Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Dạy học đoạn trích “tình yêu và thù hận” trong chương trình ngữ văn lớp 11 theo đặc trưng thể loại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (577.12 KB, 20 trang )

Dạy học đoạn trích “Tình u và thù hận”
trong chương trình Ngữ văn lớp 11
theo đặc trưng thể loại
Teaching chapter "Love and Hatred" in Grade 11 Literature according to genre characteristics
NXB H. : ĐHGD, 2012 Số trang 119 tr. +

Phạm Thị Yến
Trường Đại học Giáo dục
Luận văn ThS ngành: Lý luận và phương pháp dạy học(bộ môn Ngữ văn);
Mã số: 60 14 10
Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Ban
Năm bảo vệ: 2012
Abstract: Nghiên cứu tổng quan tài liệu về thể loại kịch (đặc biệt là bi kịch thời kì Phục
hưng), tác phẩm Romeo và Juliet và đoạn trích “Tình u và thù hận”. Tìm hiểu, điều tra
khảo sát thực trạng dạy kịch bản văn học trong nhà trường trung học phổ thông. Đề xuất,
xây dựng phương pháp dạy học đoạn trích “Tình u và thù hận” theo đặc trưng thể loại
kịch bản văn học.
Keywords: Ngữ văn; Phương pháp giảng dạy; Đặc trưng thể loại; Lớp 11
Content
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Nghị quyết số 49/2000/QH10, ngày 19/12/2000 của Quốc hội khóa X về đổi mới chương
trình giáo dục phổ thơng được ban hành đã thúc đẩy ngành giáo dục tiến hành nhiều cải cách, đổi
mới. Một trong những mũi nhọn được các nhà giáo dục đặc biệt quan tâm đó là đổi mới chương
trình sách giáo khoa. Theo dõi chương trình sách giáo khoa Ngữ văn THPT chúng ta dễ dàng nhận
thấy sau năm 2000 bên cạnh các thể loại khác, thể loại kịch đã được các nhà biên soạn lựa chọn và
đưa vào chương trình với ba tác phẩm tiêu biểu. Thực tiễn đó đặt ra yêu cầu cần phải có một cách
tiếp cận phù hợp để khai thác được hết cái hay cái đẹp của các tác phẩm kịch – một thể loại với
nhiều những nét đặc sắc nhưng không phải ai cũng dễ dàng cảm nhận được.
1.2. Trong số ba trích đoạn kịch bản được đưa vào giảng dạy trong chương trình Ngữ văn THPT
dễ dàng nhận thấy chỉ có một trích đoạn thuộc văn học nước ngồi được đưa vào giảng dạy đó là
đoạn trích “Tình yêu và thù hận” (trích vở Romeo và Juliet) của William Shakespear. Sự lựa chọn


này của các nhà biên soạn đã thể hiện sự ưu ái đặc biệt đối với Shakespear nói chung với vở
Romeo và Juliet nói riêng. Lựa chọn nghiên cứu đoạn trích “Tình u và thù hận” (trích Romeo và
Juliet) của Shakespear chúng tơi hi vong giúp những học sinh của mình có thể nhận thức được
những đặc trưng của thể loại kịch thông qua một kiệt tác của một kịch gia bậc thầy từ đó có hình
thành kĩ năng khai thác các cái hay, cái đẹp của các tác phẩm cùng thể loại.

1


1.3. Qua thực tế giảng dạy ở nhà trường phổ thông cũng như tham khảo ý kiến của các đồng
nghiệp chúng tôi nhận thấy việc dạy học kịch bản văn học gặp rất nhiều khó khăn. Những hạn chế
cơ bản cả về lí luận và thực tiễn đã làm cho những tiết học kịch bản ở nhà trường phổ thông chưa
mang lại hiệu quả cao.
Với mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé nhằm nâng cao chất lượng giáo dục nói chung,
tăng hiệu quả trong các tiết dạy học kịch bản nói chung và đặc biệt là khi dạy học đoạn trích
“Tình u và thù hận” chúng tơi mạnh dạn chọn đề tài “Dạy học đoạn trích “Tình u và thù
hận”trong chương trình Ngữ văn lớp 11 theo đặc trưng thể loại”. Hi vọng đề tài này không chỉ
giúp chúng tơi có nền tảng kiến thức tốt chuẩn bị cho việc giảng dạy trích đoạn “Tình u và thù
hận” mà hơn thế nữa chúng tôi sẽ hiểu rõ hơn về nghệ thuật kịch nói chung từ đó có phương pháp
tốt để giảng dạy thể loại kịch trong nhà trường phổ thông.
2.Lịch sử vấn đề nghiên cứu
2.1.Những nghiên cứu về đoạn trích Tình u và thù hận
Theo lời đánh giá của Êmecxơn, Shakespeare là “nhân vật vĩ đại nhất của lịch sử thế giới
cận đại” ông đã để lại một gia tài văn học khổng lồ khiến nhân loại nhiều thế kỉ qua tốn khơng ít
giấy mực. Ở phần này chúng tôi chỉ tập trung vào lịch sử nghiên cứu đoạn trích “Tình u và thù
hận”, một trích đoạn trong vở Romeo và Juliet nổi tiếng của ơng.
Với tính chất là một tác phẩm được lựa chọn một đoạn trích trong chương trình văn học
phổ thơng nhiều năm qua, vở Romeo và Juliet đã được nghiên cứu khá tỉ mẩn trong nhiều bộ sách
tham khảo trong nhà trường trong các sách tham khảo của giáo viên và học sinh phổ thông: Sách
giáo viên lớp 11 tập 1, Thiết kế bài giảng lớp 11 tập 1, Phân tích và bình giảng tác phẩm văn học

11…Tuy nhiên, phần lớn những bài nghiên cứu này hầu như chỉ tập trung vào nội dung đoạn trích
“Tình u và thù hận”.
2.2. Những nghiên cứu giảng dạy tác phẩm kịch theo thể loại
Phương pháp giảng dạy môn ngữ văn trong nhà trường phổ thông là một vấn đề được đề
cập đến rất nhiều trong những năm gần đây. Vấn đề đổi mới chương trình, đổi mới phương pháp
giảng dạy đã trở thành một phong trào huy động được sự tham gia của các thầy cô giáo và giới
nghiên cứu. Việc giảng dạy tác phẩm văn học theo thể loại là một hướng nghiên cứu thu hút được
nhiều sự quan tâm xong có thể nói đối với phương pháp giảng dạy tác phẩm kịch còn khá nhiều
vấn đề bỏ ngỏ
Với phần lịch sử vấn đề trên đây, chúng tơi đã có cái nhìn tổng qt về việc nghiên cứu
đoạn trích “Tình u và thù hận” và việc giảng dạy thể loại kịch bản văn học ở Việt Nam. Những
cơng trình này sẽ là những tư liệu q cho chúng tơi nghiên cứu đề tài của mình.

2


3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1.

Mục đích nghiên cứu
-

Xây dựng một số luận điểm về phương pháp dạy kịch bản văn học trong chương

trình trung học phổ thơng nhằm nâng cao hiệu quả dạy học tác phẩm kịch trong nhà trường phổ
thơng
-

Đưa ra phương pháp dạy đoạn trích “Tình yêu và thù hận” (lớp 11 tập 1) theo đặc


trưng thể loại kịch
3.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu
-

Nghiên cứu tổng quan tài liệu về thể loại kịch (đặc biệt là bi kịch thời kì Phục

hưng), tác phẩm Romeo và Juliet và đoạn trích “Tình u và thù hận”
-

Tìm hiểu, điều tra khảo sát thực trạng dạy kịch bản văn học trong nhà trường trung

học phổ thông
-

Đề xuất, xây dựng phương pháp dạy học đoạn trích “Tình u và thù hận” theo đặc

trưng thể loại kịch bản văn học.
4.Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
-

Các đặc trưng của bi kịch cổ điển thông qua tác phẩm Romeo và Juliet và đặc biệt

là đoạn trích “Tình u và thù hận”
-

Từ những nghiên cứu trên chúng tôi sẽ đưa ra phương pháp dạy học đoạn trích

“Tình u và thù hận” theo đặc trưng thể loại và tiến hành thực nghiệm

5.Phƣơng pháp nghiên cứu.
Để đạt tới mục đích nghiên cứu, chúng tơi tiến hành nghiên cứu dựa trên hai nhóm phương
pháp cơ bản:
-

Nhóm phương pháp nghiên cứu về mặt lí thuyết với những phương pháp cơ bản

như: Phân tích, tổng hợp tài liệu…
-

Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tế như: Điều tra, khảo sát, thống kê, thực

nghiệm sư phạm...
6.Cấu trúc luận văn
Tương ứng với đối tượng và phạm vi nghiên cứu ở trên, ngoài phần mở đầu và kết thúc,
luận văn của chúng tôi được chia thành 3 chương.
Chƣơng 1. Cơ sở lí luận và thực tiễn
Chƣơng 2. Tổ chức dạy học đoạn trích Tình u và thù hận theo đặc trưng thể loại
Chƣơng 3. Thực nghiệm sư phạm

