắn. Từ những nhận định trên, chúng tôi có thể đưa
ra một định nghĩa khái quát về truyện ngắn: truyện ngắn là tự sự cỡ nhỏ, nội dung thể loại
của truyện ngắn bao trùm hầu hết các phương diện của đời sống, đời tư, thế sự hay sử thi,
nhưng cái độc đáo của nó là ngắn gọn. Nó chỉ là một đoạn đời nhân vật một lát cắt, một
hiện tượng xã hội, một khoảnh khắc nội tâm của con người thông qua lăng kính của nhà


văn. Bởi truyện ngắn được viết ra để đọc liền một mạch, tuy nhiên, mức độ dài ngắn chưa
phải là đặc điểm chủ yếu phân biệt truyện ngắn với các tác phẩm tự sự loại khác.

1.1.2 Đặc điểm truyện ngắn
Truyện ngắn là một thể loại của loại hình tự sự. Nó thường là các câu chuyện được
kể bằng văn xuôi và có xu hướng ngắn gọn, súc tích và hàm nghĩa hơn các câu truyện dài
như tiểu thuyết. Thông thường truyện ngắn có độ dài chỉ từ vài dòng đến vài chục trang,
vì thế ta có thể hiểu về dung lượng truyện ngắn theo Bùi Việt Thắng đã đưa ra nhận định
như sau: “Lớn – nhỏ, nhiều – ít, quá trình – kết quả, đa tuyến – đơn tuyến, toàn cảnh –
cận cảnh, diện – điểm…” [22, tr. 73].
Tình huống truyện luôn là vấn đề quan trọng bậc nhất của nghệ thuật truyện ngắn.

Truyện ngắn thường chỉ tập trung vào một tình huống, một chủ đề nhất định do đó,
truyện ngắn thường hết sức hạn chế về nhân vật, thời gian và không gian trong truyện
ngắn cũng không trải dài như tiểu thuyết. Đôi khi truyện ngắn chỉ là một khoảnh khắc
của cuộc sống, nó tái hiện đời sống khách quan thông qua sự nhận thức, đánh giá, khái
quát, thể hiện mang tính chủ quan của nhà văn, nhà văn phải tập trung phản ánh đời sống,
con người qua các biến cố, các sự kiện xảy ra với nó. Truyện có ngắn nhưng không thể
ngắn hơn cái mức người ta có thể hiểu ý đồ của tác giả. Về nội dung, truyện ngắn có thể
kể về cả một cuộc đời, một sự kiện hay một khoảnh khắc trong cuộc sống nhân vật.
Trong tập truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài miêu tả về cuộc đời của người phụ
nữ Tây Bắc nghèo khổ với niềm cảm thông sâu sắc nhân vật Mị, một cô dâu gạt nợ đang
chết dần chết mòn, bị đày đọa về thể xác lẫn tinh thần giữa địa ngục nhà thống lý Pá Tra,
nhưng người phụ nữ ấy vẫn có sức sống tiềm tàng, mãnh liệt. Hay cuộc đời của Chí Phèo
từ khi sinh ra đã bị bỏ rơi ở cái lò gạch cũ, được người ta nhặt về nuôi, lớn lên đi ở cho


nhà Bá Kiến, bị đẩy vào tù do âm mưu thâm độc của Bá Kiến, sau khi được ra tù trở về
làng Vũ Đại với cái vẻ lưu manh bất cần đời, gặp Thị Nở sau đó bị từ chối, cự tuyệt
quyền làm người đến cái chết giải thoát. Tóm lại, truyện ngắn có nội dung phản ánh
những giá trị cuộc sống khá hiện thực, thể hiện được cách nhìn của nhà văn về khía cạnh
con người, đời sống khá đầy đủ.
Nếu mỗi nhân vật của tiểu thuyết là một thế giới thì mỗi nhân vật của truyện ngắn là
một mảnh nhỏ của thế giới ấy. Có nghĩa truyện ngắn thường không nhắm tới việc khắc
họa những tính cách đầy đặn, nhiều mặt trong tương quan với hoàn cảnh. Nhân vật của
truyện ngắn thường là hiện thân cho một trạng thái quan hệ xã hội, ý thức xã hội hoặc
trạng thái tồn tại của con người. Vì thế nhân vật là một phương tiện rất quan trọng của
truyện ngắn. Ở các truyện ngắn đặc sắc, bao giờ các tác giả cũng xây dựng những nhân
vật điển hình như AQ ( AQ chính truyện - Lỗ Tấn), Chí Phèo (Chí Phèo - Nam Cao),
tướng Thuấn (Tướng về hưu - Nguyễn Huy Thiệp), Lãm và Nguyệt (Mảnh trăng cuối
rừng - Nguyễn Minh Châu). Nhân vật còn thể hiện rất rõ phong cách của nhà văn, thông
qua nhân vật Huấn Cao (Chữ người tử tù) với cái tài viết chữ đẹp, con chữ ở đây không

