Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (234.48 KB, 25 trang )


LỜI MỞ ĐẦU.
Xu thế tự do hoá thương mại và toàn cầu hoá nền kinh tế với sự xuất hiện
của nhiều hình thức liên kết kinh tế khu vực và toàn cầu đang diễn ra rất mạnh mẽ.
Quốc gia nào đi ngược lại với xu thế ấy chắc chắn sẽ tụt hậu và trở nên kém phát
triển. Ngược lại, nếu quốc gia nào biết tận dụng thời cơ đó sẽ nhận được những lợi
ích vô cùng to lớn mà điển hình đó là tốc độ phát triển và đời sống xã hội, người
dân sẽ được nâng cao. Tuy nhiên, để có thể nhận được những lợi ích đó thì trước
tiên các quốc gia phải thực hiện các cam kết, trong đó có các cam kết về thuế nhập
khẩu.
Đảng và Nhà nước ta ngay từ đầu đã có chủ trương Việt Nam chủ động hội
nhập vào nền kinh tế quốc tế có nghĩa là cần phải có sự chuẩn bị kỹ ngay từ đầu rồi
hội nhập từng bước. Vì vậy, trong một khoảng thời gian dài thuế nhập khẩu đã được
quan tâm và được cải cách ngày càng phù hợp hơn với tình hình mới. Các chính
sách thuế nhập khẩu đã góp phần tích cực vào việc ổn định, phát triển kinh tế, chủ
động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Tuy nhiên, so với yêu cầu phát triển và
hội nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) của nước ta, chính sách thuế nhập
khẩu của Việt Nam hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều bất cập. Vì vậy, việc tiếp tục
nghiên cứu hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu là vô cùng cần thiết.
Nhận thức được vấn đề trên, tôi đã tham gia tìm hiểu, nghiên cứu về chính sách
thuế nhập khẩu và thực hiện đề tài: Hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu hàng
hóa của Việt Nam, với mong muốn góp một phần sức nhỏ bé của mình vào sự
nghiệp phát triển kinh tế của Việt Nam.

1

CHƯƠNG I : LÝ LUẬN CHUNG VỀ THUẾ XUẤT NHẬP KHẨU HÀNG
HÓA CỦA VIỆT NAM.
A. Một số vấn đề cơ bản của thuế nhập khẩu hàng hóa
1. Khái niệm và phân loại thuế nhập khẩu
a) Khái niệm


Theo Bách khoa toàn thư mở wikipedia: thuế nhập khẩu là một loại thuế mà
quốc gia hay vùng lãnh thổ đánh vào hàng hóa có nguồn gốc từ nước ngoài trong
quá trình nhập khẩu.Khi phương tiện vận tải (tàu thủy, máy bay, phương tiện vận tải
đường thủy hay đường sắt) đến cửa khẩu biên giới (cảng hàng không quốc tế, cảng
sông quốc tế hay cảng biển quốc tế,của khẩu biên giới bộ) thì các công chức hải
quan sẽ tiến hành kiểm tra hàng hóa so với khai báo trong tờ khai hải quan đồng
thời tính số thuế nhập khẩu phải thu theo những công thức tính thuế nhập khẩu đã
quy định trước. Về nguyên tắc, thuế nhập khẩu phải nộp trước khi thông quan để
nhà nhập khẩu có thể đưa mặt hàng nhập khẩu vào lưu thông trong nội địa,trừ khi
có những chính sách ân hạn thuế hay bảo lãnh nộp thuế, nên đây có thể coi là loại
thuế dễ thu nhất, và chi phí để thu thuế nhập khẩu là khá nhỏ. Trong thời cổ đại và
trung cổ ,thuế nhập khẩu còn được các chính quyền địa phương thu, nhưng hiện nay
điều này là rất hiếm và thường được nhà nước giao cho một tổ chức nhà nước
chuyên trách về thuế xuất-nhập khẩu là hải quan thực hiện công việc kiểm tra, tính
và thu thuế.Trong thời đại ngày nay, các chính sách về thương mại, thuế và thuế
quan ( trong đó có thuế nhập khẩu ) thường được xếp cùng nhau do ảnh hưởng
chung của chúng đối với các chính sách công nghiệp, chính sách nông nghiệp và
chính sách đầu tư.
b) Phân loại thuế nhập khẩu hàng hóa
Có nhiều cách để phân loại thuế nhập khẩu hàng hóa.
Thứ nhất, theo phương thức tính thuế có những loại thuế quan sau:
Thuế quan theo đơn giá hàng : là một tỷ lệ phần trăm nào đó của mặt hàng,
chẳng hạn 10% trên giá CIF của hàng nhập khẩu, được coi là thuế suất thuế nhập
khẩu. Đôi khi ở đây cũng có vấn đề do giá cả trên thị trường quốc tế giảm xuống thì
thuế nhập khẩu cũng bị giảm theo và các ngành sản xuất trong nước dễ bị tổn
thương hơn trong cạnh tranh.Ngược lại , khi giá hàng hóa tăng lên trên thị trường
quốc tế thì thuế nhập khẩu hàng hóa cũng tăng lên , nhưng khi đó sản xuất mặt hàng
đó thông thường cũng ít quan tâm đến việc bảo hộ khi giá cả là cao hơn.
Thuế quan theo trọng lượng: được tính theo trọng lượng mặt hàng chẳng
hạn 200 ngàn đồng trên 1 tấn. Kiểu tính thuế nhập khẩu này có thể là khó khăn hơn