3


CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Đơi nét về thể loại kịch
1.1.1. Khái niệm
Thuật ngữ kịch đã được nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi trình
bày trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học của với hai cấp độ: Cấp độ loại hình và cấp độ thể loại
Ở cấp độ loại hình: “Kịch là một trong ba phương thức cơ bản của văn học (Kịch, tự sự,

trữ tình). Kịch vừa thuộc sân khấu vừa thuộc văn học. Kịch bản vừa dùng để diễn là chủ yếu lại
vừa để đọc vì kịch bản chính là phương diện văn học của kịch. Theo đó tiếp nhận kịch bản chính
là tiếp nhận phương diện của văn học kịch”
Ở cấp độ loại thể: “Thuật ngữ kịch được dùng để chỉ một thể loại văn học - sân khấu có vị
trí tương đương với bi kịch và hài kịch. Với ý nghĩa này kịch còn được gọi là chính kịch”
1.1.2. Phân loại
Dựa trên đặc điểm tính chất của xung đột kịch, N.A Gulaiep trong cuốn Lí luận văn học đã
phân chia kịch thành bi kịch, chính kịch, hài kịch.
1.1.3. Một số đặc trưng của kịch bản văn học
1.1.3.1. Về nhân vật
Kịch là nghệ thuật thể hiện hình tượng con người một cách sống động nhất, hình tượng
con người trong kịch cũng thuộc loại hình tượng mang tính ước lệ cao nhất. Số lượng nhân vật
kịch không thể nào nhiều như tự sự, tiểu thuyết được. Khi viết kịch bản, chất liệu quan trọng nhất
mà nhà văn có thể sử dụng để xây dựng hình tượng nhân vật là lời thoại cùng với giọng nói của
các nhân vật. Nhân vật kịch khơng được khắc họa với nhiều khía cạnh tỉ mỉ, các nhân vật kịch
phần đông đều đơn giản về mặt bên trong hơn so với hình tượng tự sự. Nhân vật văn học quả là
tổng hợp của nhiều vai trò như vai xã hội, vai tâm lý, vai tư tưởng, vai tính cách. Trong tác phẩm
tự sự, các vai trị này nhiều khi khơng đồng nhất với nhau. Vai trị của nhân vật kịch thường mang
tính chất đơn nhất và hay bị đồng nhất với vai tính cách. Trong các vở bi kịch nhân vật chính
thường là “những con người lương thiện, dũng cảm, anh hùng, cao thượng, đấu tranh vì những
mục đích tốt đẹp, vì lí tưởng cao quý nhưng điều kiện khách quan chưa cho phép thực hiện”
nhưng những nhân vật này thường có kết thúc bi thảm.
1.1.3.2. Về kết cấu
Kết cấu của một vở kịch bao gồm cốt truyện và nghệ thuật liên kết cụ thể các thành phần
của nó; cách tổ chức thời gian, khơng gian, tính cách…sao cho tồn bộ tác phẩm thực sự trở thành
một chỉnh thể nghệ thuật.
1.1.3.2.1. Kịch tính
Kịch khác tác phẩm tự sự ở kịch tính. Kịch tính là đặc điểm nổi bật của thể loại kịch.
Khơng có xung đột, mâu thuẫn thì khơng có kịch tính. Kịch tính bao giờ cũng được tạo thành bởi


4


những hành động đối nghịch. Kịch tính là trạng thái căng thẳng đặc biệt của mâu thuẫn, xung đột,
được tạo ra bởi những hành động thể hiện các khuynh hướng tính cách và ý chí tự do của con
người.
1.1.3.2.2. Cốt truyện
Nếu kịch tính là đặc điểm của nội dung thể loại thì sự tập trung cao độ của cốt truyện là
đặc điểm kết cấu của kịch bản văn học. Tính tập trung cao độ biểu hiện trước hết ở các bộ phận
cấu thành cốt truyện kịch. Bộ phận cấu thành duy nhất của cốt truyện kịch là hành động được triển
khai qua một hệ thống sự kiện diễn ra theo trật tự thời gian. Cốt truyện kịch thường đơn tuyến. Để
gây hứng thú cho người xem, thi pháp cốt truyện của kịch rất coi trọng việc sáng tạo ra cái bất
ngờ. Cốt truyện của tác phẩm kịch lại thường phát triển với nhịp điệu mau lẹ. Việc tôn trọng
nguyên tắc về sự tập trung của cốt truyện đã chi phối cách thức tổ chức bố cục của kịch bản văn
học. Một vở kịch thường được chia thành ba hoặc năm hồi tương ứng với ba giai đoạn vần động
hết sức mau lẹ của hành động kịch: thắt nút (trước đó thường có phần trình bày) - đỉnh điểm - mở
nút (có thể thêm phần vĩ thanh).
1.1.3.2.3. Khơng gian và thời gian
Không gian, thời gian của văn bản kịch bị giới hạn. Không gian, thời gian này thường
không được gợi ra với tính chất miêu tả trực tiếp như nhiều tác phẩm tự sự, không gian và thời
gian trong tác phẩm kịch thường được thể hiện thơng qua lời chú thích ngắn gọn của tác giả hoặc
đôi khi thông qua ngôn ngữ của nhân vật.
1.1.3.2.4. Ngơn ngữ
Trong kịch khơng có nhân vật người kể chuyện, cho nên không xuất hiện ngôn ngữ của
người kể chuyện. Tuy vậy, vẫn có lời chú thích trực tiếp của tác giả, trước hết là nhằm nêu rõ thời
gian, đặc điểm, bối cảnh của câu chuyện hoặc để nói rõ các hành động khơng lời của nhân vật,
những lời hướng dẫn ấy chỉ có giá trị với người đọc, đạo diễn, diễn viên, còn trong lúc trình diễn
chỉ có lời của nhân vật. Ngơn ngữ của nhân vật trong tác phẩm kịch có ba dạng ngơn ngữ đối
thoại, ngôn ngữ độc thoại và ngôn ngữ bàng thoại.
Mặc dù có sự phân loại như trên nhưng suy cho cùng ngôn ngữ kịch cũng mang những đặc

điểm chung không thể trộn lẫn:
- Ngôn ngữ kịch là ngôn ngữ có tính hành động.
- Ngơn ngữ kịch là một hình thái ngôn ngữ hội thoại gần gũi với đời sống
- Ngơn ngữ kịch mang tính tổng hợp và phải phù hợp với tính cách nhân vật.
- Trong kịch, thoại cũng là hành động đầy kịch tính.
Nói tóm lại, khi nói tới đặc trưng của kịch bản văn học đặc biệt là đặc trưng của bi kịch
người ta thường nói tới các đặc trưng về mặt nhân vật, kết cấu (cốt truyện, không gian thời gian,
xung đột, ngôn ngữ…). Khi phân tích một vở kịch, chúng ta cần phân tích làm rõ những đặc điểm

5


trên để tìm hiểu ý nghĩa của nó đồng thời thấy được sự khác biệt của thể loại này với các thể loại
khác.
1.2. Về tác phẩm Romeo và Juliet
Romeo và Juliet được coi là vở bi kịch nổi tiếng đầu tiên của Shakepeare được viết trong
khoảng những năm 1594 – 1595 gồm 5 hồi bằng thơ xem lẫn văn xuôi.
1.2.1. Nội dung vở kịch có thể tóm tắt như sau: Ngày xưa ở thành Vêrôna của nước Ý tồn tại một
mối thâm thù giữa dòng họ Capiulet và Montaghiu. Tại dạ hội hóa nhà Capiulet, Romeo đã gặp
Juliet và mối tình giữa họ đã nhanh chóng nảy nở và bùng lên mãnh liệt. Hai người đã cùng trao
cho nhau lời thề nguyền chung thủy. Hôm sau Romeo đã cùng với Juliet làm lễ cưới bí mật ở tu
phịng của tu sĩ Lơrân. Nhưng cũng ngày hơm đó một chuyện khơng may đã xảy ra, Tibân – anh
họ của Juliet đã đâm chết Mơkiuxiô – bạn của Romeo, Romeo đã đâm chết Tibân để trả thù cho
bạn và bị đày đi Mantua. Gia đình Capiulet đã ép Juliet lấy Parit một chàng thanh niên quý tộc họ
hàng nhà vương chủ. Juliet buồn bã và tuyệt vọng và được tu sĩ cho nàng một lọ thuốc ngủ có hiệu
lực làm cho tồn thân nàng lạnh băng như chết trong 42 giờ và báo tin cho Romeo biết về đón
nàng đi. Tưởng Juliet đã chết, gia đình Capiulet than khóc và đem thi thể nàng đặt vào hầm mộ.
Lá thư của Lôrân không đến tay Romeo, Romeo tưởng Juliet đã chết chàng mua thuốc độc rồi
quay về định tự vẫn bên người yêu. Nửa đêm hơm đó, Romeo gặp ở hầm mộ. Hai người đã đánh
nhau. Romeo đâm chết Parit rồi tìm đến bên thi thể người yêu uống thuốc độc tự vẫn. Juliet tỉnh