chỉ là những kí tự thông thường mà gắn với cả một nghệ thuật thư họa truyền thống, một
thú chơi tao nhã của người xưa. Có thể nói Huấn Cao là nhân vật đẹp nhất trong đời văn
của Nguyễn Tuân, Huấn Cao đã bộc lộ quan điểm thẩm mỹ của nhà văn đó là cái đẹp
phải gắn liền với cái thiện, chữ tài phải gắn với chữ tâm. Nam Cao xây dựng kiểu con
người trí thức như Hộ trong Đời thừa, đó là bi kịch của một nhà văn giàu khát vọng có
hoài bão lớn lao nhưng bị gánh nặng cơm áo đè xuống phải chịu đựng một cuộc sống vô
ích “đời thừa”, bi kịch coi tình thương là nguyên tắc sống nhưng lại vi phạm vào lẽ sống
tình thương, mang nặng quan điểm văn chương của Nam Cao về nghề văn – là một nghề
cao quý, nhà văn phải có lương tâm và trách nhiệm với cuộc sống. Truyện ngắn Vợ nhặt
của Kim Lân hiện lên hình ảnh bà cụ Tứ, anh Tràng, thị - những con người nghèo khổ
trên cái nền của nạn đói 1945. Là Chiến và Việt trong Những đứa con trong gia đình của
Nguyễn Thi, những đứa con miền Nam giàu lòng yêu nước, căm thù giặc và tình nguyện
cầm súng chiến đấu. Tuy nhiên, mỗi hành động, tính cách nhân vật đều toát lên một ý


nghĩa riêng giúp cho người đọc nhận ra một điều gì đó trong cuộc sống góp phần làm nên
thành công của truyện ngắn.
Cốt truyện của truyện ngắn thường diễn ra trong một thời gian, không gian hạn chế,
chức năng của nó nói chung là nhận ra một điều gì đó sâu sắc về cuộc đời và tình người.
Theo Phương Lựu trong giáo trình Lí luận văn học, cho rằng: “Cốt truyện thực chất là
cái lõi diễn biến của truyện từ xảy ra cho đến kết thúc” [13]. Còn theo Lại Nguyên Ân:
“Cốt truyện là sự phát triển hành động; tiến trình các sự việc, các biến cố trong tác
phẩm” [1]. Nhìn chung, các tác giả đồng quan niệm cho rằng cốt truyện là kể về biến cố,
trình tự sự việc theo trật tự nhất định có mở đầu và kết thúc. Nhà văn Nguyễn Minh Châu
cho rằng: “Cũng như kịch ngắn, truyện ngắn đòi hỏi ở người viết một công việc tổ chức
và cấu trúc truyện ngắn hết sức nghiêm ngặt. Quả thật có một thứ kĩ thuật tinh xảo – kĩ
thuật viết truyện ngắn . Nó giống như kĩ thuật của con người làm pháo, dồn nến tư tưởng
vào trong một cốt truyện thật ngắn gọn, tự nhiên” [2, tr. 25]. Vì vậy, sự hấp dẫn của cốt
truyện trong truyện ngắn chính là tái hiện cuộc sống, ấn tượng sâu đậm về cuộc đời và
tình người. Trong khi cốt truyện của truyện ngắn Nam Cao thường chú ý tới đời sống

người nông dân, nông thôn Việt Nam trước 1945 thì Vũ Trọng Phụng lại đi vào cái xã hội
nửa phong kiến thời Pháp thuộc. Kết cấu của truyện ngắn không chia thành nhiều tầng,
nhiều tuyến mà thường được xây dựng theo nguyên tắc tương phản hoặc liên tưởng. Bút
pháp trần thuật của truyện ngắn thường là chấm phá. Nếu như cốt truyện thuộc về nội
dung thì kết cấu thuộc về hình thức, kết cấu có vai trò quan trọng trong việc thực hiện
thống nhất chặt chẽ giữa chủ đề tư tưởng với tính cách nhân vật, tình huống truyện. Tùy
vào sáng tác của nhà văn mà có thể có các kiểu kết cấu theo trình tự thời gian, kết cấu
theo tuyến nhân vật, kết cấu tâm lý…
Yếu tố quan trọng bậc nhất trong truyện ngắn là những chi tiết cô đúc, có dung lượng
lớn và lối hành văn mang nhiều ẩn ý, tạo cho tác phẩm những chiều sâu chưa nói hết. Ở
truyện ngắn, chi tiết đóng vai trò quan trọng, nó góp phần tạo dựng không khí và tình
huống, khắc họa tính cách, hành động, tâm lý nhân vật. Nhiều nhà văn đã ra sức tìm một
khoảnh khắc đích đáng cho truyện ngắn của mình. Nó có giá trị như một điểm xoáy trong


