Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

tình yêu và hôn nhân trong kinh thi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 118 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

BỘ MÔN NGỮ VĂN


TRẦN THỊ KIM THO
MSSV: 6116154

TÌNH YÊU VÀ HÔN NHÂN TRONG KINH THI

Luận văn tốt nghiệp đại học
Ngành Ngữ văn



Cán bộ hướng dẫn: TẠ ĐỨC TÚ

Cần Thơ, năm 2014


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU.............................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài.................................................................................................. 2
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .................................................................................. 3
3. Mục đích nghiên cứu........................................................................................... 6
4. Phạm vi nghiên cứu............................................................................................. 6

5. Phương pháp nghiên cứu..................................................................................... 7

PHẦN NỘI DUNG .......................................................................................... 8
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG ................................................... 9
1.1. Khái quát về Kinh Thi ...................................................................................... 9
1.1.1. Giới thiệu chung và tên gọi Kinh Thi ........................................................ 9
1.1.2. Quá trình hình thành Kinh Thi ................................................................ 10
1.1.3. Vấn đề biên soạn Kinh Thi....................................................................... 10
1.1.4. Kết cấu Kinh Thi ...................................................................................... 11
1.2. Nội dung Kinh Thi.......................................................................................... 13
1.2.1. Cuộc sống bị áp bức, bóc lột và tinh thần phản kháng của nhân dân lao
động. .................................................................................................................. 13

1.2.2. Phản đối chiến tranh bành trướng thế lực, thôn tính đất đai, cướp đoạt nô lệ
của giai cấp thống trị......................................................................................... 25
1.2.3. Phản ánh tình yêu và hôn nhân trong đời sống....................................... 29
1.3. Khái quát quan niệm tình yêu và hôn nhân trong Kinh Thi ........................... 30
1.3.1. Quan niệm về tình yêu và hôn nhân trong đời sống ................................ 30
1.3.2. Quan niệm về tình yêu và hôn nhân trong văn học ................................. 31
1.3.3. Quan niệm về tình yêu và hôn nhân trong Kinh Thi................................ 35

CHƯƠNG II: NỘI DUNG BIỂU HIỆN ĐỀ TÀI TÌNH YÊU VÀ HÔN
NHÂN TRONG KINH THI.......................................................................... 38
2.1. Hệ thống Kinh Thi với đề tài tình yêu và hôn nhân ....................................... 38



2.2. Tình yêu đôi lứa trong Kinh Thi..................................................................... 40
2.2.1. Tỏ tình trong Kinh Thi ............................................................................. 40
2.2.2. Thề nguyền, ước hẹn trong Kinh Thi ....................................................... 49
2.2.4. Lỡ duyên trong Kinh Thi.......................................................................... 63
2.3. Hôn nhân trong Kinh Thi ............................................................................... 66
2.3.1. Hôn nhân hạnh phúc trong Kinh Thi....................................................... 66
2.3.2. Hôn nhân bị chia cắt, đổ vỡ trong Kinh Thi............................................ 72
Tiểu kết ............................................................................................................ 82

CHƯƠNG III: NGHỆ THUẬT TRONG KINH THI VỚI ĐỀ TÀI TÌNH
YÊU VÀ HÔN NHÂN................................................................................... 83

3.1. Thể thơ ........................................................................................................... 84
3.2. Ba thủ pháp nghệ thuật nổi bật nhất trong Kinh Thi với đề tài tình yêu và hôn
nhân. ...................................................................................................................... 87
3.2.1. Phú ........................................................................................................... 87
3.2.2. Tỷ ............................................................................................................. 91
3.2.3. Hứng ........................................................................................................ 95
3.3. Kết cấu dân ca nổi bật trong Kinh Thi với đề tài tình yêu và hôn nhân......... 98
3.4. Ngôn ngữ trong Kinh Thi với đề tài tình yêu và hôn nhân .......................... 104
Tiểu kết .......................................................................................................... 108

PHẦN KẾT LUẬN...................................................................................... 109




PHẦN MỞ ĐẦU

1


1. Lí do chọn đề tài
Là một quốc gia rộng lớn với hơn năm mươi lăm dân tộc anh em và năm nghìn
năm lịch sử, Trung Quốc đã tích lũy cho mình một kho tàng văn hóa với hình thức vô
cùng đa dạng, nội dung đậm đà, sâu sắc và có sức sống mãnh liệt cùng với thời gian.
Vùng đất này đã cho ra đời không ít những tác phẩm cổ điển có sức ảnh hưởng không

chỉ trong vùng mà còn lan tỏa ra khắp các nước trong khu vực và thế giới. Vì thế, việc
tìm hiểu văn học Trung Quốc là một công việc cần thiết để nhiều người hiểu rõ hơn về
nền văn học của quốc gia này. Qua đó, nhiều nhà nghiên cứu có những nhận định lại vị
thế của nó trên trường quốc tế.
Khi tìm hiểu về văn học Trung Quốc, chúng ta không thể nào bỏ qua Kinh Thi –
bộ tổng tập thơ ca cổ nhất của đất nước này. Khổng Tử nói: “bất học Thi, vô dĩ ngôn”
(không học Kinh Thi thì không biết lấy gì để nói). Thật vậy, đã từ rất lâu, Kinh Thi
được các bậc nho sĩ tôn lên hàng kinh điển, trở thành chuẩn mực để mọi người noi
theo và dùng làm cơ sở cho các lập luận trong nhiều tác phẩm văn học về sau. Ảnh
hưởng của Kinh Thi hết sức sâu rộng, nhiều từ ngữ trong tác phẩm ngày nay được sử
dụng rộng rãi trong đời sống hàng ngày của người dân Việt Nam như “yểu điệu”,
“thục nữ”, “vu quy”, “cù lao”,…