dậy thấy Romeo đã chết nàng đã dùng dao tự vẫn. Sau đó vương chủ và hai dịng họ Capiulet và
Montaghiu đều đến hầm mộ. Tu sĩ kể lại câu chuyện thương tâm và “bên xác con cha mẹ mới
quên thù” hai dòng họ đã từ bỏ thù hằn, đúc tượng của Romeo và Juliet như là biểu tượng của tình
u bất diệt.
1.2.2. Romeo và Juliet mặc dầu có kết thúc bi thảm nhưng suy cho cùng đây vẫn được coi là vở bi
kịch có âm hưởng của niềm tin vào sự tất thắng của chủ nghĩa nhân đạo. Lần đầu tiên trong văn học
nhân loại xuất hiện một tình yêu mộc mạc chân thành, cháy bỏng và quyết liệt của tuổi trẻ. Hình ảnh
Romeo và Juliet đã sẵn sàng vượt qua rào cản thù hận của hai gia đình, sẵn sàng hi sinh để giữ trọn lời
thề thủy chung là một biểu tượng đẹp, một thành tựu tuyệt vời của văn hóa Phục hưng.
1.2.3. Romeo và Juliet đã khai thác đề tài tình u – đề tài mn thủa của nhân loại, xây dựng lên
biểu tượng sức mạnh của tình u, lịng thủy chung. Nhưng khơng chỉ có vậy, tác phẩm còn ghi
lại dấu ấn sâu đậm trong lòng nhiều thế hệ bởi tác phẩm đã xây dựng rất thành cơng hình tượng
người phụ nữ. Những phụ nữ Hi Lạp và La Mã thường là người phụ nữ chịu đựng, người phụ nữ
đón nhận tình u như là một định mệnh. Người phụ nữ trong thời Phục hưng Ý tuy tràn đầy chất
men của sự sống nhưng cơ bản vẫn mang tính lý tưởng hóa sâu sắc, chưa thốt khỏi ánh hào
quang của Gia tơ giáo…Và sau Juliet chúng ta có nàng Simen, Juni…nhưng họ vẫn là người phụ
nữ dè dặt, không dám bước qua thành kiến xã hội, không dám tự chịu trách nhiệm về những hành
động của mình. Ở Juliet chúng ta cảm nhận được người phụ nữ với một tình yêu trong sáng, thủy

6


chung, mãnh liệt…và quan trọng hơn đó là người phụ nữ sinh ra để làm chủ cuộc đời mình, người
phụ nữ dám đấu tranh, người phụ nữ của những hành động và lựa chọn sáng suốt và khơng hề có
một phút ân hận về quyết định của mình.
Nếu như tư tưởng của tác phẩm lay động trực tiếp trái tim nhiều thế hệ thì có lẽ giá trị
nghệ thuật của tác phẩm lại tạo nên sức hấp dẫn bề sâu cho nó. Càng tìm hiểu nghệ thuật kịch của
Shakespeare nói chung và trong Romeo và Juliet nói riêng ta càng nhận thấy rõ hơn vai trò của
Shakespeare đối với lịch sử ngành kịch. Những đặc điểm nghệ thuật của Romeo và Juliet sẽ được
chúng tơi triển khai tìm hiểu cụ thể ở phần sau.

1.3. Nghệ thuật kịch trong vở Romeo và Julilet nhìn từ đặc trƣng thể loại
1.3.1. Nhân vật
1.3.1.1. Nhân vật Romeo
Romeo là một trong hai nhân vật trung tâm của vở kịch, góp phần thể hiện một cách rõ nét
thông điệp của vở kịch tới người đọc. Vẻ đẹp của Romeo được hiện ra thơng qua cái nhìn của các
nhân vật khác. Trong mắt Juliet, Romeo là một chàng trai mang đầy đủ những phẩm chất tốt đẹp
nhất – người mà nàng có thể đem lịng u thương ngay từ cái nhìn đầu tiên. Cịn trong mắt ơng
Capiulet – người đối địch với gia đình chàng – Romeo cũng vẫn là một chàng trai mực thước,
đàng hoàng, đĩnh đạc, là một niềm tự hào của thành Vêrôna. Vượt lên trên tất cả, Romeo đã thể
hiện được vẻ đẹp của mình ngay trong những lời nói, hành động của chàng. Romeo mực thước
đàng hoàng trong những cử chỉ, lời nói cùng nàng Juliet từ ngày đầu gặp gỡ. Romeo cơng bằng,
chính trực trong hành động can ngăn vụ va chạm giữa Mơkiuxiơ và Tibân và hành động địi lại
cơng lí cho Mơkiuxiơ. Và cuối cùng, Romeo bất tử cùng với tình yêu mãnh liệt, thủy chung cùng
nàng Juliet.
1.3.1.2. Nhân vật Juliet
Juliet là nhân vật nữ tiêu biểu của tác phẩm. Vẻ đẹp của nàng hiện lên một cách toàn diện
ở cả vẻ đẹp bên ngoài và những phẩm chất đáng quý bên trong.
Vẻ đẹp bên ngoài của Juliet được hiện ra chủ yếu thông qua những lời thoại của chàng Romeo.
Đó là vẻ đẹp của khn mặt, đơi mắt, đơi gị má…khiến thiên nhiên cũng phải ghen tị, thẹn thùng. Và
cũng chính vẻ đẹp này đã chinh phục trái tim chàng Romeo ngay từ cái nhìn đầu tiên.
Nếu như vẻ bề ngoài của Juliet được hiện ra qua những lời thoại của Romeo thì những
phẩm chất bên trong của nàng lại được thể hiện thơng qua chính lời nói, hành động của nàng. Biểu
hiện cao cả nhất cho vẻ đẹp tâm hồn của Juliet chính là tình u mãnh liệt thủy chung của nàng.
Juliet đã dám bất chấp tất cả mọi trở lực ngăn cản để lựa chọn tình u và quyết tâm đến với tình
u chân chính của mình. Với phẩm chất này, Juliet trở thành người phụ nữ tiêu biểu của thời kì
Phục hưng, người phụ nữ với vẻ đẹp thánh thiện trong sáng và một tình yêu mãnh liệt, cháy bỏng,
người phụ nữ dám đấu tranh cho hạnh phúc của mình, người phụ nữ thực sự làm chủ cuộc sống
của mình. Xây dựng thành cơng nhân vật này, Shakespeare đã cho thấy một cái nhìn hết sức tiến

7



bộ về người phụ nữ, một vấn đề mà văn học đã học hỏi và phát huy ở những giai đoạn sau.
1.3.2. Kết cấu.
1.3.2.1. Xung đột.
Xung đột là đặc trưng cơ bản của nghệ thuật kịch, là yếu tố tạo nên sự căng thẳng, hấp dẫn, tạo
ra sự hấp dẫn lơi cuốn của các vở kịch. Có ba loại xung đột cơ bản trong một vở kịch: xung đột giữa
hoàn cảnh và tính cách, xung đột giữa tính cách và tính cách, xung đột giữa các khía cạnh trong cùng
một tính cách. Xung đột trong vở kịch Romeo và Juliet là xung đột giữa tính cách và hồn cảnh; xung
đột giữa tình yêu và hận thù truyền kiếp.
Theo dõi diễn biến của vở kịch chúng ta có thể khẳng định xung đột trọng tâm chi phối sự
vận động và phát triển của các yếu tố khác trong Romeo và Juliet chính là xung đột giữa tình u
trong sáng, mãnh liệt giữa đôi trai tài gái sắc này và mối thù truyền kiếp giữa hai dịng họ. Đây
khơng đơn giản là sự xung đột bó hẹp của một gia đình, một dịng họ mà nó thực sự trở thành
xung đột mang ý nghĩa xã hội sâu sắc. Đặt vào bối cảnh thời Phục hưng khi cuộc đấu tranh giữa
cái cũ và cái mới đang diễn ra khá khốc liệt thì việc xây dựng nên một xung đột kịch như vậy có ý
nghĩa rất lớn. Xung đột giữa tình yêu và thù hận đã thực sự đặt ra vấn đề lớn hơn đó là sự xung
đột giữa lí tưởng nhân văn cao cả với những trở lực đen tối của xã hội. Và có lẽ chính ý nghĩa xã
hội sâu sắc này đã làm nên sức sống cho vở kịch, ghi danh Romeo và Juliet vào danh sách những
vở kịch thành công nhất của Shakespeare và của kho tàng kịch thế giới.
1.3.2.2. Cốt truyện
Cốt truyện của Romeo và Juliet là cốt truyện đơn tuyến, các sự kiện biến cố xoay quanh
một vấn đề duy nhất là câu chuyện tình yêu chân thành sâu sắc của đôi trẻ và mối thù hận lâu đời
giữa hai dịng họ Montaghiu và Capiulet. Hai khía cạnh này không tách rời nhau mà đan xen với
nhau, tác động qua lại với nhau tạo nên một cốt truyện thống nhất chặt chẽ. Câu chuyện được diễn
ra trọn vẹn trong vòng bốn ngày, các hành động kịch lần lượt diễn ra theo trình tự thời gian, hành
động này nối tiếp hành động kia tạo thành một chuỗi mắt xích hết sức logic.
Sức hấp dẫn của cốt truyện được tạo dự bởi sự đan xen của những “cái bất ngờ”. Trong vở
Romeo và Juliet có hai “cái bất ngờ” liên tiếp: thứ nhất đó là cuộc đụng độ của Tibân và Mơkiuxiơ
ngồi phố dẫn tới cái chết của Mơkiuxiơ và Tibân và án đi đày của Romeo; thứ hai đó là do một