đó nhân vật có thể khơi mở, bộc lộ trọn vẹn tính cách. Truyện ngắn Lặng lẽ Sapa của
Nguyễn Thành Long, Kịch câm của Phan Thị Vàng Anh, Sang sông của Nguyễn Huy
Thiệp, Những vùng trời khác nhau của Nguyễn Minh Châu… là những truyện ngắn có
chứa đựng những khoảnh khắc như vậy.
Có thể thấy, truyện ngắn có những đặc trưng về hình thức, chủ đề, kết cấu, cốt
truyện, ngôn ngữ, thủ pháp nghệ thuật. Truyện ngắn thường miêu tả lát cắt của cuộc
sống, một giai đoạn, một khoảnh khắc đầy ý nghĩa khám phá trong cuộc đời nhân vật.
Truyện ngắn chỉ tập trung xung quanh một chủ đề, không gian và thời gian nhất định với
những chi tiết được chọn lọc, cô đúc tạo nên tính hàm súc của ngôn ngữ, tính biểu tượng
của các nhân vật nhằm biểu hiện những vấn đề xã hội có tầm khái quát rộng lớn.

1.1.3 Đặc điểm truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1954-1975
Văn học giai đoạn 1954 – 1975, một trong những giai đoạn rực rỡ của nền văn học
Việt Nam. Đây là giai đoạn lịch sử ác liệt nhất cũng là giai đoạn văn học gặt hái được
nhiều hoa thơm quả ngọt. Hiện thực chiến tranh trong hơn 30 năm, xã hội biến động dồn

dập và con người hiện lên dũng mãnh, khí phách, kiên trung và chan chứa yêu thương.
Về lưc lượng sáng tác: Đội ngũ nhà văn đông đảo, nhiệt tình, gắn bó với cuộc sống,
luôn có sự tìm tòi thể nghiệm trong sáng tác để tạo nên sự phát triển mạnh mẽ và ngày
một phong phú hơn cho truyện ngắn thời kì này. Ngoài lớp nhà văn trước như Nguyễn
Tuân, Nguyên Hồng, Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Công Hoan… đặc biệt là sự
xuất hiện của nhiều nhà văn như Vũ Tú Nam, Anh Đức, Nguyên Ngọc, Nguyễn Minh
Châu, Nguyễn Thi…
Về nội dung phản ánh: Hầu hết nhà văn trước 1975 đều quán triệt tư tưởng lấy văn
nghệ làm vũ khí như Phan Tứ, Nguyễn Thi, Anh Đức, Nguyên Ngọc, Nguyễn Minh
Châu… Cho nên hiện thực được phản ánh trong tác phẩm giai đoạn này khá giống nhau.
Truyện ngắn thời kì này phản ánh nhiều vấn đề của hiện thực đời sống trong kháng chiến
cũng như trong những năm tháng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc như Mùa lạc


của Nguyễn Khải, Trở về Hà Nội của Phan Tứ, Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành,
Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi, Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang
Sáng, Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu… Các nhà văn thể hiện chủ đề
trong những hướng tiếp cận và lý giải hiện thực cụ thể của riêng mình, khuynh hướng
vận động từ cuộc sống nghèo khổ đến ấm no, từ bóng tối đến ánh sáng, từ nô lệ đến giải
phóng, làm chủ mình, làm chủ đất nước. Không ít nhân vật trong các tác phẩm là hình
mẫu từ cuộc sống chiến đấu của dân tộc, ở từng mức độ nhà văn không chỉ phản ánh chân
thật cuộc sống sinh động mà còn lý giải những vấn đề đặt ra như cái cũ và cái mới, cá
nhân và tập thể, quan niệm về hạnh phúc, tầm nhìn của người cán bộ… trong buổi đầu
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Ngay từ những năm đầu của cuộc kháng chiến
chống Mỹ, nhiều nhà văn đã có mặt trên mọi trận địa, vừa cầm súng vừa cầm bút đến
chiến trường tìm nguồn cảm hứng sáng tạo, thể hiện khía cạnh khác nhau của đời sống
chiến tranh và đều mang nét đẹp riêng góp phần làm nên vẻ đẹp chung cho truyện ngắn
giai đoạn này. Nó đã phản ánh và đáp ứng kịp thời yêu cầu của thời đại, góp phần cổ vũ
mạnh mẽ công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong những năm tháng ác liệt đó.
Về bút pháp nghệ thuật: Ở từng phương diện và mức độ khác nhau, các tác phẩm của

các nhà văn đã thể hiện được một cách thành công sự sàng lọc con người trong cuộc sống
xây dựng và chiến đấu. Bút pháp xây dựng nhân vật ở thời kì này cũng có bước phát triển
đáng chú ý. Nhà văn chú trọng hơn trong việc đi sâu vào khai thác nội tâm, đời sống tinh
thần của nhân vật. Giọng điệu anh hùng, ngợi ca xen lẫn giọng điệu trữ tình, sâu lắng và
đầy sáng tạo với chất liệu ngôn từ giản dị, xây dựng nhân vật qua các chuỗi thời gian,
không gian nghệ thuật một cách uyển chuyển và nghệ thuật khắc họa tâm lý nhân vật sâu
sắc.