Như nhiều người nghiên cứu đã biết, văn học dân gian là tấm gương phản chiếu
mọi mặt của đời sống xã hội cổ đại. Tập hợp nội dung những bài dân ca và ca dao những thể loại tiêu biểu của văn học dân gian – trong Kinh Thi đã được phản ánh từ
thiên nhiên, lịch sử, văn hóa, xã hội cho đến tâm hồn, tư tưởng, khát vọng của nhân
dân Trung Hoa thời thượng cổ. Trong Kinh Thi, đề tài tình yêu và hôn nhân chiếm số
lượng rất lớn trong tổng số. Những bài ca dao, dân ca viết về đề tài này là tiếng nói
chân thật xuất phát từ sâu thẳm của những trái tim rạo rực yêu thương có sự khắc
khoải chờ mong tình yêu đến, có niềm hạnh phúc khi đôi lứa được bên nhau và có cả
nỗi niềm chua xót, ngậm ngùi khi tình yêu lứa đôi tan vỡ. Ngôn ngữ được sử dụng một
cách hết sức tự nhiên, gần gũi, xuất phát từ lời ăn tiếng nói trong sinh hoạt hằng ngày
ở đề tài này, người nghiên cứu giúp độc giả hiểu được cái nhìn của con người trong
giai đoạn trước, biết thêm về hoàn cảnh lịch sử, xã hội chi phối con người thời bấy giờ
như thế nào. Song song bên cạnh đó, người đọc biết được những nét độc đáo và sức

2


ảnh hưởng của Kinh Thi đối với các tác phẩm giai đoạn sau trong nền văn học Trung
Quốc và nền văn học các nước đồng văn, trong đó có Việt Nam.
Chính sự hấp dẫn và tính thực tế của đề tài cùng với sự yêu thích của bản thân
đối với tình yêu trong văn học Trung Quốc nên người viết quyết định chọn đề tài
“Tình yêu và hôn nhân trong Kinh Thi” để làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của
mình.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Kinh Thi là một quyển “bách khoa toàn thư” mà khi nghiên cứu bất kỳ một

lĩnh vực nào trong đời sống tinh thần và xã hội Trung Quốc cổ đại người nghiên cứu
đều không thể bỏ qua. Sở dĩ nói như thế vì Kinh Thi là bức tranh muôn màu, muôn vẻ,
vẽ lên toàn cảnh về đời sống tinh thần lẫn vật chất của con người Trung Hoa thời
thượng cổ. Trong Kinh Thi, cái quý nhất chính là tình cảm chân thật, trong sáng của
nhân dân lao động gửi gắm vào từng ý nhạc, lời thơ. Đến với Kinh Thi là đến với sự
phong phú, đa dạng của tâm hồn, đến với một vườn hoa thơ ca ngọt ngào hương sắc.
Kinh Thi là tiếng nói tâm tình ngọt ngào của nhân dân Trung Hoa thời cổ đại.
Có nhiều học giả nghiên cứu về Kinh Thi như:
Trong Bài giảng văn học Trung Quốc của Lương Duy Thứ, ông đã tổng hợp
nhiều tác phẩm lớn, tiêu biểu, có ít nhiều liên quan đến văn học Việt Nam ở cả bốn bộ
phận: văn học cổ đại: Kinh Thi, Sở từ, Sử ký,…, văn học trung đại: Thơ Đường (chủ
yếu học thơ Lí Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị), tiểu thuyết Minh, Thanh (Tam quốc, Tây

Du, Hồng Lâu Mộng, Liêu trai chí dị),…,văn học cận đại: thơ văn Lương Khải Siêu,
Lỗ Tấn, Tào Ngu,…, văn học hiện đại: Triệu Thụ Lý, Đinh Linh, Quỳnh Giao, Kim
Dung,…
Trong bài giảng của mình, ông đặc biệt chú ý và giới thiệu nhiều về Kinh Thi ở
cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật.
Trong Văn học Trung Quốc, hai tác giả Nguyễn Khắc Phi và Lương Duy Thứ
cũng điểm sơ qua Kinh Thi trong phần tổng kết văn học Trung Quốc cổ trung đại. Kinh
Thi được nhắc đến như một nền móng khá vững chắc cho nền văn học hiện thực của
Trung Quốc.
3



Trong Tư tưởng văn học Trung Quốc cổ xưa của I.S. Lisevich do Trần Đình
Sử dịch, Kinh Thi được đề cập đến thông qua các thủ pháp nghệ thuật như: phú, tỉ và
hứng.
Trong Thơ văn cổ Trung Hoa mảnh đất quen mà lạ, Nguyễn Khắc Phi đã
nhắc đến Kinh Thi với một số bài ca dao về tình yêu và hôn nhân, nhưng những bài ca
dao này chỉ được liệt kê ra chứ chưa được phân tích và làm sáng tỏ về nội dung cũng
như hình thức biểu hiện.
Trong Lịch sử văn học Trung Quốc (tập một) do Lê Huy Tiêu, Lương Duy
Thứ, Nguyễn Trung Hiền, Lê Đức Niệm, Trần Thanh Liêm dịch, Kinh Thi được xem
như là mầm mống văn học viết của Trung Quốc sau thể loại tản văn. Kinh Thi được
giới thiệu với bạn đọc qua các phần như: quá trình biên tập; ứng dụng và lưu truyền ba
trăm bài thơ; thơ thời kỳ đầu Tây Chu; thơ thời kỳ cuối Tây Chu; thơ Đông Chu; đặc

điểm và ảnh hưởng của Kinh Thi. Nhìn chung, độc giả phần nào nắm được nội dung
trong Kinh Thi, tuy nhiên, nghệ thuật trong Kinh Thi cũng là một phương diện hết sức
quan trọng nhưng chưa được đề cập đến trong quyển sách này.
Trong Kinh Thi do Tản Đà (Nguyễn Khắc Hiếu), Nghiêm Thượng Văn, Đặng
Đức Tô dịch, quyển sách đã giới thiệu với bạn đọc tương đối chi tiết về các vấn đề liên
quan đến Kinh Thi như: giới thiệu sơ lược về Kinh Thi; vấn đề chú giải, đọc và dịch
Kinh Thi,…Quyển sách cũng giới thiệu với bạn đọc một số bài ca dao trong phần
Quốc phong, có phiên âm, dịch nghĩa, chú giải và phần nguyên văn chữ Hán, tuy số
lượng chỉ có sáu mươi bốn trong tổng số ba trăm lẻ năm bài trong Kinh Thi, nhưng đây
cũng là một đóng góp quan trọng cho việc nghiên cứu về Kinh Thi sau này.
Trong Những áng văn bất hủ do Trần Kiết Hùng và Thái Văn Nam dịch, Kinh
Thi được điểm sơ lược về một số khía cạnh như quá trình hình thành, kết cấu,…nó