sự cố mà kế hoạch của tu sĩ Lorân không đến được với chàng Romeo khiến câu chuyện mang một
kết thúc bi thảm. Chính những “cái bất ngờ” này đã tạo nên bước chuyển của cốt truyện khiến
người đọc không thể ngừng dõi theo diễn biến của câu chuyện.
Nói đến cốt truyện của một vở kịch người ta thường chú ý tới cách tổ chức bố cục của kịch
bản văn học. Trong vở Romeo và Juliet, cốt truyện cũng được triển khai thành năm hồi trong đó
ba thời điểm quan trọng thắt nút – đỉnh điểm – mở nút. Vở kịch được thắt nút bởi sự kiện Romeo
và Juliet gặp gỡ thề nguyền và kết duyên vợ chồng với sự chứng kiến của tu sĩ Lôrân. Đỉnh điểm
của vở kịch là cuộc xô xát trên đường phố dẫn đến việc Tibân, Mơkiuxiô chết và Romeo bị đày đi

8


biệt xứ. Vở kịch được mở nút bằng sự kiện Romeo do không biết kế hoạch mà tu sĩ Lôrân đã vạch
ra nên đã uống thuốc độc và tự vẫn bên nàng Juliet, Juliet tỉnh dậy thấy Romeo đã chết cũng qn
sinh theo chàng. Ngồi ra, vở kịch cịn để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng người đọc bằng phần vĩ
thanh đó là sự giảng hịa giữa hai gia đình, mối thù hận lâu đời giữa hai dịng họ được xóa bỏ.
Chính phần vĩ thanh này đã làm bớt đi tính chất nặng nề của vở kịch, khiến Romeo và Juliet tuy là
một vở bi kịch nhưng vẫn khiến con người ta tin tưởng vào hạnh phúc, tương lai.
1.3.2.3. Không gian và thời gian
Không gian và thời gian là hai yếu tố quan trọng của nghệ thuật kết cấu, là nỗi trăn trở của
nhiều nhà văn khi cầm bút. Đối với nghệ thuật kịch, vấn đề không gian thời gian càng trở thành
một vấn đề được đặc biệt chú ý. Do chịu sự quy định của đặc trưng thể loại, không gian thời gian
trong tác phẩm kịch thường phải giải quyết một sự mâu thuẫn lớn giữa một bên là tính vơ hạn, đa
dạng của đời sống và một bên là tính có hạn của kịch. “Giải quyết khơng gian thời gian kịch, đó là
vấn đề đeo đuổi của nghệ thuật kịch, nghệ thuật sân khấu bao đời nay”.
1.4.2.3.1. Không gian
Về mặt không gian, Romeo và Juliet bước đầu cho thấy tính chất phá vỡ luật “tam duy
nhất”. Vở kịch diễn ra ở thành Vêrơna (nước Ý) nơi có hai dòng họ thù địch nhau Capiulet và
Montaghiu sinh sống. Tuy nhiên đến hồi V – hồi cuối của vở kịch xuất hiện thêm một khơng gian
nữa đó là thành Mantua – nơi Romeo bị đi đày. Không gian thành Mantua chỉ xuất hiện duy nhất

ở cảnh 1 hồi V nhưng nó đã có tác dụng rất hiệu quả trong việc chuẩn bị cho các sự kiện chính
diễn ra ở thành Vêrôna để giải quyết vấn đề đặt ra trong vở kịch ở những cảnh sau.
Dựa vào việc khảo sát văn bản tác phẩm chúng ta có thể nhận thấy có 3 mảng khơng gian
chính cần được tìm hiểu kĩ trong tác phẩm.
Thứ nhất đó là khơng gian cơng cộng. Các nhân vật phụ chủ yếu hoạt động trong mảng
không gian này. Mảng khơng gian này có xảy ra những đợt xơ xát, ẩu đả nhưng tính chất kịch tính
khơng được đẩy lên cao trào mà nó chủ yếu mang tính chất chuẩn bị cho những kịch tính xuất
hiện ở cảnh sau.
Thứ hai đó là khơng gian tu phịng của tu sĩ Lôrân. Đây là mảng không gian xuất hiện khá
nhiều (5 lần), mỗi lần xuất hiện không gian này thường mang tới cho người ta cảm giác yên bình,
cảm giác tìm được lối thốt cho những bế tắc mà con người gặp phải. Sự xuất hiện của không gian
này làm dịu bớt những nhức nhối trong lòng người đọc, tránh được cảm giác bi quan cho họ khi
theo dõi vở kịch.
Thứ ba đó là mảng khơng gian liên quan đến nhà Capiulet (trong nhà Capiulet, vườn nhà
Capiulet, phòng Juliet, hầm mộ nhà Capiulet..). Đây là những mảng không gian mang tính chất bi
kịch. Trong những mảng khơng gian này đều hàm chứa sự đe dọa đối với mối tình của Romeo và
Juliet. Kết thúc vở kịch là không gian hầm mộ nhà Capiulet, không gian hầm mộ này vừa là đỉnh
cao của bi kịch tình yêu của hai người vừa là khơng gian bất tử hóa tình u của họ. Chính ở nơi

9


đầy rẫy đau thương và chết chóc đó tình u chân thành, mãnh liệt của Romeo và Juliet đã người
sáng, bất tử.
1.3.2.3.2. Thời gian
Xử lí thời gian trong Romeo và Juliet là một sáng tạo đặc biệt của Shakespeare. Ông đã
mạnh dạn phá vỡ tính chất “một ngày” của “luật tam duy nhất”, bất tử mối tình của Romeo và
Juliet trong 4 ngày. Thời gian được mở rộng hơn tuy nhiên tính chất căng thẳng hồi hộp của một
vở kịch vẫn không hề bị mất đi. Đây là một bước tiến mới của nghệ thuật kịch Shakespeare và
cũng là một đóng góp lớn của ơng cho nghệ thuật kịch thế giới.

Về mặt thời gian của vở kịch, chúng tôi đặc biệt lưu ý tới mảng thời gian ban đêm. Đây là
khoảng thời gian xuất hiện với mật độ dày đặc trong vở kịch. Đây chính là khoảng thời gian được
gắn liền với mối tình của hai nhân vật chính, đây cũng là khoảng thời gian chứa đựng nhiều ẩn ý
sâu xa. Trước hết thời gian đêm tối với sự yên tĩnh và sự xuất hiện của ánh trăng làm cho câu
chuyện tình yêu của Romeo và Juliet trở nên đẹp hơn, lãng mạn hơn đồng thời thơi gian buổi đêm
này cũng là một thời điểm có tính chất “chở che” cho cuộc tình ngang trái của Romeo và Juliet.
Tuy nhiên, khoảng thời gian này cũng khiến người ta nghĩ tới sự nguy hiểm có thể xảy ra bất cứ
lúc nào với đơi trẻ. Do vậy mà kịch tính trong vở kịch được đẩy lên cao, người đọc, người nghe
không khỏi hồi hộp lo lắng khi theo dõi diễn biến của vở kịch.
1.4. Thực trạng dạy học kịch bản văn học ở nhà trƣờng THPT
1.4.1. Tình hình dạy kịch bản văn học ở nhà trường THPT
Trong chương trình Ngữ văn hiện nay, số lượng các kịch bản văn học được đưa vào giảng
dạy chiếm một vị trí nhất định thể hiện sự đổi mới của Bộ giáo dục và đào tạo trong việc cho học
sinh tiếp cận với nhiều thể loại. Tuy nhiên theo khảo sát của chúng tơi chưa có một cơng trình
nghiên cứu chun sâu nào hỗ trợ đắc lực cho việc dạy các văn bản kịch, các thầy cô giáo chủ yếu
dạy học kịch bản như dạy học các thể loại văn học khác. Chúng tôi đã tiến hành khảo sát tình hình
dạy kịch bản văn học ở các trường THPT Chuyên Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội,
trường THPT Phạm Hồng Thái – Ba Đình – Hà Nội và trường THPT Nam Đơng Quan – Đơng
Hưng – Thái Bình trên các khía cạnh tìm hiểu thơng qua hệ thống giáo án của các giáo viên, quan
sát giờ dạy của các giáo viên, và phát phiếu điều tra. Qua quá trình khảo sát bước đầu chúng tôi
thu được những kết quả như sau:
Về giáo án và quan sát giờ giảng trên lớp: Qua khảo sát phần chuẩn bị giáo án của các
thầy cô khi dạy một số kịch bản văn học như: Vĩnh biệt Cửu Trùng đài, “Tình yêu và thù hận”,
Hồn Trương Ba da hàng thịt chúng tôi nhận thấy các giáo viên đã thể hiện có sự lồng ghép các
đặc trưng của thể loại kịch trong giáo án. Tuy nhiên cũng phải thừa nhận nhiều thầy cô đã bỏ quên
hoặc chưa thật sự có ý thức đầy đủ về việc giảng dạy văn bản kịch theo đặc trưng thể loại dẫn đến
đôi khi có đưa vào bài giảng một số đặc trưng của thể loại kịch nhưng cịn mang tính hình thức và
chưa khắc sâu được cho người học những đặc điểm này. Nhìn chung có thể nhận thấy có những