1.2 Tác giả và tác phẩm
1.2.1 Tác giả Nguyễn Minh Châu
1.2.1.1 Cuộc đời


Nguyễn Minh Châu sinh ngày 23 tháng 10 năm 1930 trong một gia đình nông dân
khá giả ở làng Thơi thuộc huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Là con út trong một gia đình
có sáu anh chị em, Nguyễn Minh Châu được tạo điều kiện học hành khá chu đáo. Ông
học ở quê rồi vào Huế, học tiếp đến năm 1945 khi Nhật đảo chính Pháp thì ông trở về quê
thi đỗ bằng Thành Chung. Những năm đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, Nguyễn Minh
Châu tiếp tục học trung học trong vùng kháng chiến. Đầu năm 1950, khi đang là học sinh
chuyên khoa trường Huỳnh Thúc Kháng ở Nghệ An, Nguyễn Minh Châu tình nguyện
vào quân đội. Sau một khoá đào tạo ngắn của trường Lục quân Trần Quốc Tuấn, Nguyễn
Minh Châu về sư đoàn 320 làm cán bộ trung đội. Trong những năm từ 1950 đến 1954,
Nguyễn Minh Châu cùng đơn vị chiến đấu và hoạt động ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Sau
1954, Nguyễn Minh Châu tiếp tục phục vụ trong quân đội làm cán bộ tuyên huấn tiểu
đoàn. Từ 1956 đến 1958, Nguyễn Minh Châu là trợ lý văn hóa trung đoàn 64 thuộc sư
đoàn 320. Năm 1961, ông theo học trường Văn hóa Lạng Sơn. Năm 1962, Nguyễn Minh
Châu về công tác tại phòng Văn nghệ Quân đội, sau chuyển sang Tạp chí Văn nghệ Quân
đội. Ông được kết nạp vào Hội nhà văn Việt Nam năm 1972. Nguyễn Minh Châu qua đời
ngày 23 tháng 1 năm 1989 tại Hà Nội, thọ 59 tuổi.
Sự xuất thân từ một vùng nông thôn nghèo xứ Nghệ và việc gia nhập quân đội có

ảnh hưởng đậm nét đến sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Minh Châu. Phần lớn tác phẩm
của ông khởi phát từ hai mạch cảm hứng là cảm hứng về nông thôn, người nông dân và
cảm hứng về chiến trường, người lính.

1.2.1.2 Sự nghiệp sáng tác
“Nguyễn Minh Châu là người kế tục xuất sắc những bậc thầy của nền văn xuôi
Việt Nam và cũng là người mở đường rực rỡ cho những cây bút trẻ tài năng sau này”
[10] (Nguyễn Khải). Với hai chặng đường sáng tác ở hai giai đoạn văn học trước và sau
1975, Nguyễn Minh Châu có những đóng góp to lớn cho nền văn học hiện đại. Các tiểu
thuyết và truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu trước 1975 khá tiêu biểu cho nền văn học
thời kì kháng chiến chống Mỹ. Đặc biệt, sau 1975 Nguyễn Minh Châu là một trong


những “người mở đường tinh anh và tài năng nhất” [15] (Nguyên Ngọc) của công cuộc
đổi mới văn học.
Năm 1959, Nguyễn Minh Châu đi dự hội nghị bạn viết toàn quân, 1960 được điều
động về cục Văn hóa quân đội, rồi về Tạp chí Văn nghệ Quân đội vừa làm biên tập vừa
làm phóng viên. Tại đây, Nguyễn Minh Châu bắt đầu viết văn và cho in những truyện
ngắn đầu tay nhưng chưa gây được sự chú ý. Sự nghiệp văn học của Nguyễn Minh Châu
chỉ thật sự được khẳng định trong thời kì kháng chiến chống Mỹ với hai cuốn tiểu
thuyết Cửa sông (1966), Dấu chân người lính (1972) và tập truyện ngắn Những vùng
trời khác nhau (1970). Nguyễn Minh Châu đã có nhiều chuyến đi thực tế chiến trường,
từ Quảng Bình, Vĩnh Linh đến đường 9 Nam Lào và đặc biệt là chiến trường Quảng Trị
- nơi diễn ra nhiều chiến dịch hết sức quyết liệt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Là
nhà văn quân đội, Nguyễn Minh Châu đã phản ánh kịp thời những hình ảnh sinh động
của cuộc chiến đấu và hình tượng cao đẹp của những con người Việt Nam thuộc nhiều
thế hệ. Đồng thời, nhà văn cũng phát hiện và suy ngẫm về nhiều vấn đề của đời sống xã
hội và số phận con người ngay trong chiến tranh, được ông ghi lại trong nhiều trang sổ
tay và sau này sẽ trở thành những vấn đề chủ đạo trong sáng tác thời hậu chiến của chính
ông.

