Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

SKKN Một số giải pháp giúp học sinh dân tộc hình thành kĩ năng tổ chức lớp học tự quản, tự học theo mô hình trường tiểu học kiểu mới (VNEN)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.91 KB, 27 trang )

MỤC LỤC
Mục

Nội dung

Trang

Mở đầu

3

Lí do chọn đề tài

3

1.1

Cơ sở lý luận

3

1.2

Cơ sở thực tiễn

4

Giới hạn đề tài (phạm vi nghiên cứu và thực hiện)

7


Nội dung

8

Thực trạng của công tác tổ chức lớp học tự quản, tự học

8

1.1

của học sinh dân tộc
Tìm hiểu về công tác tổ chức lớp học tự quản

8

1.2

Đặc điểm học sinh dân tộc và vùng miền

10

1.3

Thực trạng tự quản của học sinh

11

1.4

Thực trạng tự học của học sinh


12

13

2.1

Một số giải pháp giúp học sinh dân tộc hình thành kĩ năng
tổ chức lớp học tự quản Theo Mô hình trường tiểu học
kiểu mới (GPE – VNEN)
Kết quả khảo sát đầu năm học

2.2

Những giải pháp cần thực hiện ngay khi bước vào năm

15

1

2

1

2

13

học mới
2.2.1


Rèn thói quen và dần hình thành kĩ năng tự quản tự học

15

2.2.2

Thực hiện lặp lại liên tục các hoạt động tự quản trong tổ chức lớp

17

2.2.3

Khuyến khích học sinh tham gia tự quản thông qua các

17

2.3

hoạt động giáo dục
Những giải pháp cần thực hiện trong cả quá trình dạy học

19

2.3.1

Rèn kĩ năng đọc hiểu

19


2.3.2

Rèn kĩ năng giao tiếp

19

2.3.3

Thường xuyên tổ chức các chuyên đề thảo luận về cách rèn

20

1


kĩ năng tự quản tự học cho học sinh
Vận động sự tham gia của cộng đồng

20

Một số giải pháp khác góp phần rèn luyện kĩ năng tự quản,

21

tự học
Những kết quả đạt được

23

Kết luận


26

1

Hiệu quả mang lại khi thực hiện đề tài

26

2

Ý nghĩa của đề tài

27

2.3.4
2.4
3

CẤU TRÚC ĐỀ TÀI
* Phần mở đầu

(Gồm 05 trang)

* Phần nội dung
1. Thực trạng của công tác tổ chức lớp học tự quản, tự học của học sinh
dân tộc:

(Gồm 05 trang)


2. Một số giải pháp giúp học sinh dân tộc hình thành kĩ năng tổ chức lớp
học tự quản Theo Mô hình trường tiểu học kiểu mới (GPE – VNEN)
(Gồm 10 trang)
3. Những kết quả đạt được: (Gồm 03 trang)
* Phần kết luận

(Gồm 02 trang)

CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG ĐỀ TÀI
GPE-VNEN:

Global Partnership for Education – Viet Nam Escuela Nueva

GD&ĐT:

Giáo dục và đào tạo

GV:

Giáo viên

HS:

Học sinh
MỞ ĐẦU
2


1. Lí do chọn đề tài:
1.1. Cơ sở lý luận:

Mô hình trường tiểu học kiểu mới GPE-VNEN (Global Partnership
for Education – Viet Nam Escuela Nueva) đã được triển khai thí điểm tại một
số đơn vị trường tiểu học. Đối với học sinh các vùng thuận lợi thì mô hình
dạy học này bộc lộ tính ưu việt rõ ràng, và có thể nói đó là sự đổi mới dạy
và học phù hợp với sự phát triển hiện nay của xã hội. Dự án Mô hình
trường học mới tại Việt Nam (GPE-VNEN) là một Dự án về sư phạm nhằm xây
dựng và nhân rộng một kiểu mô hình nhà trường tiên tiến, hiện đại, phù hợp với
mục tiêu phát triển và đặc điểm của giáo dục Việt Nam.
Mô hình trường học mới khởi nguồn từ Côlômbia từ những năm 1995 2000 để dạy học trong những lớp ghép ở vùng miền núi khó khăn, theo nguyên
tắc lấy học sinh làm trung tâm. Mô hình này vừa kế thừa những mặt tích cực của
mô hình trường học truyền thống, vừa có sự đổi mới căn bản về mục tiêu đào
tạo, nội dung chương trình, tài liệu học tập, phương pháp dạy – học, cách đánh
giá, cách tổ chức quản lí lớp học cơ sở vật chất phục vụ cho dạy – học.
Phương pháp dạy và học theo mô hình VNEN: Coi quá trình
tự học của học sinh là trung tâm của hoạt động giáo dục, giáo
viên là người hướng dẫn, đồng hành với học sinh, giúp học sinh tự
tìm hiểu và lĩnh hội kiến thức. Dự án Mô hình trường học mới
VNEN tại Việt Nam được triển khai thử nghiệm trên diện rộng từ
năm học 2012 - 2013.
Ưu điểm của mô hình này đối với học sinh: Đây là mô hình
nhà trường tiên tiến, hiện đại, phù hợp với mục tiêu phát triển
và đặc điểm của giáo dục nước ta. Các phòng học dạy theo mô
hình VNEN được bố trí giống như phòng học bộ môn, thư viện
năng động với đồ dùng dạy và học sẵn có để học sinh tham
khảo; góc đồ dùng học tập, góc cộng đồng, góc trưng bày sản
phẩm... Mô hình VNEN thực hiện đổi mới phương pháp dạy học
theo nguyên tắc lấy học sinh làm trung tâm, học tập mang tính
3



tương tác và phù hợp với từng cá nhân học sinh; chuyển việc
truyền thụ của giáo viên thành việc hướng dẫn học sinh tự học.
Lớp học do học sinh tự quản và được tổ chức theo các hình thức,
như: Làm việc theo cặp, làm việc cá nhân và làm việc theo
nhóm, trong đó hình thức học theo nhóm là chủ yếu. Học sinh
được học trong môi trường học tập thân thiện, thoải mái, không
bị gò bó, luôn được gần gũi với bạn bè, với thầy cô, được sự
giúp đỡ của bạn học trong lớp, trong nhóm và thầy cô, phù hợp
với tâm sinh lý lứa tuổi các em. Học sinh khá giỏi được phát
huy, học sinh còn hạn chế, yếu kém được học sinh của nhóm và
giáo viên giúp đỡ kịp thời ngay tại lớp.
Quản lý lớp học là “Hội đồng tự quản học sinh” do các em
bầu ra và đảm nhiệm, đây là một biện pháp giúp học sinh được
phát huy quyền làm chủ quá trình học tập. Học sinh còn có điều
kiện hiểu rõ quyền và trách nhiệm trong môi trường giáo dục,
được rèn luyện các kỹ năng lãnh đạo, kỹ năng tham gia, kỹ
năng hợp tác trong các hoạt động; đồng thời, xây dựng không
gian lớp học với “Góc học tập”, “Góc cộng đồng”, “Thư viện lớp
học”, mở nhiều “hòm thư vui”, hòm thư “Điều em muốn nói”
cũng như trang trí lớp học, tạo ra môi trường giáo dục thân
thiện, an toàn.
Tài liệu dạy và học được thiết kế, biên soạn rất phù hợp để
học sinh có thể tự đọc, tự tìm hiểu tiếp cận kiến thức trong mỗi
giờ học tại lớp dưới sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên và tổ
chức học tập của nhóm.
Học tập theo mô hình VNEN giúp học sinh phát huy tích cực
tính tự học, sáng tạo, tính tự giác, tự quản, sự tự tin, hứng thú
trong học tập. Đây là phương pháp dạy học mới, giúp các em
phát huy tốt các kỹ năng như: Kỹ năng giao tiếp, kỹ năng hợp tác,
kỹ năng tự đánh giá lẫn nhau trong giờ học. Cách thức tổ chức lớp