được đề cập đến như một bộ sách vô cùng quan trọng trong thời cổ đại của Trung
Quốc. Tuy nhiên, dung lượng được đề cập đến còn rất ít so với những gì mà Kinh Thi
mang lại nên mọi thông tin chỉ mang tính chất khái quát. Mặc dù vậy, nhưng đây cũng
là nguồn cung cấp thông tin quan trọng cho việc nghiên cứu văn học Trung Quốc nói
chung và Kinh Thi nói riêng.

4


Trong Khái yếu lịch sử văn học Trung Quốc (tập một) của tập thể bảy mươi
bốn tác giả biên soạn do Bùi Hữu Hồng dịch, Kinh Thi được xếp vào thơ ca giai đoạn
Tiên Tần, đặc biệt, ngôn ngữ trong Kinh Thi được đánh giá đã đạt đến trình độ cao và

sử dụng hiệu quả các biện pháp tu từ như: điệp ngữ, song thanh, điệp vận,...Quyển
sách này nói về Kinh Thi như một sự thành công về nghệ thuật, còn nội dung thì chưa
được đề cập đến.
Trong Giáo trình cổ văn (tập một) của Đặng Đức Siêu biên soạn, Kinh Thi
được nhắc đến là một tuyển tập thơ ca ra đời sớm nhất ở Trung Quốc, ông cũng chọn
lựa một số tác phẩm tiêu biểu, có giá trị cao về nội dung và nghệ thuật đưa vào giáo
trình với một vài lời nhận xét khái quát cho từng bài thơ.
Trên trang web lichsuvn.net có bài viết về Tình yêu trong thời đại Kinh Thi.
Bài viết đã giới thiệu hoàn cảnh lịch sử, xã hội của đất nước Trung Hoa thời thượng cổ
chi phối tình yêu trong Kinh Thi và cũng dẫn ra một số thiên trong Kinh Thi tiêu biểu
cho tình yêu đôi lứa được nhiều người biết đến nhưng chưa đi sâu vào phân tích.
Trên trang web thivien.net có bài Giới thiệu Kinh Thi của tác giả Bửu Cầm.

Bài viết đã giới thiệu về nguồn gốc, nội dung, địa vực thời đại, tác giả và văn chương
trong Kinh Thi, tuy chưa nghiên cứu sâu nhưng cũng đã khái quát được những vấn đề
cần nắm bắt trong quyển thi ca cổ này.
Trên trang web motsach.info có bài được sưu tầm về Kinh Thi, thi phẩm được
nghiên cứu về một số khía cạnh như nguồn gốc, phân loại, hình thức, nội dung, trích
dẫn một vài bài tiêu biểu và đặt biệt là có bàn đến sự ảnh hưởng của Kinh Thi với thơ
văn Trung Quốc và Việt Nam ở giai đoạn sau nó.
Trên trang web Thế giới của tôi có đăng bài tiểu luận viết về đề tài Tình yêu
nam nữ trong Kinh Thi của sinh viên Nguyễn Minh Sang. Tiểu luận cơ bản trình bày
được các vấn đề cần bàn đến trong đề tài. Tuy nhiên, mức độ phân tích, đánh giá chủ
yếu mang tính khái quát, chưa đi sâu vào phân tích và chưa làm rõ vấn đề.
Mặc dù số lượng bài viết, bài nghiên cứu đã nghiên cứu về Kinh Thi tương đối

nhiều, tuy nhiên, đến nay, vẫn chưa tìm ra được một công trình nghiên cứu nào chuyên

5


sâu về Kinh Thi với đề tài tình yêu và hôn nhân. Nếu có thì nội dung chỉ nói sơ lược,
khái quát, chung chung, chưa cụ thể và chưa đầy đủ.
Các tài liệu, bài viết trên là cơ sở quan trọng để người viết tiếp tục thực hiện
nghiên cứu và hoàn thành luận văn với đề tài: “Tình yêu và hôn nhân trong Kinh
Thi”.

3. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu đề tài “Tình yêu và hôn nhân trong Kinh Thi”, người viết hướng
vào các nhiệm vụ cụ thể:
Khảo sát, tập hợp, thống kê theo hệ thống những thiên trong Kinh Thi nói về đề
tài tình yêu và hôn nhân.
Chỉ ra nét độc đáo về nội dung và nghệ thuật biểu hiện của Kinh Thi về đề tài
người viết đang nghiên cứu.
Khám phá cái hay, cái đẹp được biểu hiện trong Kinh Thi qua đề tài tình yêu và
hôn nhân. Đồng thời, thấy được tính hiện thực trong Kinh Thi có sức ảnh hưởng sâu
rộng đối với sự phát triển văn học Trung Quốc thời kỳ sau, đặc biệt là đối với thơ ca.
Thơ văn cổ Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng từ thơ văn cổ Trung Quốc, đặc biệt
là Kinh Thi. Vì thế, khi nghiên cứu, người viết đã liên hệ thực tế thơ văn Việt Nam để
nhận ra sự tiếp nhận có sáng tạo của thế hệ cha ông đi trước.


4. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu là “Tình yêu và hôn nhân trong Kinh Thi” nên đối tượng,
phạm vi nghiên cứu là những bài thơ, ca dao trong Kinh Thi thể hiện hai khía cạnh là
tình yêu và hôn nhân. Trong quá trình nghiên cứu, người viết khảo sát cụ thể trên hai
tài liệu quy ước sau:
1. Kinh Thi (Quyển thượng) - tác giả: Khổng Tử, người dịch: Tạ Quang Phát Nhà xuất bản Văn học.
2. Kinh Thi (Quyển trung và Quyển hạ) - tác giả: Khổng Tử, người dịch: Tạ
Quang Phát - Nhà xuất bản Văn học.

6



5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, người viết đã tiến hành tiếp cận tìm đọc tài liệu,
nghiên cứu, tham khảo các tài liệu có liên quan trên sách, trên các phương tiện truyền
thông,… chú ý chọn lọc và đánh dấu các bài thơ, ca dao trong Kinh Thi liên quan đến
đề tài. Sau đó, người viết dùng các phương pháp: phương pháp thống kê, tổng hợp,
phương pháp hệ thống để phân tích, đánh giá, làm rõ vấn đề. Đặc biệt, thơ văn cổ
Trung Quốc thường cô đọng, hàm súc, ý tại ngôn ngoại nên người viết chú trọng
nghiên cứu về phần dịch nghĩa và phần chú thích, cốt để thấy được nội dung, còn phần
dịch thơ chỉ để lấy vần cho dễ nhớ.
Nghiên cứu Kinh Thi không chỉ dựa vào văn bản mà còn dựa vào đời sống sinh
hoạt của người dân, đặc biệt là đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân Trung Hoa

thời thượng cổ. Vì thế, người viết còn sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành
cộng với sự hiểu biết của bản thân về lịch sử, xã hội Trung Quốc thời cổ đại để đi vào
tìm hiểu đề tài: “Tình yêu và hôn nhân trong Kinh Thi”.

7


PHẦN NỘI DUNG

8



CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG

1.1. Khái quát về Kinh Thi
1.1.1. Giới thiệu chung và tên gọi Kinh Thi

1.1.1.1. Giới thiệu chung về Kinh Thi
Kinh Thi là bộ tuyển tập thơ ca tập hợp những câu ca dao của nhân dân Trung
Hoa thời thượng cổ miêu tả đời sống hiện thực của những con người thuộc các giai cấp
và tầng lớp khác nhau. Tập thơ được xem như dòng suối đầu nguồn phát khởi nên
những dòng cảm hứng mới mẻ, là cơ sở, nền móng khá vững chắc cho việc phát triển
nền văn học Trung Quốc giai đoạn sau này.


1.1.1.2. Tên gọi Kinh Thi
Trước đời Hán, Kinh Thi được gọi là Thi tam bách 詩三百 (ba trăm bài thơ),
hay ngắn hơn là Thi bách 詩百 (trăm bài thơ), hay gọi ngắn gọn hơn nữa là Thi 詩
(thơ).
Chữ Kinh có nhiều nghĩa, phụ thuộc vào vị trí của nó trong câu văn hoàn chỉnh.
Các nhà Nho đời Hán xem Kinh Thi với chữ Kinh có nghĩa là kinh điển, chuẩn mực.
Kinh Thi là chuẩn mực của thơ ca, là đạo lý và phép tắc về những chuẩn mực ứng xử
trong các mối quan hệ của xã hội. Về sau, các sách vở nho gia dùng để dạy học trò đều
được suy tôn là Kinh: Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Nhạc, Kinh Xuân thu, Kinh
Dịch cùng với Tứ Thư của nho giáo.
Như vậy, tên gọi Kinh Thi là do các nhà nho đặt ra, gọi tên như thế là do thói
quen chứ không có nghĩa khẳng định đó là tác phẩm kinh điển của nho giáo.

Ngoài ra, Kinh Thi từng bị Tần Thủy Hoàng thiêu hủy, đến đời Hán mới được
bốn nhà Tề, Lỗ, Hàn, Mao phục nguyên lại thành ra bốn bản Tề thi 齊詩, Lỗ thi 魯詩,
Hàn thi 韓詩 và Mao thi 毛詩 . Về sau, các bản đều đã thất truyền, chỉ còn lại bản
Kinh Thi của Mao Hanh được lưu truyền đến nay, vì vậy, Kinh Thi còn có một tên gọi
khác là Mao thi.
9


1.1.2. Quá trình hình thành Kinh Thi
Kinh Thi ra đời cách đây hai nghìn năm trăm năm, vào khoảng thế kỷ thứ VI
trước công nguyên. Tác phẩm này được hình thành bởi sáng tác của nhiều người (đa số
là của nhân dân lao động) trong khoảng thời gian năm trăm năm từ đầu Tây Chu (thế

kỷ XI trước công nguyên) đến giữa Xuân Thu (thế kỷ VI trước công nguyên).
Chế độ xã hội trong thời kỳ hình thành Kinh Thi là chế độ nô lệ (thực ra là cuối
nô lệ, đầu phong kiến), đây là giai đoạn áp bức bóc lột diễn ra kiểu nô lệ, lễ giáo
phong kiến còn chưa ăn sâu vào đời sống xã hội như giai đoạn sau này.
1.1.3. Vấn đề biên soạn Kinh Thi
Có ba thuyết về vấn đề biên soạn Kinh Thi:
Thuyết thứ nhất cho rằng Kinh Thi do Khổng Tử biên soạn. Sách Sử ký 史記
(thiên Khổng tử thế gia 孔子世家) có viết: ban đầu, Kinh Thi có tới hơn ba nghìn thiên
(bài), Khổng Tử soạn lại thành ba trăm bài để dạy học trò của mình. Thuyết này chưa
thuyết phục, bởi vì trước Khổng Tử đã có quyển Kinh Thi ba trăm lẻ năm bài, Khổng
Tử chỉ làm công việc san định và giải thích chứ không làm công việc biên soạn Kinh
Thi. Tuy nhiên, công lao của ông trong việc định hình Kinh Thi từ thơ ca dân gian