Ngay sau năm 1975, Nguyễn Minh Châu đã sớm nhận ra những hạn chế của nền
văn học thời chiến tranh. Ông đã thầm lặng nhưng dũng cảm và kiên định tìm kiếm con
đường đổi mới sáng tác của chính mình. Hai cuốn tiểu thuyết xuất bản năm 1977: Miền
cháy, Lửa từ những ngôi nhà đã đem lại một sắc diện mới trong sáng tác của nhà văn.
Những truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu ra mắt bạn đọc ở nửa đầu những năm 1980
thực sự là những tìm tòi mới, với cái nhìn mới về hiện thực và con người, khiến Nguyễn
Minh Châu trở thành một trong những người mở đường tinh anh và tài năng nhất của
công cuộc đổi mới văn học. Nhiều tác phẩm ra đời như truyện dài Người đàn bà trên
chuyến tàu tốc hành (1983), truyện ngắn Bến quê (1985), truyện ngắn Cỏ lau (1989) và
một số tiểu thuyết Những người đi từ trong rừng ra (1982), Mảnh đất tình yêu (1987).
Khi công cuộc đổi mới đất nước được chính thức phát động, Nguyễn Minh Châu nhiệt


thành và đầy tâm huyết với công cuộc đổi mới nền văn học nước nhà, vừa bằng những
phát biểu trực tiếp, mạnh mẽ, vừa bằng những sáng tác đã đạt đến độ sâu sắc của tư tưởng
và sự kết tinh nghệ thuật cao.
Không chỉ trong sáng tác, ông còn để lại đấu ấn cá nhân qua những trang tiểu luận,
phê bình hết sức sâu sắc suốt quãng thời gian dài, sau này được tập hợp lại trong cuốn
Trang giấy trước đèn. Các bài tiểu luận của ông đã đề cập đến nhiều phương diện trong
quá trình văn học: Tác dụng của văn học, mối quan hệ giữa văn học và đời sống chiến
tranh cách mạng, mối quan hệ giữa nhà văn – nhân vật – độc giả, vai trò và trách nhiệm
của người cầm bút, chân dung nhà văn, kinh nghiệm sáng tác… Những bài viết của ông
cũng đã góp phần không nhỏ trong việc tạo nên một không khí sôi nổi trong đời sống văn
học những năm cuối thế kỉ XX, đồng thời giúp người đọc hiểu thêm về con người và
sáng tác của ông, một trong những nhà văn đi đầu công cuộc đổi mới văn học.
Nhưng số mệnh nghiệt ngã với căn bệnh hiểm nghèo ung thư máu đã khiến hành
trình sáng tạo của Nguyễn Minh Châu phải đột ngột dừng lại khi vừa đạt tới độ chín của
tài năng. Ngày 23 tháng 1 năm 1989 Nguyễn Minh Châu trút hơi thở cuối cùng tại viện
quân y 108 Hà Nội, sau gần một năm chống chọi với bạo bệnh, để lại nhiều dự định sáng
tác còn đang ấp ủ. Tác phẩm cuối cùng - truyện vừa Phiên Chợ Giát - được hoàn thành

ngay trên giường bệnh trước đó không lâu.
1.2.2 Giới thiệu một số truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu trước 1975
Trong những năm kháng chiến chống Mỹ, Nguyễn Minh Châu đã dành trọn vẹn
nửa đời văn của mình đi sâu, khám phá, phản ánh hiện thực chiến tranh và người lính.
Truyện ngắn đầu tiên Sau một buổi tập được in trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội năm
1960 đánh dấu bước đi đầu tiên của ông. Tập truyện ngắn Những vùng trời khác
nhau (1970) gồm bảy truyện ngắn, chủ yếu được viết trong những năm đầu chiến tranh
chống Mỹ. Tất cả đều là những câu chuyện, những hình ảnh trong chiến tranh. Cùng với
hình ảnh người lính như anh du kích chống Pháp (Ngạn), người lính pháo thủ (Lương),