4


học cũng khác hơn so với cách thức dạy học truyền thống, lớp học
được bố trí, tổ chức ngồi học theo nhóm, ngồi quay mặt vào nhau
để cùng trao đổi và tự học.
1.2. Cơ sở thực tiễn:
Năm học 2012 – 2013 mô hình trường tiểu học kiểu mới (GPEVNEN) đã được triển khai thí điểm tại 1147 trường tiểu học trên cả nước, ở
tỉnh Điện Biên là 68 trường và ở huyện Điện Biên Đông được thí điểm tại
08 trường tiểu học. Năm học 2014 – 2015 ngoài những trường đang tham
gia thí điểm đã có thêm rất nhiều trường tổ chức dạy và học nhân rộng theo
mô hình này đối với học sinh lớp 2, 3, 4 và 5. Qua ba năm triển khai
Dự án dạy theo mô hình VNEN, giáo viên và học sinh đã dần
thích nghi với môi trường học tập này, đã đạt hiệu quả tương
đối tốt. Bởi đây phương pháp dạy học theo nguyên tắc lấy
học sinh làm trung tâm, học tập mang tính tương tác và phù
hợp với từng cá nhân học sinh; chuyển việc truyền thụ của
giáo viên thành việc hướng dẫn học sinh tự học. Lớp học do
học sinh tự quản và được tổ chức theo các hình thức như:
Làm việc theo cặp, làm việc cá nhân và làm việc theo nhóm,
trong đó hình thức học theo nhóm là chủ yếu. Do vậy học
sinh cơ bản đã thay đổi thói quen học tập, các em tự nghiên
cứu tìm hiểu kiến thức trong bài và qua tài liệu. Những kiến
thức khó, các em trao đổi với bạn trong nhóm và mạnh dạn
trao đổi vướng mắc với giáo viên. Qua đó, tạo điều kiện
thuận lợi để các em phát huy tính độc lập, chủ động tiếp thu
kiến thức và hiểu sâu sắc các kiến thức trong bài học; rèn
luyện cho các em được nhiều kỹ năng sống, kỹ năng tập thể
trong cách hoạt động học theo nhóm. Môi trường học thoải
mái, các em rất hào hứng tham gia các bài học.

Mỗi tiết học không có áp lực đối với các em. Học sinh được
hình thành thói quen làm việc trong môi trường tương tác, được
5


học hỏi bạn để tự hoàn thiện, luôn có ý thức được mình phải bắt
đầu và kết thúc hành động như thế nào, không chờ đến sự nhắc
nhở của giáo viên, tránh sự thụ động trong dạy và học, góp
phần đẩy mạnh sự phát triển trong công tác giáo dục của
trường.
Ban giám hiệu nhà trường, giáo viên chủ nhiệm sẽ đánh
giá kết quả học tập của học sinh theo các tiêu chuẩn như: đánh
giá hoạt động học tập, sự tiến bộ và kết quả học tập của học
sinh theo chuẩn kiến thức, kỹ năng và hoạt động theo từng môn
học; đánh giá sự hình thành và phát triển năng lực chung của
học sinh như: tự phục vụ, tự quản, giao tiếp, hợp tác, tự học và
giải quyết vấn đề; đánh giá sự hình thành, phát triển các phẩm
chất của học sinh về các chủ đề: Yêu quê hương, đất nước, yêu
cha mẹ và gia đình, yêu trường lớp và bạn bè, yêu con người; sự
tự tin, tự trọng, tự chịu trách nhiệm, trung thực, kỷ luật, chăm
học, chăm làm, thích hoạt động nghệ thuật, thể thao.
Để Mô hình dạy học VNEN đạt hiệu quả các trường học phải
làm tốt công tác tuyên truyền đến phụ huynh và nhân dân, đặc
biệt là cha mẹ học sinh có con học Dự án mô hình trường học
mới VNEN, nắm rõ chủ trương thử nghiệm Dự án của Bộ GD&ĐT,
nắm được cơ bản cách thức tổ chức giảng dạy và học tập theo
mô hình này. Đặc biệt, mô hình trường học mới VNEN chỉ áp
dụng được cho học sinh từ lớp 2, điều quan trọng là ngay từ lớp 2
học sinh có đọc thông viết thạo mới tự đọc, tự học theo tài liệu,
sách hướng dẫn; chỉ cần đọc kém, viết kém thì không học được