trong việc quyết định số thuế phải nộp, do nó cần sự cập nhật thường xuyên vì các
thay đổi trên thị trường hay vì lạm phát.
Thứ hai, theo mục đích đánh thuế, có các kiểu thuế quan sau:
Thuế quan tăng thu ngân sách: là một tập hợp các mức thuế được đưa ra mà
mục đích chính là làm tăng nguồn thu chính cho ngân sách nhà nước, còn mục đích

2

bảo hộ cho sản xuất trong nước chỉ là thứ yếu. Chẳng hạn thuế quan mà một nước
không trồng hay chế biến cà phê đánh vào và phê nhập khẩu có mục đích chủ yếu là
tăng thu cho ngân sách.
Thuế quan bảo hộ : được đưa ra với mục đích làm tăng giá một cách nhân
tạo đối với hàng hóa nhập khẩu nhằm bảo hộ cho sản xuất trong nước trước sự cạnh
tranh khốc liệt từ nước ngoài.Chẳng hạn, một thuế suất 20% trên giá trị máy móc
nhập khẩu với giá nhập khẩu của chiếc máy là 2.000.000 VNĐ sẽ cho giá trị của nó
sau thuế là 2.400.000 VNĐ. Giả sử không có khoản thuế nào khác nữa thì các nhà
nhập khẩu phải bán chiếc máy này ít nhất ở mức giá trên 2.400.000 VNĐ để đảm
bảo có lãi. Khi không có thuế nhập khẩu thì các nhà sản xuất trong nước nếu muốn
bán được mặt hàng tương tự chỉ có thể tính giá ở mức khoảng 2.000.000 VNĐ cộng
với một số lợi nhuận hợp lý; nhưng do nhà nước đã áp thuế nhập khẩu đối với máy
móc nhập khẩu nên họ hiện nay có thể tính giá ở mức cao hơn, có thể ở ngưỡng như
giá bán ta của hàng nhập khẩu (sau khi chịu thuế) và như vậy họ sẽ có khat năng thu
được nhiều lợi nhuận hơn cũng như ổn định hơn về mặt tài chính. Nói chung thuế
quan bảo hộ được tính toán và đưa ra khi người ta cho rằng ở mức thuế suất thấp
hơn thì sản xuất trong nước sẽ gặp phải sự cạnh tranh rất quyết liệt từ hàng nhập
khẩu và thị phần về cơ bản sẽ nằm trong tay các nhà nhập khẩu.
Thuế quan cấm đoán: là thuế quan đưa ta với thuế suất rất cao, gần như
không còn nhà nhập khẩu nào dám nhập mặt hàng đó nữa.
Ranh giới giữa thuế quan tăng thu ngân sách và thuế quan bảo hộ là khá
mong manh và nhiều khi không thể phân biệt được. Thuế quan tăng thu ngân sách