anh chiến sĩ cao sạ (Sơn, Lê), anh lính láy xe (Lãm), thì đậm nét hơn cả lại là một số nhân
vật nữ như Thận (Nhành mai), Bà mẹ Lân (Bà mẹ xóm Nhà thờ), Nguyệt (Mảnh trăng
cuối rừng). Ở tập truyện ngắn đầu tay này, ngòi bút tác giả chưa phải đã thật sự già dặn
trong nghệ thuật kể chuyện, tổ chức kết cấu, tạo tình huống. Một số truyện còn được xây
dựng theo mạch kể chuyện khá đơn giản. Đặc sắc hơn cả là truyện Mảnh trăng (về sau,
khi in trong tuyển tập truyện ngắn có tên là Mảnh trăng cuối rừng). Mảnh trăng cuối
rừng là truyện ngắn hay nhất của Nguyễn Minh Châu trong những năm chống Mỹ.
Truyện khá tiêu biểu cho những đặc điểm bút pháp của nhà văn trong giai đoạn trước
1975 và cũng mang những đặc điểm chung của văn học ta giai đoạn ấy. Truyện ngắn này
đã được đưa vào nhiều tuyển tập truyện ngắn Việt Nam và được nhà phê bình N.I.
Niculin giới thiệu trong Cuộc chiến tranh giải phóng và truyện ngắn Việt Nam hiện đại
và nhận xét: “Niềm tin vào tính bất khả chiến thắng của cái đẹp tinh thần, cái thiện đã
được khúc xạ ở chỗ, anh đã tắm rửa sạch sẽ các nhân vật của mình, họ giống như được
bao bọc trong một bầu không khí vô trùng…” [19]. Và có thể thấy sự đổi mới này trên
mảng hiện thực quen thuộc nhất của ngòi bút Nguyễn Minh Châu – chiến tranh cách
mạng và người lính. Mười hai truyện ngắn được in trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội từ
năm 1962 đến năm 1964 là những truyện ngắn viết trong khoảng thời gian hòa bình ngắn
ngủi ở miền Bắc, người bộ đội, nhân vật chính trong truyện của Nguyễn Minh Châu vẫn
sôi sục tinh thần tiền tuyến, luyện tập tốt, nghiêm khắc với bản thân như Bình, Sinh, Trần

Việt, An, Thoa… trong Buổi tập cuối năm, Gốc sắn, Trên vùng đất sỏi, Đôi đũa trúc…
Theo hướng tiếp cận hiện thực mới mẻ này, sáng tác của Nguyễn Minh Châu đã góp
phần phát hiện ra những quy luật vận động sâu kín của đời sống nhân sinh thế sự và đạt
tới một chiều sâu nhân bản mới.

CHƯƠNG II: ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN MINH CHÂU TRƯỚC 1975
2.1 Hiện thực chiến tranh trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu trước 1975
Giai đoạn văn học 1945-1975 ra đời trong hoàn cảnh đất nước chiến tranh, một giai
đoạn lịch sử có nhiều khó khăn, gian khổ, tàn khốc với nhiều mất mát, hy sinh và cũng có


không ít chiến công vĩ đại. Và chính hoàn cảnh lịch sử đó đã tạo ra một nền văn học cách
mạng đạt được rất nhiều thành tựu to lớn, đóng góp lớn vào công cuộc kháng chiến giải
phóng đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hiện thực trong văn chương lúc bấy giờ là
những trận đánh, những sự kiện, những vấn đề lớn lao của dân tộc và đất nước, hình
tượng cơ bản con người tập thể gắn với mối quan hệ cộng đồng, giai cấp. Nguyễn Minh
Châu đã phản ánh hiện thực của cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách sinh động thông
qua sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực và lãng mạn.

2.1.1 Những khó khăn gian khổ trong chiến tranh
Cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 là một bước ngoặc vĩ đại trong lịch sử dân
tộc ta, mở đầu cho kỉ nguyên độc lập, tự do của dân tộc. Chưa được bao lâu thì Pháp quay
trở lại đánh chiếm miền Bắc, đất nước phải chìm trong máu lửa của chiến tranh. Đánh
Pháp xong thì giặc Mỹ lại tràn tới, ba mươi năm, dân tộc ta liên tiếp tiến hành hai cuộc
kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ để bảo vệ độc lập tự do và thống nhất nước nhà.
Với cuộc kháng chiến chống Mỹ, thực tế “ra ngõ gặp anh hùng” đã mang lại cho nhà văn
nguồn tư liệu dồi dào, nguồn cảm hứng bất tận trong sáng tác. Viết về tội ác của bọn đế
quốc Mỹ và bè lũ tay sai, nhưng hơn tất cả, nhà văn muốn tập trung ca ngợi chủ nghĩa anh
hùng, ca ngợi những con người đã chiến đấu vì tổ quốc, vượt qua thực tại đau thương,

đầy gian khổ vẫn hướng về tương lai, tin tưởng đất nước sẽ có ngày hòa bình.
Hiện thực của cuộc kháng chiến chống Mỹ trong hơn ba mươi năm với biết bao ác
liệt, hầu hết các nhà văn thời kì này đều lấy văn nghệ làm vũ khí, đề tài chiến tranh đã trở
thành mảnh đất đầy hứa hẹn để các nhà văn khai thác và khám phá những phẩm chất anh
hùng của nguời Việt Nam đồng thời cũng thể hiện lòng yêu nước của người chiến sĩ cầm
bút đối với Tổ quốc, với nhân dân và nhiều tác phẩm đã ra đời: Sống mãi với thủ đô
(Nguyễn Huy Tưởng), Đất nước đứng lên (Nguyên Ngọc), Gia đình má Bảy (Phan Tứ),


Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành), Người mẹ cầm súng (Nguyễn Thi), Những vùng trời
khác nhau (Nguyễn Minh Châu)…
Hiện thực chiến tranh là hiện thực bề bộn, ngỗn ngang với bề nổi và cả bao lớp
trầm tích bên trong. Các trang sách chỉ mới là một phần rất nhỏ về cuộc chiến chống Mỹ
vô cùng phức tạp và gian khổ của cả dân tộc. Những khó khăn, gian khổ trong kháng
chiến đã được Nguyễn Minh Châu miêu tả hết sức sinh động. Những khó khăn, gian khổ
trong chiến đấu, những cuộc chiến tranh phá hoại của địch mở rộng nhanh chóng, những
trận càn bằng máy bay trên bầu trời mù mịt khói đạn hay những đợt ném bom bắn phá ác
liệt của bọn giặc trên quê hương “thỉnh thoảng từ mạn bờ biển bỗng rộ lên tiếng xèn xẹc
của động cơ phản lực rồi vụt biến mất. Ở đây người ta trông thấy cuộc chiến tranh rõ
hơn ở những đoàn xe quân sự vấy bùn lấm láp, lá ngụy trang xù ra chạy suốt đêm trên
đường” [3, tr. 97]. Con người cảm nhận được chiến tranh đang đến và mang theo bao khó
khăn để con người đối mặt và vượt qua. Nguyễn Minh Châu đã miêu tả cái xóm nhà thờ
nhỏ nằm sâu hun hút, chẹt trong khe núi cũng bị bọn giặc ném bom và bắn phá, cuộc
chiến tranh hiện ra rõ nét hơn với những đoàn xe quân sự chạy ầm ầm trên đường, nhiều
tốp máy bay địch bất ngờ lao tới, trận đánh ở cái xóm nhà thờ này xảy ra rất nhanh và rất
ác liệt: “Bên kia sông, từ xóm nhà thờ vẳng lên tiếng thét, tiếng la khóc và lửa đỏ cháy
bừng bừng; một cụm khói đen như cái nấm trùm kín cái xóm nhỏ” [3, tr. 109]. Chiến
tranh với những khó khăn trước mắt cần giải quyết là chống lại những âm mưu, những
cuộc càng quét, hay những trận đánh ngầm của giặc “địch quay tròn trên đầu như xay
lúa, rất thấp, thả pháo sáng và bắn hai mươi ly” [3, tr. 130]. Người lính phải đối mặt với

bọn giặc trong khi chưa chuẩn bị gì cả: “Cuộc chiến đấu diễn ra ở từng ngã ba, khu nhà,
góc phố giữa lúc giấc ngủ của nhân dân đang ngon lành nhất” [4, tr. 564], chúng ta
không biết khi nào giặc tới, không biết trước được bọn chúng sẽ vận dụng lối tác chiến gì
nhưng những người lính của ta vẫn quyết tâm sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc. Trong Câu
chuyện trên trận địa, trước những khó khăn mà những pháo thủ phải đương đầu với kẻ
thù, họ đều vượt qua, biết bao nhiêu đợt chiến đấu quyết liệt với từng tốp máy bay từ biển
xô vào định đập vỡ cái đài quan sát, những pháo thủ phải chịu “cát bám thành từng lớp