10



giáo viên đã đưa một số đặc trưng của kịch vào bài dạy khi dạy về thể loại này nhưng chưa chú
trọng, chưa ý thức sâu sắc về việc dạy tác phẩm theo thể loại.
Có thể nhận thấy một hạn chế lớn trong dạy học kịch bản văn học ở nhà trường phổ thông
hiện nay là các giáo viên đều nặng về truyền thụ nội dung văn bản đặc biệt là khi học văn bản kịch
nước ngồi.
Khảo sát thơng qua phiếu hỏi: Bên cạnh việc khảo sát giáo án và giờ dạy kịch bản văn học
trên lớp của các giáo viên, chúng tơi đã tiến hành tìm hiểu tình hình dạy học kịch bản văn học
thông qua hệ thống phiếu hỏi. Theo điều tra của chúng tôi số lượng giáo viên không hứng thú khi
giảng dạy các kịch bản văn học rất đáng tiếc chiếm tỉ lệ rất cao 59.09%. Chỉ có 13,64% giáo viên
thường xuyên bám sát đặc trưng của thể loại kịch khi giảng dạy và có tới 36,36% giáo viên hiếm
khi bám sát đặc trưng thể loại, 9,1% giáo viên hầu như không bám sát đặc trưng thể loại khi dạy
tác phẩm kịch. Như vậy có thể nhận thấy một điều rằng nhiều giáo viên đã dạy kịch khơng đúng
với đặc trưng của kịch.
1.4.2. Tình hình học kịch bản văn học ở nhà trường THPT
Việc học văn của học sinh ở nhà trường trung học phổ thông hiện nay đang không được
chú trọng một cách đúng mức. Một bộ phận không nhỏ học sinh đang ngày càng “lạnh nhạt” “hờ
hững” với môn học này. Qua phỏng vấn nhanh với một số học sinh lớp 12 khi các em đã học qua
về thể loại kịch và một số tác phẩm kịch nhưng kể tên các kịch bản văn học mà em biết cũng là
một câu hỏi không mấy dễ dàng. Thông qua một vài khảo sát trên đây chúng tôi nhận thấy rằng
học sinh hiện nay đa phần khơng thích học kịch bản văn học (chiếm 61,54%), và đối với các em
việc tiếp nhận kịch bản văn học là cơng việc khó khăn (76,92%).
Như vậy qua việc khảo sát tình hình dạy học kịch bản văn học trong nhà trường phổ thông
trên đây chúng tôi thấy rằng về cơ bản các thầy cô chủ yếu hướng dẫn học trò khai thác giá trị nội
dung của các vở kịch từ đó giúp học trị hiểu được phần nào giá trị tư tưởng của tác phẩm. Do
chưa bám sát vào đặc trưng thể loại kịch khi giảng dạy nên đa phần các tiết học chưa khai thác
được những thành công về giá trị nghệ thuật của kịch do vậy học sinh sẽ không nhận thấy hết
được giá trị tư tưởng của các vở kịch. Do vậy phải đổi mới về cách dạy cách học nhằm nâng cao
hiệu quả của việc dạy học kịch bản nói riêng, dạy học ngữ văn nói chung là rất cần thiết.

CHƢƠNG 2
TỔ CHỨC DẠY HỌC ĐOẠN TRÍCH TÌNH U VÀ THÙ HẬN
THEO ĐẶC TRƢNG THỂ LOẠI
2.1. Khái lƣợc về đoạn trích
Đoạn trích “Tình u và thù hận” chỉ là cảnh đầu tiên của hồi II trong vở Romeo và Juliet
với 16 lời thoại, 74 câu thơ. Romeo quay lại, trèo tường vào vườn nhà Capiulet vừa lúc Juliet xuất
hiện trên cửa sổ rồi hai người bày tỏ tình cảm với nhau. Theo thống kê nhân vật Romeo có 8 lời

11


thoại, nhân vật Juliet có 8 lời thoại.
Dựa vào văn bản tác phẩm chúng ta có thể thấy Romeo và Juliet không đối thoại với nhau
ngay từ đầu, mà chỉ thực sự nói chuyện với nhau từ lời thoại thứ 7. Sáu lời thoại đầu tiên thực chất
là những lời độc thoại nội tâm được thốt lên thành tiếng, nói khe khẽ, nói một mình, nói để cho
mình nghe. Từ lời thoại thứ 7 trở đi ngôn ngữ chuyển sang đối thoại.
Căn cứ vào những chỉ dẫn (các chữ in nghiêng), chúng ta có thể hình dung được khơng
gian, thời gian diễn ra hành động của hai nhân vật. Đó là một đêm khuya, trăng sáng khi dạ hội
vừa kết thúc, nàng Juliet đứng trên ban công nhà, chàng Romeo núp dưới lùm cây dưới ban công
trong vườn nhà Capiulet.
Về xung đột kịch, trong đoạn trích này khơng xuất hiện xung đột giữa tình u của đơi
nam nữ với mối thù hận lâu đời của hai dòng họ. Hằn thù của hai dịng họ chì có tính chất phơng
nền để thể hiện tình yêu sâu sắc, mạnh mẽ của Romeo và Juliet
2.2. Một số định hƣớng trong dạy học kịch bản văn học ở trƣờng phổ thông theo đặc trƣng
thể loại
Ở phần này, chúng tôi sẽ dựa trên một số đặc điểm đặc trưng của kịch để đưa ra những
điều cần lưu ý khi dạy học tác phẩm thuộc thể loại này.
Trong kịch thường có các vai, mỗi vai thường có những đặc điểm rất khác nhau ví dụ như:
lời nói, ngữ điệu, cử chỉ…do vậy giáo viên nên phân vai cho học sinh đọc. Nếu có thể giáo viên
nên cho học sinh nhập vai, diễn đoạn trích đó.

Diễn biến nội tâm của nhân vật kịch thường bộ lộ thông qua lời nói, ngữ điệu của lời nói,
hành động của nhân vật. Vì vậy khi phân tích diễn biến tâm lí của nhân vật kịch, giáo viên phải
hướng học sinh tới việc tìm hiểu về lời thoại, hành động của các nhân vật.
Xung đột kịch là một đặc trưng quan trọng của thể loại này, nó cũng là một yếu tố quan
trọng có tính chất quyết định tới phương pháp dạy học. Trong quá trình dạy học, giáo viên phải
chú ý giúp học sinh nhận ra được xung đột kịch, xung đột kịch này được thể hiện chủ yếu thông
qua lời nói và hành động của nhân vật ở các tuyến đối lập. Thơng thường lối hướng dẫn phân tích
theo kiểu “bổ dọc tác phẩm” sẽ giúp lột tả được xung đột kịch.
Khi phân tích kịch, giáo viên nên giúp học sinh phân biệt được ba dạng thức này của ngơn
ngữ nhân vật từ đó giúp học sinh tìm ra sự khác biệt của ngôn ngữ kịch so với ngôn ngữ của các
thể loại khác. Ngôn ngữ trong kịch là phương tiện quan trọng nhất để bộc lộ tính cách nhân vật.
Ngôn ngữ kịch trên sân chủ yếu là lời thoại của các nhân vật. Xung đột hay diễn biến của hành
động kịch chủ yếu bộc lộ qua lời thoại của các nhân vật (lời thoại có thể là lời đối thoại cũng có
thể là độc thoại). Giáo viên phải hướng dẫn học sinh tìm hiểu lời thoại của nhân vật.
Trong kịch khơng có sự xuất hiện rõ ràng của người kể chuyện như trong văn xi. Tác
giả ẩn mình đi và chỉ xuất hiện với những lời chú thích, hướng dẫn ngắn gọn về địa điểm, thời
gian xảy ra hành động. Hành động kịch không thể tách rời không gian và thời gian nó diễn ra, các