thành một tác phẩm kinh điển là không hề nhỏ. Trong sách Luận Ngữ 論語 có chép lời
của Khổng Tử: “Ta từ Vệ trở về Lỗ, mới chỉnh lí Nhã Chính, Nhã Tụng cho thứ nào ra
thứ ấy”. Khổng Tử đã sử dụng Kinh Thi như một chuẩn mực đạo lý để giáo dục học
trò của mình. Hàng ngày, ông thường bàn bạc, thảo luận với họ về các vấn đề của Kinh
Thi.
Thuyết thứ hai thì cho rằng, phần lớn những bài thơ, ca dao trong Kinh Thi là
do các quan “thái thi” (chọn thơ) đời Chu tuyển chọn để dâng lên vua. Trong sách Lễ
ký có chép: “Thiên tử cứ năm năm đi tuần thú một lần. Tháng hai năm ấy đi tuần thú
đến núi Đại Tông ở phía đông, thắp hương nến tế vọng núi sông. Thăm chư hầu, hỏi
về các bậc cao tuổi và đến gặp. Truyền mệnh cho quan Thái sư đến trình thơ để xem
xét nề nếp của dân chúng. Mệnh cho quan coi chợ trình giá cả để xem xét sự thích,
ghét trong dân, ghi chép nết hay, nết xấu phổ biến. Mệnh cho quan Điển lễ khảo sát

thời tiết, tháng để định ngày trước sau. Xem xét luật lệ, chế độ, y phục, chỉnh lại cho
10


đồng bộ”. Việc thu thập thơ ca đã được nhà Chu tiến hành một cách nghiêm túc, có
quan đặc trách theo quy chế nhà nước: Thái sư. Vị quan này có nhiệm vụ quản lí mạng
lưới sưu tầm thơ, ca dao trong dân gian, đó là các quan Thái thi (Hành nhân). Những
Hành nhân này là những người tương đối cao tuổi (đàn ông sáu mươi tuổi, đàn bà năm
mươi tuổi), và phải mù lòa, am hiểu âm nhạc. Những Hành nhân này thường đi lại trên
đường, tay đánh mõ để sưu tầm thơ, ca dao để trình lên cho Thái sư. Sau đó, Thái sư
tuyển chọn những làn điệu hay dâng lên cho vua thưởng thức. Theo Thập ngũ Quốc
phong trong Kinh Thi, các vùng sưu tầm được Kinh Thi ngày nay tương ứng với các

tỉnh Thiểm Tây, Sơn Tây, Hà Bắc, Hà Nam, Sơn Đông, Hồ Bắc với diện tích hơn
1.020.000 km². Điều này đã cho độc giả thấy sự nghiêm túc của các Hành nhân trong
việc tìm kiếm, sưu tầm lại những bài thơ, ca dao với số lượng khổng lồ (khoảng ba
nghìn bài) trên diện tích rộng như vậy.
Tuy nhiên, thuyết này vẫn chưa thuyết phục một số người trong giới nghiên cứu
Kinh Thi vì họ không tin từ đời Chu đã có được mạng lưới sưu tầm thơ, ca dao rộng
lớn như vậy. Theo họ, đó chỉ là cách nói phỏng đoán của học giả đời Hán chứ trước
Hán không thấy tư liệu nào ghi chép về việc này.
Thuyết thứ ba lại cho rằng, sự xuất hiện của tập thơ là do công lao chính của
các nhạc quan (quan coi âm nhạc) triều Chu biên tập dựa trên công trình sưu tầm của
nhạc công các nước chư hầu. Bên cạnh phần lớn là ca dao thu thập trong dân chúng,
tác phẩm còn có những bài thơ có tính chất điển lễ của quý tộc làm trong các dịp tế lễ,

yến hội, những bài thơ có ngụ ý khuyên răn của quần thần dâng lên thiên tử hoặc vua
các nước chư hầu. Thuyết này được hầu hết các nhà nghiên cứu chấp nhận.
Các thuyết về vấn đề biên soạn tập thơ cổ này đều có cơ sở từ những tài liệu
văn học, lịch sử được ghi chép và lưu truyền lại. Tuy nhiên, mức độ chính xác của
những thuyết này đều mang tính chất tương đối, độc giả cần xem xét kĩ hơn khi nghiên
cứu và khảo sát một tác phẩm văn học kinh điển như Kinh Thi.
1.1.4. Kết cấu Kinh Thi
Kinh Thi có ba trăm mười một bài thơ. Trong đó, có sáu bài chỉ có đề mục chứ
không có lời, gọi là "dật thi" (thơ đã mất). Sáu bài “dật thi” là Nam cai 南陔
11



(thuộc Lộc minh chi thập 鹿鳴之什), Bạch hoa

白華, Hoa thử 華黍,

Do

canh 由庚, Sùng khâu 崇丘, Do nghi 由儀 (thuộc Bạch hoa chi thập 白華之什). Theo
một số nhà nghiên cứu, sáu bài này là nhạc ca, tên bài thì còn, nhưng điệu nhạc đã mất,
vì vậy không chép vào Kinh Thi được.
Với ba trăm lẻ năm bài còn lại trong Kinh Thi, có nhiều tiêu chí để phân chia
kết cấu như sau:
Theo thời kì lịch sử:

Thơ thời kì đầu Tây Chu (từ Vũ vương đến Hiếu vương, từ năm 1066 đến năm
869 trước công nguyên) bao gồm toàn bộ Chu tụng, một bộ phận nhỏ Đại nhã và một
ít bài của Phong.
Thơ thời kì cuối Tây Chu (từ Di vương đến lúc Bình vương thiên đô về Đông,
từ năm 869 đến năm 770 trước công nguyên) bao gồm đại bộ phận trong Đại nhã và
Tiểu nhã (chỉ trừ một số bài cá biệt như “Đô nhân sĩ”) cùng một số ít bài trong Phong.
Thơ Đông Chu (từ Bình vương dời đô về Đông đến cuối Xuân thu, từ năm 770
đến năm 475 trước công nguyên) ngoài Thương tụng và Lỗ tụng ra thì còn lại đều là
Phong.
Theo nhạc điệu:
Phong: còn gọi là Quốc phong, có một trăm sáu mươi thiên, chia làm mười lăm
quyển, gồm có:

Chính Phong: Chu nam và Thiệu nam.
Biến phong: Bội phong, Dung phong, Vệ phong, Vương phong, Trịnh
phong, Tề phong, Ngụy phong, Đường phong, Tần phong, Cối phong, Tào phong, Bân
phong.
Đây là những bài thơ, ca dao, dân ca của mười lăm nước chư hầu, là tác phẩm
tiêu biểu của miền bắc Trung Quốc (thuộc các tỉnh Sơn Đông, Thiểm Tây, Hà Bắc, Hà
Nam hiện nay).
Nhã: còn gọi là Nhị Nhã, có một trăm lẻ năm bài, chia ra làm hai phần:
12


Tiểu nhã là những bài dùng trong những trường hợp không quan trọng

lắm như các buổi yến tiệc (bảy mươi bốn thiên).
Đại nhã là những bài dùng trong những trường hợp quan trọng như khi
Thiên tử họp các vua chư hầu hoặc tế ở miếu đường (ba mươi mốt thiên).
Đây chủ yếu là thơ ca của giới quý tộc đại phu làm trong những việc triều hội,
yến tiệc nói về quan hệ tốt đẹp của vua tôi và những nghi thức tiếp đãi giữa chủ và
khách. Nhã có nghĩa đối lập với tục, có nghĩa là tao nhã, cao sang và gương mẫu.
Tụng: là nhạc tán tụng ca ngợi - nhạc dùng trong tế lễ thần linh, thái miếu,
giống như văn tế sau này. Tụng được sáng tác ở ba nước Chu, Lỗ, Thương bao gồm:
Chu tụng có ba mươi mốt thiên.
Lỗ tụng có bốn thiên.
Thương tụng có năm thiên.
Cách phân chia này không hoàn toàn chính xác, vì trong từng thiên, không hoàn

toàn là đơn nhất một nhạc điệu: trong nhã đôi lúc cũng có nhạc phong, trong phong lại
có bài của quý tộc,…Ngoài ra, cách phân chia này không nói lên được nội dung của
tác phẩm.
Cũng giống như vấn đề biên soạn, vấn đề phân chia kết cấu trong Kinh Thi cũng
chỉ mang tính chất tương đối, chưa có sự thống nhất và còn nhiều bất đồng sâu sắc
trong giới nghiên cứu. Do vậy, chúng ta cần thận trọng xem xét, lựa chọn cách phân
chia nào là hợp lí nhất cho công việc đang nghiên cứu.

1.2. Nội dung Kinh Thi
1.2.1. Cuộc sống bị áp bức, bóc lột và tinh thần phản kháng của nhân dân lao động.

1.2.1.1. Kinh Thi là bức tranh toàn cảnh của nhân dân lao động dưới chế độ nô

lệ.
Trong thời đại của Kinh Thi, nhân dân luôn sống trong cảnh cơ cực với thân
phận là những nô lệ. Họ phải làm việc cật lực, quanh năm, suốt tháng để nuôi bọn chủ
nô ăn sung mặc sướng. Là một bài ca tám chương, mỗi chương miêu tả một mùa làm
ăn, “Thất nguyệt” (tháng bảy) trong Bân Phong mang dáng dấp của một bài “nông gia
13


lịch”. Đó không chỉ là một bài ca miêu tả về tập quán làm ăn mà còn là một bức tranh
muôn màu muôn vẻ về cuộc sống thống khổ của nhân dân lao động sống dưới ách bóc
lột nặng nề thời bấy giờ. Họ phải làm đủ thứ công việc, từ cày ruộng, dệt vải, săn bắn
đến làm nhà, đục băng, nấu rượu cho bọn thống trị. Trong khi đó, họ luôn phải sống

trong cảnh đói rét, thê lương.
Mở đầu “Thất nguyệt”, tác giả đã lo lắng cho những ngày giá rét, lạnh buốt da
khi sắp đến tháng mười một, tháng mười hai:
七月 1

Thất nguyệt 1

一之日觱發,

Nhất chi nhật tất phế (phát),

二之日栗烈;


Nhị chi nhật lật lệ (liệt).

無衣無褐,

Vô y vô hệ (hạt)

何以卒歲?

Hà dĩ tốt tuế ?
Tháng bảy 1
Tháng mười một gió rét đông,

Tháng mười hai khí lạnh lùng cắt da.
Nếu chẳng áo thô và áo tốt,
Đến cuối năm sống sót được sao?

Mặc dù, họ chính là những người tự tay kéo lụa dệt vải để may quần cho công tử:
七月 3

Thất nguyệt 3

八月載績,

Bát nguyệt tái tích


載玄載黃,

Tái huyền tái hoàng

我朱孔陽,

Ngã chu khổng dương

為公子裳。

Vi công tử thường.

Tháng bảy 3
Bắt đầu tháng tám thì vừa kéo gai.
Huyền và vàng nhuộm ngay tức khắc
Nhuộm đỏ thì trông rất tươi xinh,
May quần công tử nước mình.

14


Cho dù công việc kéo lụa, dệt vải đã được chuẩn bị kỹ lưỡng. Thế nhưng, họ
vẫn phải đi săn bắn, lột da thú cho công tử làm áo để giữ ấm, chống khí lạnh:
七月 4


Thất nguyệt 4

一之日于貉,

Nhất chi nhật vu hạc

取彼狐貍,

Thủ bỉ hồ ly

為公子裘。


Vi công tử kỳ (cầu).
Tháng bảy 4
Tháng mười một săn loài chồn dữ
Bắt sạch cho hết thứ cáo này.
Áo da công tử vội may.