thuần túy chỉ có thể có khi quốc gia đó không có bất kỳ cơ sở sản xuất, gia công,
chế biến nào có liên quan đến mặt hàng nhập khẩu đó. Ngoài trường hợp này ra thì
các loại thuế quan tăng thu ngân sách không nhiều thì ít đều có tính chất bảo hộ cho
sản xuất trong nước, ngoài chức năng tăng thu cho ngân sách, nhưng tính chất bảo
hộ không rõ nét như ở thuế quan bảo hộ.
2. Vai trò của thuế nhập khẩu hàng hóa
Đánh thuế nhập khẩu sẽ tác động làm tăng giá hàng nhập khẩu và giá của
mặt hàng tương tự sản xuất trong nước từ đó gây ảnh hưởng đến tổng cung, tổng
cầu của nhiều loại sản phẩm được mua bán trên thị trường. Quy mô đầu tư vì thế
cũng sẽ thay đổi và gây tác động đến mô hình tăng trưởng của cả nền kinh tế. Qua
đó, có thể khẳng định được chính sách thuế nhập khẩu là vô cùng quan trọng trong
chính sách ngoại thương. Vai trò quan trọng của chính sách thuế nhập khẩu được
thể hiện cụ thể như sau:
a) Kiểm soát hàng hóa nhập khẩu
Khi mở cửa thị trường, vì mục tiêu lợi nhuận nên hoạt động mua bán hàng
hóa, dịch vụ có thể diễn ra ở bất cứ nơi nào và với bất cứ loại hàng hóa gì. Trong
nhiều trường hợp, mở cửa thị trường không kiểm soát có thể dẫn tới tình trạng nhập
khẩu hàng hóa một cách ồ ạt, dẫn đến cán cân thương mại bị thâm hụt nghiêm

3

trọng. Do đó để đảm bảo lợi ích cho đất nước thuế nhập khẩu đã được nhiều nước
sử dụng như là một công cụ hữu hiệu để kiểm soát hàng nhập khẩu. Thuế nhập khẩu
được áp đặt với những mức khác nhau trên cơ sở thuế suất cao đối với những mặt
hàng hạn chế nhập khẩu và mức thuế suất thấp đối với những mặt hàng khuyến
khích nhập khẩu. Từ đó, góp phần kiểm soát lượng hàng hóa nhập khẩu đồng thời
ổn định thị trường trong nước.
b) Bảo vệ và phát triển sản xuất trong nước
Giảm thuế nhập khẩu hàng hóa là “đầu vào” của quá trình sản xuất và một số
những mặt hàng tiêi dùng sẽ góp phần phát triển sản xuất trong nước. Việc đánh

thuế nhập khẩu thấp đối với hàng hóa là tư liệu sản xuất, nguyên vật liệu sẽ làm
giảm giá cả đầu vào, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đổi mới công nghệ từ đó
giảm giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm cũng như là sức cạnh tranh về sản
phẩm và giá trên thị trường quốc tế. Còn khi nhà nước đánh thuế nhập khẩu thấp
đối với một mặt hàng tiêu dùng nào đó tức là khuyến khích nhập khẩu mặt hàng đó,
người tiêu dùng sẽ có cơ hội tiêu dùng sản phẩm nhập khẩu với giá rẻ, chất lượng
cao và đó cũng là động lực giúp các doanh nghiệp trong nước phải cải tiến công
nghệ, chất lượng sản phẩm, mẫu mã, hạ giá thành sản phẩm để tăng khả năng cạnh
tranh với hàng nhập khẩu.
Mặt khác thuế nhập khẩu còn là công cụ được nhà nước sử dụng để bảo vệ
sản xuất trong nước. Thông thường để bảo vệ sản xuất trong nước thì thuế nhập
khẩu hay được quy định ở mức cao nhằm đẩy giá hàng hóa nhập khẩu lên cao góp
phần hạn chế lường tiêu dùng hàng nhập khẩu đồng thời trong điều kiện đó hàng
sản xuất trong nước sẽ có điều kiện cạnh tranh hơn hàng nhập khẩu nhờ giá thành
hạ so với hàng nhập khẩu. Việc áp dụng thuế nhập khẩu vảo hộ là vô cùng quan
trọng trong quá trình phát triển của các nước đặc việt đối với các mặt hàng chủ lực,
xương sống của nền kinh tế khi đang ở giai đoạn phát triển ban đầu.
Tuy nhiên, trong điều kiện hội nhập kinh tế khu vực và kinh tế quốc tế hiện
nay thì vai trò bảo hộ của thuế nhập khẩu sẽ vị hạn chế do phải thưch hiện các cam
kết trong khu vực mà phần lớn là phải giảm thuế đếm mứ tối thiểu. Hơn nữa, nếu
chúng ta quá nhấn mạnh vào vai trò bảo hộ của thuế nhập khẩu đối với các ngành
sản xuất trong nước sẽ có thể dẫn tới tình trạng tiêu cực là không những không thực
hiện được đường lối chính sách đối ngoại của nhà nước trong bối cảnh mới mà còn
làm cho nền sản xuất trong nước thiếu cơ hội cạnh tranh quốc tế dẫn đến việc các
doanh nghiệp được bảo hộ trở nên ỷ lại, sản xuất kém phát triển.
c) Là nguồn thu cho ngân sách nhà nước
Tại Việt Nam nguồn thu cho ngân sách nhà nước chủ yếu là các loại thuế mà
theo quốc hội khóa 8 thông qua thì có 8 loại thuế chính và lệ phí. Trong đó thì thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu là nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước do chúng ta vẫn
cần thực hiện chính sách bảo hộ sản xuất trong nước.