12


yếu tố này sẽ góp phần làm cho hành động kịch trở nên cụ thể và bộc lộ ý nghĩa của nó một cách
rõ ràng hơn. Mặt khác, sự chỉ dẫn sân khấu cũng là một đặc trưng riêng có ở kịch so với văn xi
và thơ. Vì vậy, khi dạy học tác phẩm kịch, giáo viên phải giúp học sinh phân tích được yếu tố
khơng gian, thời gian diễn ra hành động kịch dựa trên những chỉ dẫn sân khấu này.
Nói tóm lại, kịch là một thể loại có những đặc trưng riêng biệt, phân biệt nó với các thể
loại khác. Khi dạy học cho học sinh người giáo viên nên chú ý tới những đặc trưng này từ đó đưa
ra những phương pháp dạy học phù hợp nhằm giúp học sinh khơng chỉ phân tích, cảm thụ tốt
những tác phẩm thuộc thể loại này mà hơn thế, từ việc hiểu học sinh có thể tiến tới u thích, say
mê đối với một thể loại khơng hề dễ tìm hiểu đối với các em.

2.3. Cách thức tổ chức dạy học đoạn trích Tình u và thù hận theo đặc trƣng thể loại
2.3.1. Những lưu ý khi dạy học đoạn trích Tình u và thù hận
Theo chúng tơi, việc dạy học đoạn trích này cần quan tâm trên hai phương diện chính: thứ
nhất do đây là một tác phẩm văn học nước ngồi nên trong q trình dạy học cần lưu ý tới tính
chất phong tục, văn hóa phương Tây; thứ hai, đây là một trích đoạn kịch bản vì vậy phương pháp
dạy học đoạn trích chịu sự quy định của loại thể sinh ra nó. Phần phương pháp dạy học đoạn trích
này chúng tơi sẽ đưa ra cách thức dạy học đoạn trích dựa hai đặc tính trên của nó.
- Giáo viên phải khơi gợi được khơng khí thời Phục hưng để học sinh dễ đồng cảm với tâm
trạng của nhân vật.
- Giáo viên có thể cung cấp nguyên tác cho học sinh tham khảo, đối chiếu.
- Gợi dẫn chi tiết để học sinh tìm hiểu trước ở nhà những đặc trưng cơ bản của kịch, bi
kịch giúp các em dễ nhập tâm hơn vào bài học (giáo viên có thể cung cấp một số tài liệu).
- Giúp học sinh tóm tắt tác phẩm, hiểu được các sự kiện diễn ra trước và sau đoạn trích.
- Có sự phân vai cho học sinh khi đọc tác phẩm và lưu ý tới giọng đọc cho học sinh.
- Giúp học sinh hướng vào lời thoại, khơng gian thời gian để tìm hiểu nhân vật.
- Ở đoạn trích xung đột kịch khơng nổi lên gay gắt nhưng giáo viên nên giúp học sinh tìm
hiểu một số kiến thức chung về xung đột kịch và chứng minh ở đoạn trích này thù hận chỉ đóng
vai trị là phơng nền để thể hiện tình yêu của Romeo và Juliet.
- Ngôn ngữ, không gian thời gian cũng là hai phương diện đặc sắc của đoạn trích này. Tùy
từng cách khai thác mà giáo viên có thể khai thác gộp lại với các yếu tố khác hoặc tách riêng khi
phân tích. Tuy nhiên trong q trình hướng dẫn học sinh tìm hiểu tác phẩm, giáo viên phải chỉ rõ
cho học sinh thấy được sự khác biệt về mặt ngôn ngữ, không gian thời gian của tác phẩm kịch và
các tác phẩm tự sự khác.
Chúng tôi tin rằng với những chỉ dẫn về cách thức dạy học đoạn trích “Tình u và thù
hận” theo đặc trưng thể loại trên đây sẽ khơng chỉ giúp học sinh có thể tiếp cận đoạn trích theo
đúng hướng mà khi gặp những kịch bản khác học sinh cũng sẽ tìm được hướng tiếp cận đúng.

13



2.3.2. Lựa chọn hình thức tổ chức dạy học đoạn trích Tình u và thù hận
Xét về mặt hình thức tổ chức dạy học, đoạn trích Tình u và thù hận có thể sử dụng cả
hình thức dạy học trên lớp và hình thức dạy học ngồi lớp. Tùy theo điều kiện cụ thể người dạy có
thể áp dụng hình thức tổ chức dạy học cho phù hợp để đạt hiệu quả dạy học cao nhất. Trong luận
văn này, với hình thức dạy học trên lớp chúng tơi sẽ thiết kế một giáo án word triển khai dạy học
văn bản Tình yêu và thì hận theo đặc trưng thể loại. Đây là hình thức dạy học khá phổ biến và phù
hợp với nhiều trường, nhiều đối tượng dạy học.
Đối với hình thức dạy học ngồi lớp chúng tơi sử dụng dạy học dự án để triển khai việc
dạy học văn bản “Tình yêu và thù hận”. Dạy học dự án là phương pháp mới đòi hỏi cả người dạy
và người học phải có sự chuẩn bị cơng phu chu đáo nhưng đổi lại kiến thức của bài học sẽ được
người học tìm hiểu, tiếp nhận một cách chủ động, tự giác và hứng thú thông qua sự hướng dẫn,
chia sẻ và tổ chức hoạt động của người dạy. Dạy học văn bản “Tình u và thù hận” có thể kết
hợp với bài Một số thể loại văn học: Kịch, văn nghị luận (thuộc tiết 109 và 110 của học kì II) tạo
thành dự án Sân khấu hóa kịch bản đoạn trích “Tình u và thù hận” và tìm hiểu về Shakespeare
cùng vở kịch Romeo và Juliet.
Chúng tôi sẽ tiến hành thực nghiệm sư phạm với cả hai hình thức dạy học đoạn trích “Tình
u và thù hận” trên đây ở chương 3. Với mỗi hình thức dạy học chúng tơi sẽ tiến hành dạy thực
nghiệm ở một lớp và một lớp đối chứng để đánh giá hiệu quả của từng hình thức dạy học trên.
Như vậy, trên đây chúng tơi đã kết hợp giữa đặc trưng của việc dạy học văn học nước
ngoài và dạy học tác phẩm kịch để đưa ra cách thức tổ chức dạy học cho đoạn trích “Tình u và
thù hận” sách giáo khoa ngữ văn lớp 11 tập 1. Đây cũng sẽ là cơ sở để chúng tôi tiến hành thực
nghiệm và định hướng cách dạy học tác phẩm kịch ở trường phổ thông.

CHƢƠNG 3
THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM
3.1. Mục đích thực nghiệm
Thực tiễn được coi là thước đo khách quan, là nơi đưa ra câu trả lời xác đáng cho những
đề xuất về mặt lí luận. Vì thế sau khi tiến hành những nghiên cứu trên đây về mặt lí thuyết chúng
tơi tiến hành thực nghiệm để kiểm chứng hiệu quả đồng thời đánh giá khả năng áp dụng vào thực
tiễn của những kết quả nghiên cứu nêu trên.