Không chỉ thế, họ còn là những người cắt cỏ, bện tranh để lợp nhà tránh rét:
七月 7

Thất nguyệt 7


晝爾于茅,

Trú nhĩ vu mao,

宵爾索绹;

Tiêu nhĩ tác đào.
Tháng bảy 7
Lấy tranh người phải ra công ban ngày,
Đêm đến người se dây cực nhọc.

Thế mà, họ phải ở trong những căn nhà dựng nên từ những tấm phênh cũ kĩ, rách nát,

gió thổi vào từ tứ phương. Mùa đông, họ phải lấy bùn, đất sét trét vào khe hở để tránh
rét; phải bít cửa sổ ở hướng bắc để chống gió bất; những lỗ trống trong nhà thì phải bịt
kín lại, xông khói vào hang để chuột không sống được trong ấy. Rồi khi những công
việc ấy hoàn tất thì họ mới có thể vào nhà ấy ở để chống lạnh:
七月 5

Thất nguyệt 5

入我床下。

Thập nguyệt tất suất nhập ngã sang hụ (hạ),


穹窒熏鼠,

Khung truất huân thử.

塞向墐戶。

Tắc hướng cận hộ.

嗟我婦子,

Ta ngã phụ tủ (tử)


曰為改歲,

Viết vi cải tuế.

入此室處。

Nhập thử thất xử.
15


Tháng bảy 5
Dế tháng mười chung giữa gầm sàng.

Để xông khói chuột, bít hang.
Bít song hướng bắc để ngăn gió vào.
Dặn vợ con ta mau ghi nhớ
Rằng: Tháng mười sẽ trở tân niên,
Hãy vào nhà ấy ở liền.
Đời sống của con người trong kiếp nô lệ luôn chịu sự quan sát, quản lý của bọn
chủ nô. Họ luôn phải làm việc hết sức cốt để những quan giám sát ấy vừa lòng:
七月 1

Thất nguyệt 1

三之日于耜,


Tam chi nhật vu dĩ (tự),

四之日舉趾。

Tứ chi nhật cử chỉ,

同我婦子,

Đồng ngã phụ tỉ (tử),

馌彼南畝,


Diệp bỉ nam mỹ (mẫu),

田畯至喜。

Điền tuấn chí hỉ.
Tháng bảy 1
Tháng giêng nông cụ sửa mau,
Tháng hai cất bước cày sâu ngoài đồng.
Với ta đàn bà cùng con trẻ
Đến ruộng nam, cơm tẻ đưa ăn.
Khuyến nông bước tới hân hoan.


Sống dưới chế độ ấy, những con người mang thân phận nô lệ không có một
chút quyền lợi nào, ngay cả thân thể họ cũng chẳng thuộc về họ:
七月 2

Thất nguyệt 2

春日載陽,

Xuân nhật tái dương.

有鳴倉庚。


Hữu minh thương cang (canh).

女執懿筐,

Nữ chấp ý khuông,

遵彼微行,

Tuân bỉ vi hàng (hành).

爰求柔桑。


Viên cầu nhu tang.
16


春日遲遲,

Xuân nhật trì trì.

采蘩祁祁。

Thái phiền kỳ kỳ.


女心傷悲:

Nữ tâm thương bi

殆及公子同歸?

Đãi cập công tử đồng quy.

Tháng bảy 4
Ngày xuân ấm áp vui tươi,
Thương canh cất tiếng khắp nơi hót chào.

Cô gái mang giỏ sâu và đẹp,
Lại noi theo lối hẹp tiến chân,
Dâu non tìm hái xa gần.
Khi xuân ấm áp, ngày xuân trì trì.
Mớ rau phiền, bước đi tìm hái,
Trong lòng người con gái xót xa:
Bước theo công tử lìa nhà.
Những cô gái đang độ tuổi xuân thì, đang hạnh phúc đón chào ngày mùa xuân
ấm áp. Thế mà niềm vui đó chưa hưởng trọn thì đã phải xót xa khi bị bắt gả cho những
công tử (con vua các nước chư hầu), phải rời xa gia đình thân yêu, xa cha, xa mẹ, xa
những cuộc vui ngày nào,…
Có thể thấy, trong toàn bộ tám chương trong “Thất nguyệt”, những người lao

động từ đàn ông đến đàn bà đều phải làm đủ thứ công việc với không khí căng thẳng,
mệt mỏi vì luôn có người giám sát:
“Tháng giêng nông cụ sửa mau
Tháng hai cất bước cày sâu ngoài đồng…
Bắt đầu tháng tám thì vừa kéo gai…
Tháng chín dựng kho nơi vườn cũ…
Tháng chín trai gái mau đi lặt…
Tháng mười sang quét tước nông trang…
Nếp thì thu gặt tháng mười cho xong…
Tháng mười một săn loài chồn dữ…
Tháng chạp đục lấy nhiều nước đá…
17



Tháng giêng đem giấu cả hầm sâu…”
Những con người này sống dưới chế độ nộ lệ, thân phận họ luôn bị xem
thường, rẻ rúng. Họ bị bọn chủ nô xem như những công cụ để sản xuất ra những sản
phẩm phục vụ cho đời sống của giới quý tộc,… Thế nhưng, bên cạnh những lời than
thở kia, ta lại thấy ở họ có cái làm ta cảm phục. Đó chính là tinh thần vươn lên trước
mọi khổ cực, bất công, ngang trái để hướng đến và chăm lo cho một tương lai tươi
sáng hơn, sung túc hơn. Ở “Thất nguyệt”, nếu năm chương đầu là lời than thở thì ba
chương cuối mang hơi hướng của sự lạc quan, tin tưởng vào bậc Thiên tử, tin tưởng
vào một ngày mai tươi sáng:
七月 6


Thất nguyệt 6

為此春酒,

Vi thử xuân tửu,

以介眉壽。

Dĩ giới mỵ thụ (thọ).

七月食瓜,


Thất nguyệt thực cô (qua).
Tháng bảy 6
Đem gầy rượu uống trong xuân mới,
Để giúp cho số tuổi thêm dài.
Ăn dưa tháng bảy ngon thay!...