dày trên mũ, trên lông mày và trên quân phục đã ướt đẫm của các chiến sĩ” [4, tr. 761].
Tiếng máy bay của Mỹ cũng giống như lời đe dọa của tên cầm đầu nước Mỹ, mỗi lúc
máy bay kéo đến một đông nhưng đều bị các pháo thủ tiêu diệt.
Những khó khăn gian khổ không chỉ có trong những lúc đối mặt với kẻ thù mà
những lúc hành quân, lúc luyện tập, người lính cũng gặp phải những khó khăn ấy. Những
ngày kháng chiến vô cùng thiếu thốn và gian khổ, những người lính như Bính “phải chia
nhau cùng các chiến sĩ từng hạt ngô rang vấy máu của các đồng chí đã hy sinh, ăn cầm
hơi để leo đá tai mèo truy kích địch” [4, tr. 602]. Không chỉ Sơn mà những pháo thủ
(Những vùng trời khác nhau) bị bom đạn, bùn đất và gió Lào làm gương mặt sắt lại, gò
má sạm nắng, những lúc ngồi trên mâm pháo với đủ thứ “doanh cụ” nào là chồng lát
giường, vải bạt, nồi niêu, gà chó và hàng trăm thứ tạp nhạp, những cuộc hành quân từ
vùng này sang vùng khác, con đường xuyên qua Trường Sơn trong những ngày mưa dầm
và giá rét, đôi khi vượt qua cơn gió Lào gay gắt hay những trận mưa rừng càng tạo thêm
nhiều khó khăn gian khổ cho những người lính. Đồng chí Bẩm với công việc âm thầm và
đầy nguy hiểm: “Anh len lỏi vào tận các vùng Cầu Hai, Lập An để gây dựng phong trào,
chuẩn bị cơ sở cho bộ đội về. Những trận phục kích những đoàn tàu sơn đen chở binh
lính Âu Phi chật nít từ Huế vào Đà Nẵng và từ Đã Nẵng vào Hội An bắt đầu từ những
công việc kiên nhẫn và lặng lẽ” [4, tr. 766], việc chuẩn bị một trận đánh có khi mất một
vài tháng hay hơn, có đồng chí bị hy sinh, nhưng diễn biến trận đánh chỉ trông chớp mắt.
Đó là những khó khăn, gian khổ nhưng với ý chí quyết tâm của mình thì những người
lính có thể vượt qua một cách dễ dàng và tin tưởng vào một tương lai tươi sáng phía

trước.
Trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, một lần nữa chúng ta càng thấy rõ cuộc
sống khốn khổ của con người trong hoàn cảnh chiến tranh, những khó khăn gian khổ ấy
lại tạo ra cái nền để những nhân vật hiện lên một cách rực rỡ hào hùng.

2.1.2 Những mất mát, hy sinh trong cuộc chiến


Chiến tranh không chỉ có vinh quang, hay đấu tranh vì chính nghĩa, chung quy lại
thì chiến tranh là sự chết chóc, sự hủy diệt, mất mát và đau thương. Chiến tranh đã cướp
đi người thân, gia đình, tuổi trẻ, tình yêu và cả nhân tính. Những cuộc chiến, những cái
chết trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu không phải miêu tả trong những sự kiện,
những chiến dịch, nhũng trận đánh mà nó hiện lên trong hồi ức của từng nhân vật và
chiến tranh đi qua để lại biết bao mất mát đau thương và nỗi buồn vô tận, khôn nguôi.
Chiến tranh vẫn cứ theo quy luật của nó, chiến tranh là sự tàn phá kinh hoàng, là sự hy
sinh, tổn thất to lớn, là máu và nước mắt, sự chia ly của mỗi cá thể, mỗi gia đình và toàn
xã hội.
Cái tàn bạo của cuộc chiến hiện ra khi nó tước đi sinh mạng con người và kinh
khủng hơn là việc nó ám ảnh nhũng người còn sống. Cái chết trong chiến tranh dường
như vẫn hiện diện trong tâm thức của mỗi con người, vết thương da thịt theo năm tháng
có thể lành, còn vết thương tâm hồn của con người vẫn mãi hằn sâu. Những ám ảnh
khủng khiếp về cuộc chiến, về sự mất mát, hy sinh ngày nào vẫn còn đeo bám họ một
cách dai dẳng. Chiến tranh, nghe có vẻ hào hùng, oanh liệt, nhưng có ai biết rằng bên
dưới vẻ đẹp rực rỡ, hào nhoáng của những chiến công kia là biết bao nỗi đau và sự hy
sinh to lớn. “Cái hoàn cảnh địch hậu mà tất cả sự tàn ác dã man của quân giặc gieo tang
tóc thương đau lên những con người và mài sắc họ từ những người bình thường trở
thành anh dũng bất khuất” [4, tr. 536]. Những ngày gian truân, nước sôi lửa bỏng được
kể lại bởi người mẹ chứng kiến toàn bộ về sự tàn bạo của bọn giặc ác ôn. Chúng lùng sục,
bắt bớ, tra tấn một cách tàn nhẫn bố Hạnh. Chúng dùng nhiều thủ đoạn “không biết thế
nào cái thằng bá Chương chó má, nó mới biết được đem lính dõng phục ngoài vườn

chuối. Gà gáy bố nó vừa đặt chân ra đến vại nước thì nó xông ập vào chộp lấy” chúng
đánh đập tra tấn chiến sĩ của ta đến “da cứ thâm sì, quần áo chỉ còn một dúm giẻ bê bết
máu khô đen. Một con mắt trái cứ nhắm cứng lại” [4, tr. 537], chúng tra tấn hơn một
tháng rồi uy hiếp người thân nhưng không khai thác được gì. Hay mẹ Thận bị thằng
phòng Nhì dọ dẫm rồi bắt bà lên bốt, đánh đập và giết bà cụ ngay trước ngõ, bên gốc cây
mai. Bọn chúng tra tấn những người chiến sĩ của ta rất dã man, bọn chúng đâm mười que


×