4

d) Thuế nhập khẩu góp phần thực hiện chính sách đối ngoại của nhà
nước
Với tầm nhìn chiến lược, xác định rõ tình hình và xu thế thế giới, trên cơ sở
yêu cầu phát triển của đất nước, Đại hội Đảng 8 đã khẳng định chính sách đối ngoại
của ta trong thời gian tới: “xây dựng một nền kinh tế mở”,”đẩy nhanh quá trình hội
nhập kinh tế khu vực và thế giới”. Tuy nhiên, việc thực hiện những cam kết cơ bản
sao cho phù hợp với thông lệ quốc tế trong đó cam kết về giảm thuế nhập khẩu lại
chiếm một phần cơ bản và vô cùng quan trọng. Do đó thực hiện thành công các cam
kết về giảm thuế nhập khẩu trong quá trình hội nhập cũng chính là yếu tố góp phần
thực hiện thành công chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước đã đề ra
e) Thuế nhập khẩu góp phần hướng dẫn tiêu dùng
Người tiêu dùng là lực lượng lớn nhất trong xã hội,với họ luôn tìm mọi cách
để mua được những hàng hóa rẻ với chất lượng cao. Chính vì vậy đánh thuế nhập
khẩu sẽ tác động vào giá cả cà cũng sẽ góp phần hướng dẫn tiêu dùng. Đối với
những mặt hàng thiết yếu cho đời sống người dân, những mặt hàng nâng cao đời
sống văn hóa tinh thần của nhân dân thì mức thuế sẽ được áp dụng thấp để khuyến
khích tiêu dùng. Còn ngược lại, đối với những mặt hàng không thiết yếu, không phù
hợp với mức sống của nhân dân như: rượu, thuốc lá, …mức thuế nhập lhaaur áp
dụng sẽ rất cao để hạn chế tiêu dùng.
f) Thuế nhập khẩu góp phần tiết kiệm ngoại tệ
Việt Nam là một nước đang phát triển vì thế chúng ta rất cần nguồn ngoại tệ
phục vụ nhập khẩu. Có nhiều cách để phát huy được nguồn ngoại tệ trong đó Nhà
nước cũng sử dụng thuế nhập khẩu như một công cụ hữu hiệu góp phần quản lý
ngoại tệ. Đối với những mặt hàng trong nước không sản xuất được hay quản lý
không hiệu quả Nhà nước áp dụng mức thuế thấp để khuyến khích nhập khẩu. Còn
ngược lại đối với những mặt hàng nước ta đã sản xuất có hiệu quả và đối với những
mặt hàng tiêu dùng không thiết yếu dễ gây ra lãng phí ngoại tệ thì Nhà nước đánh

thuế với mức cao để hạn chế nhập khẩu.
B. Đánh giá tác động của việc thực hiện những cam kết về thuế nhập
khẩu khi Việt Nam gia nhập WTO
1. Sơ lược về tổ chức Thương Mại thế giới WTO
Việt Nam đã chính thức gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO vào
ngày 7 tháng 11 năm 2006.Đến ngày 23 tháng 8 năm 2008,tổ chức thương mại thế
giới đã có 153 thành viên và chiếm khoảng 95% tổng giá trị thương mại thế giới.
WTO có những yêu cầu rất vao về minh bạch hóa các qui định thương mại, về cắt
giảm thuế quan nhập khẩu, tiến tới xóa bỏ thuế quan, tự do hóa thương mại hàng
hóa, dịch vụ đầu tư, sở hữu trí tuệ, về thực hiện qui chế tối huêh quốc hay thương