18


Hay:
七月 7


Thất nguyệt 7

九月筑場圃,

Cửu nguyệt trúc trường bố (phố).

十月納禾稼。

Thập nguyệt nạp hoà cổ (giá),

黍稷重穋,


Thử tắc trùng lực (lục).

禾麻菽麥。

Hoà ma thúc cức (mạch).

嗟我農夫,

Ta ngã nông phu.

我稼既同,


Ngã giá ký đồng.

上入執宮功

Thượng nhập chấp cung công.
Tháng bảy 7
Tháng chín dựng kho nơi vườn cũ,
Tháng mười thì đem trữ lúa vào.
Nếp, gạo chín trước chín sau,
Lúa gai đậu mạch dồi dào đầy kho.
Ôi! Những kể nông phu ta ấy,

Lúa đã gom vào đấy vừa xong.
Vào thành làm việc trong cung.

Có thể nói, tám chương trong “Thất nguyệt” đã phát thảo nên những nét chính
trong bức tranh toàn cảnh của nhân dân lao động Trung Hoa thời bấy giờ: có cảnh làm
việc vất vả, cực nhọc,… cũng có cảnh được ăn uống, vui chơi,…Bên cạnh đó, bài thơ
còn miêu tả về đời sống đủ đầy, sung sướng khi thực hiện công việc bóc lột của bọn
thống trị để thấy rõ sự khác biệt giữa hai giai tầng trong xã hội thời bấy giờ. Tuy
nhiên, âm hưởng chủ đạo của bài ca này vẫn là tiếng hát than thân xuất phát từ một xã
hội mà con người còn chịu nhiều áp bức bóc lột.
Bên cạnh “Thất nguyệt”, ta thấy “Tải sam” và “Lương trĩ” trong Chu tụng,
“Thiều chi hoa” trong Tiểu nhã, “Thấp hữu trành sở” trong Cối phong, cũng là những

bài thơ miêu tả về công việc nhà nông gian nan, về nỗi khổ cực và một số nét tiêu biểu
trong đời sống sinh hoạt của nhân dân lao động thời bấy giờ. Đây là những sử liệu
quan trọng mà khi nghiên cứu xã hội Trung Quốc thời Tây Chu không thể nào bỏ qua.
19


1.2.1.2. Nỗi cay đắng vì phu phen tạp dịch
Ở chế độ cuối nô lệ, đầu phong kiến, bên cạnh chế độ địa tô tàn nhẫn, người lao
động còn phải chịu đựng thêm một phương thức bóc lột nữa của bọn lãnh chúa phong
kiến, đó là lao dịch.
Nỗi niềm xót xa, cay đắng và lòng oán hận khi phải sống trong cảnh cơ cực vì
luôn bị chèn ép, bóc lột sức lao động đã được biểu hiện trong Kinh Thi một cách tỉ mỉ:

Bài “Bảo vũ” (chim bảo rã cánh) trong Đường phong, thân phận của những
người lao động được ví như loài chim bảo (một loài chim to nhưng không có ngón
chân sau, đậu không vững). Lời thơ trong “Bảo vũ” chính là lời tố cáo thống thiết cảnh
tượng phu dịch của nông dân:
鴇羽 3

Bảo vũ 3

肅肅鴇行,

Túc túc bảo hàng.


集于苞桑。

Tập vu bao tang.

王事靡盬,

Vương sự mỹ cổ,

不能蓺稻粱。

Bất năng nghệ đạo lương.


父母何嘗?

Phụ mẫu hà thường ?

悠悠蒼天,

Du du thương thiên,

曷其有常。

Hạt kỳ hữu thường ?
Cánh chim bảo 3

Kết thành hàng nghe bay chim bảo,
Trên bụi dâu cùng đậu lại đầy.
Việc vua hoàn hảo lo ngay.
Cấy trồng dé mạch nào ai rảnh gì.
Ôi cha mẹ lấy chi ăn hỡi?
Trời xanh kia diệu vợi mà cao.
Bình thường trở lại chừng nào?

Lãnh chúa phong kiến bắt họ phải đi đào sông, đào hồ, đắp đường, xây thành bỏ
cả công việc cày bừa, cha mẹ già không ai phụng dưỡng, vợ con không nơi tựa nương.
20



Họ cũng không biết đến khi nào thì mới được yên ổn, mới dứt được nhọc nhằn, mới
trở lại được cuộc sống bình thường để chăm sóc gia đình, về đoàn tụ cùng người thân.
Nếu ở “Bảo vũ” là lời nói trực tiếp của người đi phu dịch thì “Quân tử vu dịch”
là tiếng thở than của một người vợ mong chờ chồng của mình đi phu dịch sớm ngày
trở về:
君子于役 1

Quân tử vu dịch 1

君子于役,


Quân tử vu dịch,

不知其期,

Bất tri kỳ kỳ

曷至哉?

Hạt chí tê (tai) ?

雞棲于塒,


Kê tê (thê) vu thì,

日之夕矣,

Nhật chi tịch hĩ,

羊牛下來。

Dương ngưu hạ ly (lai).

君子于役,


Quân tử vu dịch,

如之何勿思?

Như chi hà vật ti (tư).

Chàng đi làm 1
Bấy lâu chàng tách ra đi,
Trở về chẳng rõ hạn kỳ nào hay.
Bây giờ chàng tới đâu đây?
Gà vừa lên ổ cả bầy yên nơi.
Ngày đà bảng lảng tối rồi,

Bò dê lần lượt nối đuôi về chuồng.
Bấy lâu chàng tách đi luôn.
Làm sao em chẳng nhớ buồn vì ai?
hay chỉ là biết chàng chẳng đói khát cũng đã an tâm:
君子于役 2

Quân tử vu dịch 2

君子于役,

Quân tử vu dịch,


不日不月,

Bất nhật bất nguyệt

曷其有佸?

Hạt kỳ hữu huyệt (quát) ?

雞棲于桀,

Kê tê (thê) vu kiệt,
21



×