3.2. Đối tƣợng và địa bàn thực nghiệm
3.2.1. Đối tượng
- Đối tượng học sinh: Học sinh lớp 11 bậc THPT học theo chương trình Ngữ văn cơ bản
của Trường THPT Chuyên Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội và trường THPT Phạm
Hồng Thái – Ba Đình – Hà Nội. Ở mỗi trường chúng tôi lựa chọn 2 lớp thực nghiệm (một lớp dạy

14


thực nghiệm theo hình thức tổ chức dạy học trên lớp và một lớp dạy thực nghiệm dạy học dự án)
và 2 lớp đối chứng. Tổng số học sinh tham gia thực nghiệm là 155 học sinh.
- Đối tượng giáo viên: Để đảm bảo tính khách quan cho cả quá trình thực nghiệm cũng như
việc đánh giá chính xác kết quả thực nghiệm, chúng tôi chọn lựa đối tượng giáo viên tham gia thực
nghiệm là những người có tuổi nghề khác nhau. Các giáo viên được mời tham gia thực nghiệm đều là
những giáo viên có trình độ chun mơn nghiệp vụ được đánh giá cao, tâm huyết với nghề. Đây đều là
những giáo viên tốt nghiệp chuyên ngành Ngữ văn hệ chính quy tại các trường đại học sư phạm hiện
đang công tác ở các trường THPT được chúng tôi lựa chọn thực nghiệm.
3.2.2. Địa bàn thực nghiệm
- Không gian thực nghiệm: Để tiện cho việc tiến hành và theo dõi đánh giá thực nghiệm
chúng tôi tiến hành thực nghiệm tại địa bàn Hà Nội, cụ thể là tại hai trường THPT mà chúng tơi
có điều kiện trực tiếp giảng dạy đó là trường THPT Chuyên Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc
gia Hà Nội, trường THPT Phạm Hồng Thái – Ba Đình – Hà Nội.
- Thời gian thực nghiệm: Quá trình thực nghiệm được tiến hành trong năm học 2012 –
2013. Theo phân phối chương trình mơn Ngữ văn lớp 11 tập I, văn bản “Tình yêu và thù hận” là
tiết thứ 65, 66 trên tổng số 72 tiết của chương trình Ngữ văn học kì một (tức là rơi vào cuối học
kì). Tuy nhiên để kịp tiến độ hoàn thành thực nghiệm, hoàn thành luận văn tốt nghiệp chúng tôi đã
xin phép đẩy tiết dạy học văn bản “Tình yêu và thù hận” lên trước.
3.3. Nội dung và tiến trình thực nghiệm
3.3.1. Nội dung thực nghiệm
- Luận văn của chúng tôi sẽ tiến hành dạy thực nghiệm đoạn trích “Tình u và thù hận”

theo đặc trưng thể loại với cả hai hình thức dạy học trên lớp và dạy học dự án (giáo án dự án và
giáo án trên lớp được thể hiện ở phần phụ lục)
- Sau khi dạy thực nghiệm xong chúng tôi tiến hành so sánh giữa lớp thực nghiệm và lớp
đối chứng để bước đầu nhận định, đánh giá hiệu quả sư phạm và tính khả thi của việc dạy học
đoạn trích “Tình yêu và thù hận” theo đặc trưng thể loại dựa trên cả kết quả định tính và định
lượng mà chúng tơi khảo sát được sau giờ dạy.
3.3.2. Tiến trình thực nghiệm
Chúng tôi tiến hành thực nghiệm dạy học văn bản “Tình yêu và thù hận” với hai hình thức
dạy học dạy học trên lớp và dạy học ngoài lớp cơ bản theo tiến trình sau:
1, Xây dựng kế hoạch thực nghiệm
Xác định mục đích và nội dung thực nghiệm; lựa chọn đối tượng; địa bàn, thời gian tiến
hành thực nghiệm; xác định, xây dựng các công cụ cần thiết cho q trình thực nghiệm: Soạn giáo
án thực nghiệm, hồn thành bộ công cụ điều tra khảo sát, chuẩn đánh giá, phương pháp xử lí kết
quả, kho tài liệu học tập…)

15


2, Tổ chức thực nghiệm
Trao đổi với giáo viên tham gia thực nghiệm về quy trình triển khai dạy học, ý đồ, nội
dung yêu cầu tiến hành giờ thực nghiệm.
Các giờ dạy học thực nghiệm sẽ được tiến hành song song với các tiết học đối chứng. Tiết
học thực nghiệm do chúng tôi tiến hành, tiết học đối chứng do các giáo viên ở các trường sở tại
tiến hành.
3, Thu thập và đánh giá kết quả thực nghiệm
Sau khi tiến hành thực nghiệm và đối chứng chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát chất lượng học
tập, mức độ hứng thú của học sinh sau giờ học thông qua hệ thống phiếu hỏi trắc nghiệm và tự
luận. Bên cạnh đó chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát lấy ý kiến giáo viên về hiệu quả và tính khả thi
của các giờ thực nghiệm mà chúng tôi đã tiến hành thông qua bảng hỏi và phiếu góp ý. Những ý
kiến của giáo viên và học sinh sẽ được xử lí một cách khách quan để làm căn cứ đánh giá quá

trình thực nghiệm
3.4. Kết quả thực nghiệm, nhận xét, đánh giá
3.4.1. Kết quả bài kiểm tra mức độ nhận thức của HS sau bài học
Chúng tôi tập hợp các bảng thống kê kết quả kiểm tra nhanh của học sinh sau các tiết học
ở các lớp thực nghiệm và các lớp đối chứng thu được kết quả như sau:
Bảng 3.1. Tổng kết điểm kiểm tra của học sinh
Điểm

0

Lớp TN

2

3

4

5

6

7

8

9

10


0

0

0

0

2

5

18

15

17

10

8

0

0

0

0


3

9

18

14

16

13

7

0

DHDA

1

0

0

7

5

15


20

11

10

7

2

(75HS)
DHTL
(80 HS)

Lớp ĐC

77 HS

Bảng 3.2. Phân loại kết quả
Xếp loại điểm

Yếu

Trung bình

Khá

Giỏi

(0 -4)


(5, 6)

(7, 8)

(9, 10)

2

23

32

18

%

2,67

30,66

42,67

24

DHTL

3

27


30

20

%

3,75

33,75

37,5

25

77 bài

12

35

21

9

%

15,59

45,45


27,27

11,69

DHDA
(75bài)

Lớp TN

(80 HS)
Lớp ĐC

16


50
40
30

Thực nghiệm DHDA
Thực nghiệm DHTL

20

Đối chứng

10
0


Điểm yếu

điểm trung bình

điểm khá

điểm giỏi

Biểu đồ 3.1 So sánh kết quả thực nghiệm DHDA, DHTL và lớp đối chứng
Như vậy, thông qua các kết quả thu được trên đây chúng tôi nhận thấy rằng dạy học đoạn
trích “Tình u và thù hận” theo đặc trưng thể loại dù theo hình thức dạy học trên lớp hay theo
hình thức dạy học dự án đều mang tính khả thi và mang lại hiệu quả dạy học cao hơn so với việc
dạy học đoạn trích này mà khơng lưu ý tới đặc trưng thể loại của nó.
3.4.2. Kết quả điều tra ý kiến từ phía giáo viên và học sinh
Bên cạnh việc khả sát kết quả thực nghiệm thông qua kết quả học sinh thu được sau giờ
học chúng tơi cịn tiến hành tổng hợp đánh giá ý kiến của giáo viên, học sinh tham gia vào q
trình thực nghiệm và đối chứng thơng qua các biên bản đóng góp ý kiến.
-

Các đánh giá từ phía giáo viên:
+ Về nội dung tri thức bài giảng: 80% giáo viên đánh giá tốt, 20% giáo viên đánh giá khá
+ Về phương pháp và phương tiện: cơ bản các giáo viên đánh giá phương pháp và

phương tiện dạy học phù hợp. 86% giáo viên được hỏi sẽ tiến hành áp dụng phương pháp phương
tiện của bài dạy thực nghiệm khi dạy học đoạn trích này
+ Về hình thức tổ chức dạy học: 72,5 % giáo viên được hỏi đánh giá hình thức tổ chức
dạy học tốt. Đặc biệt hình thức dạy học dự án được các thầy cô đánh giá cao trong việc tổ chức
dạy học các tác phẩm kịch.
-


Đánh giá từ phía học sinh: Hầu hết học sinh tham gia thực nghiệm được phỏng vấn

đều cho biết thấy hứng thú với các tiết học dạy thực nghiệm. Tiết học đã giúp các em nhận thức
được kiến thức bài học một cách rõ ràng, đồng thời thông qua bài học các em cịn có sự hiểu biết
chung về thể loại kịch từ đó định hướng cách thức tiếp cận những văn bản kịch nói chung.
3.4.3. Nhận xét đánh giá chung
Như vậy, từ những kết quả thu được ở trên chúng tôi rút ra một số đánh giá, nhận xét cơ
bản như sau:
-

Phần thiết kế thực nghiệm của chúng tôi đưa ra đã đáp ứng được yêu cầu về chuẩn

kiến thức kĩ năng bài học, có tính khả thi và mang lại hiệu quả giảng dạy tích cực.
-

Ở cả hai hình thức dạy học trên lớp và dạy học theo dự án chúng tôi đều mang lại

hiệu quả dạy học cao.

17


-

Trong các giờ học thực nghiệm, nhìn chung khơng khí lớp học sôi nổi hào hứng.

-

Tuy nhiên, các tiết dạy thực nghiệm vẫn không tránh khỏi một số vấn đề khó khăn


cần khắc phục.
Trên đây là những nhận định, đánh giá mà chúng tôi rút ra được từ sáu tiết dạy thực
nghiệm. Những kết quả này sẽ giúp chúng tôi trong việc nhận thức những mặt tích cực và những
hạn chế trong q trình thực nghiệm từ đó có những chỉnh sửa, bổ sung, hoàn thiện hơn cho việc
tiến hành các tiết dạy học cũng như tiếp tục hoàn thiện luận văn của mình hơn nữa.