5

mại bình thường, xóa bỏ biện pháp phi thuế quan như hạn ngạch, giấy phép xuất,
nhập khẩu, trợ cấp xuất khẩu và về thực hiện các biện pháp đầu tư có liên quan đến
thương mại như không vi phạm nguyên tắc đãi ngộ quốc gia nhằm thu hút đầu tư
nước ngoài, tăng cường xuất khẩu hàng hóa và nâng cao khả năng phát triển kinh
tế… Tổng cộng khi hội nhập WTO các quốc gia sẽ phải tuân thủ một hệ thống các
luật lệ, qui tắc nhằm điều chỉnh hầu hất các lĩnh vực thương mại quốc tế với tổng
cộng khoảng 60 hiệp định, phụ lục và các văn bản giải thích.
Tham gia vào WTO sẽ mang lại cho các quốc gia nhiều cơ hội lớn về mở
rộng thị trường xuất-nhập khẩu, tiếp nhận hàng hóa dịch vụ, công nghệ, kỹ thuật
quản lý… Mặt khác, nếu chuẩn bị không tốt thì quốc gia đó có thể chịu nhiều tổn tất
thương mại nặng nề do tình trạng nhập siêu , chấn động thị trường, tình trạng phá
sản gia tăng…Bởi vậy, kinh nghiệm nhiều nước cho thấy cần phải chủ động tích
cực chuẩn bị đi đôi với thận trọng có cân nhắc lộ trình thích hợp và khai thác tối đa
các ưu đãi giành cho các nền kinh tế đang phát triển khi hội nhập WTO.
2. Các nguyên tắc, nội dung cam kết về thuế nhập khẩu hàng hóa khi gia
nhập WTO
a) Các nguyên tắc

 Nguyên tắc không phân biệt đối xử
Đây là nguyên tắc bao trùm nhất của WTO và được áp dụng như một nguyên
tắc cơ bản trong mậu dịch khu vực và các hiệp định thương mại song phương.
Nguyên tắc này thể hiện dưới hai dạng đó là nguyên tắc tối huệ quốc và nguyên tắc
đãi ngộ quốc gia (NT).
Thứ nhất, nguyên tắc tối huệ quốc (MFN) là quy chế mà một nước dành cho
một nước khác các điều kiện đối xử tốt nhất trong quan hệ thương mại, nghĩa là
nước được hưởng MFN phải được hưởng tất cả những ưu đãi về các mặt như thuế
quan, mặt hàng, điều kiện thương mại, quyền lợi pháp nhân,… mà quốc gia áp dụng
MFN dành cho bất kỳ nước thứ ba khác. Ví dụ: nếu Hoa Kỳ áp dụng MFN đối với
Việt Nam thì giả sử Hoa Kỳ có chính sách giảm thuế nhập khẩu đồ len dạ Australia
từ 20% xuống 10%, điều đó có nghĩa là Việt Nam cũng được hưởng chính sách ưu
đãi đó.
Điều I của Hiệp định chung về thuế quan và thương mại ghi rõ: MFN phải
được coi là nguyên tắc cơ bản đầu tiên trong quan hệ thương mại quốc tế: “Với mọi
khoản thuế quan và khoản thu thuộc bất cứ loại nào nhằm vào hay có liên hệ tới
nhập khẩu và xuất khẩu… hoặc phương thức đánh thuế, hoặc thủ tục xuất nhập
khẩu…mọi lợi thế, biệt đãi, đặc quyền hay quyền miễn trừ được bấy kỳ bên ký kết
nào dành cho bất cứ một sản phẩm có xuất xứ từ hay được giao tới bất kỳ một nước
nào khác sẽ được áp dụng cho sản phẩm tương tự xó xuất xứ từ hay giao tới mọi
bên ký kết khác ngay lập tức và không điều kiện”.
MFN hiện nay được áp dụng tự động giữa các thành viên WTO hoặc cùng là
thành viên của một số tổ chức khu vực.

6

Một vấn đề quan trọng nữa là MFN chỉ áp dụng đối với “sản phẩm tương
tự”. Điều XV: 2 – Hiệp định về xác định trị giá tính thuế hải quan của WTO đưa ra
những quy tắc để xác định hàng hóa là “giống hệt nhau” hoặc “tương tự nhau”.
Hàng hóa là “giống hệt nhau” nếu chúng giống nhau về mọi mặt, kể cả các đặc tính

vật lý, chất lượng và danh tiếng. Hàng hóa “tương tự nhau” nếu chúng gần giống
với hàng hóa đang được xác định trị giá về thành phần, vật liệu và các đăc điểm,
bên cạnh đó, chúng có thể thực hiện những chức năng giống nhau và có thể thay thế
nhau về mặt thương mại. Tuy nhiên, thực tiễn giải quyết tranh chấp trong khuôn
khổ WTO cho thấy việc giải thích thế nào là “sản phẩm tương tự” không đề đơn
giản.
Tùy theo cách thức áp dụng MFN, người ta thường phân biệt các hình thức
sau: loại không điều kiện (kiểu châu Âu); MFN đa phương (nhiều nước áp dụng lẫn
nhau); MFN không hạn chế và có hạn chế (thường hạn chế ở mặt hàng hay lĩnh vực
áp dụng).
Trong những năm gần đây, Việt Nam rất quan tâm đến quy chế MFN trong
quan hệ kinh tế quốc tế. Từ ngày 11/01/2007, khi trở thành thành viên chính thức
của WTO Việt Nam được hưởng MFN đồng thời việc áp dụng MFN cho tất cả các
thành viên WTO mang tính bắt buộc.
Thứ hai, nguyên tắc đối xử quốc gia(NT): là nguyên tắc quan trọng được quy
định trong nhiều hiệp định thương mại song phương và đa phương. Nguyên tắc này
đòi hỏi những sản phẩm nước ngoài và nhiều khi cả các nhà cung cấp nước ngoài
được đối xử trên thị trường nội địa ngang bằng với sản phẩm nội địa cùng loại và
các nhà cung cấp nội địa.Trên thực tế, việc áp dụng nguyên tắc đối xử quốc gia
thường gây nên những tranh cãi phức tạp do cách hiểu và giải thích cụ thể về chế độ
này có thể rất khác nhau.
Nguyên tắc này cũng có những ngoại lệ quan trọng đối với hàng hóa mậu
dịch biên giới, hàng hóa do chính phủ mua…
Trong thời gian trước khi trở thành thành viên của WTO, nguyên tắc đối xử
quốc gia để bảo vệ sản xuất nội địa hoặc thực hiện một số mục đích khác trong các
lĩnh vực như: áp dụng thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế VAT, trong chính sách đầu tư
nước ngoài, chính sách thương mại dịch vụ. Nhưng kể từ khi gia nhập WTO, theo
lộ trình cam kết thì những chính sách này sẽ bị bãi bỏ.
 Nguyên tắc công khai minh bạch
Nguyên tắc này được thực hiện nhằm bảo đảm cho môi trường chính sách

kinh tế nói chung, chính sách thương mại và đầu tư quốc tế nói riêng ổn định và có
thể dự đoán được. Hoạt động thương mại và đầu tư quốc tế chịu sự phụ thuộc rất
lớn vào chính sách kinh tế của các quốc gia. Nếu chính sách không ổn định hoặc
không thể dự đoán được sẽ làm gia tăng rủi ro trong hoạt động kinh tế, do vậy gây
thiệt hại cho các bạn hàng nước ngoài. Nguyên tắc này đòi hỏi:
Chính sách thương mại, đầu tư quốc tế và các chính sách liên quan khác phải
được soạn thảo và thực hiện theo quy trình dân chủ, có sự tham gia của các chủ thể
liên quan.