KẾT LUẬN
Luận văn của chúng tôi được tiến hành nghiên cứu một cách nghiêm túc dựa trên cơ sở
nhận thức và thực tiễn rõ ràng, khoa học với trọng tâm là vận dụng đặc trưng thể loại vào dạy học
tác phẩm văn chương nói chung, dạy học kịch bản văn học nói riêng. Trong quá trình nghiên cứu
với đề tài “Dạy học đoạn trích “Tình yêu và thù hận” trong chương trình Ngữ văn lớp 11 theo
đặc trưng thể loại” chúng tôi đi đến kết luận như sau:
+ Thứ nhất: Để giảng dạy tốt các tác phẩm kịch ở trường phổ thơng địi hỏi người giáo
viên phải nắm chắc đặc điểm chung của thể loại kịch, đặc điểm riêng biệt của từng tác phẩm kịch
mà mình giảng dạy từ đó có biện pháp dạy học phù hợp, mang lại hiệu quả cao.
+ Thứ hai: Dạy học tác phẩm kịch theo đặc trưng thể loại nói chung, dạy học đoạn trích
“Tình u và thù hận” theo đặc trưng thể loại nói riêng đã đem lại hiệu quả dạy học cao, tạo được
hứng thú, phát triển được tư duy cho người học khi tiếp cận với văn bản được học nói chung và
định hướng cho việc tiếp nhận các văn bản cùng thể loại nói riêng. Vì lẽ đó mà đề tài của chúng
tơi nghiên cứu là một đề tài thiết thực, có ý nghĩa trong việc nâng cao chất lượng dạy và học.
Với đề tài này, chúng tơi mong rằng có thể tích lũy được kiến thức cho bản thân, phục vụ
tốt cho nghề nghiệp của mình đồng thời chúng tơi cũng hi vọng rằng luận văn có thể trở thành một
tài liệu thiết thực cho những đồng nghiệp của mình trong việc giảng dạy đoạn trích “Tình u và
thù hận” (trích Romeo và Juliet sách giáo khoa 11 tập 1) hơn thế nữa là có hướng tiếp nhận và dạy
học thể loại kịch nói chung ở trường phổ thông.

References
1. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học. Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội
2. Anhikst (2003), Lí luận kịch từ Aristote đến Lessin. Nxb Văn học, Viện sân khấu, Hà Nội.
3. Aristote (1964), Nghệ thuật thi ca. Nxb Văn hóa, Hà Nội.

4. Lê Huy Bắc (2007), Giáo trình Văn học phương Tây trong trường phổ thông. Nxb Giáo dục,
Hà Nội.

18


5. Nguyễn Thị Ban, Nguyễn Thúy Hồng (2001), “Những yêu cầu cần thiết khi xây dựng hệ
thống câu hỏi, bài tập môn Văn – Tiếng Việt ở Trung học cơ sở và Trung học phổ thơng”, Tạp chí
Khoa học giáo dục (4), tr.34 – 36.
6. Bộ Giáo dục (2006) Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên giáo viên trung học phổ thông. Nxb Đại
học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
7. Nguyên Cẩn (2006) Uy-li-am Sếc-xpia. Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
8. Nguyễn Viết Chữ (2000), Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương. Nxb Đại học Sư
phạm. Hà Nội.
9. Trần Thanh Đạm (1971), Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo thể loại. Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
10. Hà Minh Đức (chủ biên)(1997), Lí luận văn học. Nxb Giáo dục. Hà Nội.
11. Nguyễn Văn Đƣờng (chủ biên) (2009), Thiết kế bài giảng ngữ văn 11 tập I. Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
12. Đặng Anh Đào(Chủ biên) (2007), Văn học Phương Tây. Nxb Giáo dục. Hà Nội.
13. Lê Bá Hán – Trần Đình Sử – Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2007), Từ điển thuật ngữ
văn học. Nxb Giáo dục, Hà Nội.
14. Hoàng Ngọc Hiến (1997), Năm bài giảng về thể loại. Nxb Trường viết văn Nguyễn Du, Hà
Nội
15. Đỗ Đức Hiểu (1962), Văn học phương Tây thời phục hưng (Giáo trình 1960 – 1961). Nxb
Đại học Tổng hợp, Hà Nội.
16. Đỗ Đức Hiểu (1998), “Mấy điều về thi pháp kịch”. Tạp chí văn học (2) , tr 18 - 20
17. Nguyễn Thanh Hùng (2002), Đọc và tiếp nhận văn chương. Nxb Giáo dục. Hà Nội.
18. Nguyễn Thanh Hùng (2006), Phương pháp dạy học ngữ văn những vấn đề cập nhật. Nxb
Đại học Sư phạm. Hà Nội.

19. Lƣu Thị Thu Hƣơng (2006), Nghệ thuật kịch Tào Ngu qua: Lôi Vũ, Nhật Xuất, Người Bắc
Kinh, Nguyên Dã. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
20. Khoa sƣ phạm trƣờng Đại học Giáo dục (2007), Tập bài giảng phương pháp dạy học ngữ
văn (lưu hành nội bộ). Khoa sư phạm trường Đại học Giáo dục, Hà Nội.
21. Nguyễn Huy Liên (1982), Lí luận xung đột kịch. Luận văn tiến sĩ, Đại học Tổng hợp Hà Nội.
22. Trƣơng Thị Thùy Linh (2008), Phương pháp dạy đọc hiểu tác phẩm văn xi nước ngồi
(Sách giáo khoa ngữ văn 11), Khóa luận tốt nghiệp đại học, khoa sư phạm Đại học Quốc gia Hà
Nội, Hà Nội.
23. Phan Trọng Luận (chủ biên) (2009), Ngữ văn 11 tập I, Sách giáo viên. Nxb Giáo dục. Hà
Nội.
25. Phan Trọng Luận (chủ biên) (2009), Ngữ văn 11 tập I. Nxb Giáo dục. Hà Nội.

19


25. Phan Trọng Luận (Chủ biên) (2008), Phương pháp dạy học ngữ văn. Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội. Hà Nội.
26. Phƣợng Lựu (1997), Khơi dịng lí thuyết. Nxb Hội nhà văn. Hà Nội.
27. Đặng Thai Mai (2003), Tác phẩm được tặng giải thường Hồ Chí Minh. Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
28. Hoàng Minh, Hoàng Liên, Lê Sơn, Đức Kôn (dịch) (1982), Kinh nghiệm viết kịch. Nxb Hội
nghệ sĩ sân khấu Việt Nam. Hà Nội.
29. Nguyễn Đức Nam (1995), “Sêc - Xpia và chúng ta”. Tạp chí văn học (8), tr 13 - 17.
30. Tôn Gia Ngân (1978.), Bi kịch cổ điển Pháp. Nxb Văn học. Hà Nội.
31. Vũ Tiến Quỳnh (1991), William Shakespeare: Tuyển chọn và trích dẫn những bài phê bình,
bình luận văn học của các nhà văn, nhà nghiên cứu Việt Nam và thế giới. Nxb Tổng hợp Khánh
Hịa.
32.

Trung tâm Văn hóa ngơn ngữ Đơng Tây (2006), Tuyển tập tác phẩm của William


Shakespeare. Nxb Sân khấu. Hà Nội.
33. Trần Đình Sử (chủ biên) (1998), Giáo trình Lí luận văn học tập II. Nxb Đại học Sư phạm.
Hà Nội.
34. Lê Văn Sự (2000), Văn học Anh: Lược sử và trích giảng. Nxb Đồng Nai.
35. Nguyễn Thị Thắm (2008) “Mối quan hệ giữa tình yêu và thù hận trong Romeo và Juliet của
Shakespeare”. Tạp chí văn học số (3), tr.34-35.
36. Tất Thắng (1984), “Tính hiện đại của kịch hát dân tộc”. Tạp chí văn học (2), tr.23 – 24.
37. Tất Thắng (2000), Về thi pháp kịch. Nxb Sân khấu. Hà Nội.
38. Nguyễn Thành Thống (1997), Lịch sử văn học Anh trích yếu. Nxb trẻ. Tp HCM.
39. Phạm Thị Xuân Thu (2006), Phương pháp dạy học kịch bản văn học trong trường trung học
phổ thơng, Khóa luận tốt nghiệp đại học, Khoa sư phạm Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
40. Hầu Duy Thủy (Chủ biên), (2002), Mười đại văn hào thế giới, (Phong Đào dịch). Nxb Văn
hóa thông tin, Hà Nội.
41. Phùng Văn Tửu (2001), “Nhân dịp bốn trăm năm Hamlet của Shakespeare”, Tạp chí văn học
(9), tr 26 – 28.
42. Phùng Văn Tửu (2008), Cảm thụ và dạy học văn học nước ngoài. Nxb Giáo dục. Hà Nội.

20



×