7

Phải có lộ trình soạn thảo chính sách.
Khi ban hành phải có thời gian để chuẩn bị thực hiện.
Phải có những biện pháp bảo đảm đầu tư phù hợp, trong đó đặc biệt quan
trọng là cơ chế bảo hộ đầu tư và cơ chế tránh đánh thuế hai lần.
 Nguyên tắc có đi có lại và tôn trọng những cam
kết quốc tế về thuế
Đây là nguyên tắc mang tính thông lệ trong quan hệ kinh tế quốc tế. Nguyên
tắc này đòi hỏi các quốc gia trong quan hệ kinh tế quốc tế phải dành cho nhau
những ưu đãi và nhượng bộ tương xứng nhau. Sự nhượng bộ tương xứng này tạo
nên cân bằng ưu đãi giữa các quốc gia, và là nền tảng cho quan hệ kinh tế quốc tế
bền vững. Đó là biểu hiện của nguyên tắc có đi có lại theo hướng thiện chí. Bên
cạnh đó, trong thực tiễn quan hệ kinh tế quốc tế, nguyên tắc có đi có lại còn được
biểu hiện theo hướng không thiện chí, được gọi là trả đũa thương mại.
Theo quy định của WTO, biện pháp trả đũa thương mại chỉ được coi là hợp
pháp nếu biện pháp này được thực hiện trên cơ sở phán quyết của cơ quan giải
quyết tranh chấp của WTO.
 Nguyên tắc tự do hóa và ràng buộc cắt giảm về
thuế quan
Nhìn chung WTO hay các tổ chức kinh tế không đòi hỏi việc tự do hóa một

cách nhanh chóng mà yêu cầu các nước thành viên tạo điều kiện dễ dàng cho quá
trình đàm phán thương mại nhằm mục đích tự do hóa thông qua việc giảm cơ bản
mặt hàng cơ bản nói chung và các khoản chi phí đối với xuất-nhập khẩu hàng hóa,
đặc biệt là giảm mức thuế suất cao đối với hàng hóa nhập khẩu. Đây là một yếu tố
quan trọng mang tính nền tảng trong thương mại quốc tế. Những nhượng bộ về thuế
quan trong những cuộc đàm phán có thể là các cam kết giảm thuế hay khống chế
mức thuế trần.
 Nguyên tắc bảo hộ phòng ngừa bất trắc
Hiệp định thương mại của WTO qui định về vấn đề bảo hộ phòng ngừa trong
những trường hợp có bất trắc. Những qui định này cho phép các nước thành viên
được sử dụng hành động tự vệ trong một số những trường hợp đặc biệt như các
trường hợp khẩn cấp về bảo hộ cho nền công nghiệp trong nước nếu việc tăng
lượng hàng nhập khẩu có thể đe dọa hoặc gây tổn hại nghiêm trọng cho các nhà sản
xuất trong nước. Trường hợp có các hoạt động bán phá giá, hoặc nước xuất khẩu áp
dụng các biện pháp trợ cấp mà không được phép. Căn cứ vào đó, các biện pháp có
thể áp dụng là nâng cao mức thuế quan, ban hành các loại thuế chống bán phá giá,
thuế đối kháng, thực hiện phụ thu đối với hàng nhập khẩu, hoặc những qui định về
hạn chế định lượng.
b) Các cam kết về thuế nhập khẩu của Việt Nam khi gia nhập WTO

8

Bộ tài chính đã công bố toàn bộ các cam kết về thuế quan của Việt Nam
trong Tổ chức thương mại thế giới. Theo đó, Việt Nam cam kết ràng buộc với toàn
bộ biểu thuế nhập khẩu hiện hành với 10.600 dòng thuế. Những điểm chính trong
cam kết về thuế quan khi là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới khái quát
như sau:
Một là, thuế suất bình quân giảm 23%.
Với việc thực hiện cam keeurt về thuế quan theo các văn bản đàm phán khi
Việt Nam gia nhập WTO, thuế suất cam kết cuối cùng có mức bình quân giảm đi

23% so với mức thuế bình quân hiện hành(thuế suất MFN) của biểu thuế (từ 17,4 %
xuống còn 13,4%) . Tuy nhiên, chúng ta sẽ có một thời gian để thực hiện lộ trình
này từ 5 đến 7 năm.
Trong toàn bộ biểu cam kết, Việt Nam sẽ cắt giảm thuế với khoảng 3.800
dòng thuế (chiếm 35,5 % số dòng của biểu thuế); ràng buộc ở biểu thuế hiện hành
với khoảng 3.700 dòng(chiếm 34,5% số dòng của biểu thuế); ràng buộc với mức
thuế trần- cao hơn mức thuế suất hiện hành với 3.170 dòng thuế(chiếm 30% số
dòng của biểu thuế), chủ yếu là đối với các nhóm hàng như xăng dầu, kim loại, hóa
chất, một số phương tiện vận tải.
Một số mặt hàng đang có thuế suất cao từ trên 20%,30% sẽ được cắt giảm
khi gia nhập. Những nhóm mặt hàng có cam kết cắt giảm thuế nhiều nhất bao gồm:
dệt may, cá và sản phẩm cá, gỗ và giấy, hàng chế tạo khác, máy móc thiết bị điện-
điện tử.
Hai là, vẫn áp dụng cơ chế hạn ngạch đối với 4 mặt hàng nông nghiệp.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, mức cam kết bình quân là 25,2% vào thời điểm
gia nhập và 21% sẽ là mức cắt giảm cuối cùng. So sánh với mức thuế MFN bình
quân đối với lĩnh vực nông nghiệp hiện nay là 23,5% thì mức cắt giảm đi sẽ là 10%.
Việt Nam sẽ được áp dụng cơ chế hạn ngạch đối với 4 mặt hàng bao gồm:
trứng, đường, thuốc lá, muối.Đối với 4 mặt hàng này, mức thuế trong hạn ngạch
tương đương mức thuế MFN hiện hành(trứng 20%, đường thô 25%, đường tinh 50-
60%, thuốc lá 30%, muối ăn 30%), thấp hơn nhiều so với mức thuế ngoài hạn
ngạch.
Ba là, đối với lĩnh vực công nghiệp, mức cam kết bình quân vào thời điểm
gia nhập là 16,1%, và nức cắt giảm cuối cùng là 12,6%. So sánh với mức thuế MFN
bình quân của hàng công nghiệp hiện nay là 16,6% thì mức cắt giảm đi sẽ là 23,9%.
Áp dụng thuế suất 0% các sản phẩm điện tử.
Đối với những cam kết đấy đủ thuộc Hiệp định tự do hóa theo ngành bao
gồm: sản phẩm công nghệ thông tin(ITA), dệt may, thiết bị y tế và những ngành mà
Việt Nam tham gia một phần là thiết bị máy bay, hóa chất và thiết bị xây dựng thời
gian để thực hiện cam kết giảm thuế sẽ được thực hiện từ 3 đến 5 năm.

Trong các hiệp định trên, tham gia ITA là quan trọng nhất, theo đó khoảng
330 dòng thuế thuộc diện công nghệ thông tin sẽ phải có thuế suất 0% sau 3 đến 5
năm.
Sau đây là Bảng tổng hợp cam kết thuế theo ngành:

9

Bảng I- Mức thuế cam kết bình quân theo nhóm ngành hàng chính
Nhóm mặt hàng
Thuế suất cam kết tại thời
điểm gia nhập WTO(%)
Thuế suất cam kết cắt giảm
cuối cùng cho WTO(%)
1. Nông sản 25,2 21,0
2. Cá, sản phẩm cá 29,1 18,0
3. Dầu khí 36,8 36,6
4. Gỗ, giấy 14,6 10,5
5. Dệt may 13,7 13,7
6. Da, cao su 19,1 14,6
7. Kim loại 14,8 11,4
8. Hóa chất 11,1 6,9
9. Thiết bị vận tải 46,9 37,4
10. Máy móc thiết bị cơ
khí
9,2 7,3
11. Máy móc thiết bị điện 13,9 9,5
12. Khoáng sản 16,1 14,1
13. Hàng chế tạo khác 12,9 10,2
Cả biểu thuế 17,2 13,4
Bảng 2- Cam kết cắt giảm thuế nhập khẩu theo một số nhóm mặt hàng chính

STT Mặt hàng
Thuế suất
MFN(%)
Cam kết với WTO
Thuế suất
khi gia
nhập(%)
Thuế suất
cuối
cùng(%)
Thời hạn
thực hiện
1 Một số sản phẩm nông nghiệp
Thịt bò 20 20 14 5 năm
Thịt lợn 30 30 15 5 năm
Sữa nguyên liệu 20 20 18 2 năm
Sữa thành phẩm 30 30 25 5 năm
Thịt chế biến 50 40 22 5 năm

10

×