theo mô hình này, do vậy các trường tiểu học phải đặc biệt quan
tâm đến học sinh lớp 1, dạy học đảm bảo theo chuẩn kiến thức
kỹ năng, chú ý đến việc học xong lớp 1 học sinh phải đọc thật
thông, viết thật thạo thì lên lớp 2 mới học theo mô hình trường
học mới được.
6


Các trường có Dự án, ngoài kinh phí đầu tư của Dự án, sách
vở cấp đến học sinh, giáo viên… các trường phải tham mưu cho
địa phương quan tâm đầu tư thêm cơ sở vật chất cho các lớp học
theo Dự án. Các bậc cha mẹ học sinh cần quan tâm đến điều kiện
học tập tại lớp của con em mình, thường xuyên chia sẻ cùng con
em mình trong học tập, vui chơi, trong cuộc sống của trẻ. Tổ chức
bồi dưỡng cho giáo viên tham gia dự án về chuyên môn nghiệp
vụ, cách thức tổ chức lớp học theo mô hình, cách đánh giá kết
quả học sinh theo tổ nhóm chuyên môn, theo từng trường và theo
cụm trường, tăng cường dự giờ thăm lớp, trao đổi học tập kinh
nghiệm lẫn nhau để áp dụng phương pháp dạy học mới đạt kết
quả cao.
Tuy nhiên khi triển khai thực hiện tại các vùng khó khăn, học sinh
dân tộc vẫn gặp phải không ít khó khăn khách quan mang lại, trong đó
có công tác tổ chức lớp học do học sinh tự quản. Đòi hỏi phải có những
giải pháp cụ thể trong quá trình thực hiện, giúp học sinh từng bước rèn
luyện và hình thành thói quen, kĩ năng tự quản, tự tổ chức học tập.
Nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ năm học và thực hiện chủ trương đổi
mới giáo dục và đào tạo của Đảng và Nhà nước ta, từng bước đổi mới dạy và
học trong nhà trường. Tôi mạnh dạn lựa chọn nghiên cứu đề tài: "Một số giải
pháp giúp học sinh dân tộc hình thành kĩ năng tổ chức lớp học tự quản, tự
học theo Mô hình trường tiểu học kiểu mới (GPE-VNEN)".

2. Giới hạn đề tài (phạm vi nghiên cứu và thực hiện):
Đề tài tập trung nghiên cứu công tác tổ chức lớp học tự quản theo
mô hình trường tiểu học mới của khối lớp 2,3,4 và 5 trong năm học năm
học 2014 - 2015. Áp dụng thực nghiệm tại lớp 2A4 điểm trường Xam Măn
và lớp 4A1 điểm trường Chóp Ly, trường tiểu học Xam Măn xã Keo Lôm
huyện Điện Biên Đông tỉnh Điện Biên.

7


NỘI DUNG
1. Thực trạng của công tác tổ chức lớp học tự quản, tự học của học
sinh dân tộc:
1.1. Tìm hiểu về công tác tổ chức lớp học tự quản, tự học:
Theo mô hình của trường học mới, quản lí lớp học là “Hội đồng tự quản
học sinh”, các “Ban” trong lớp, do học sinh tự nguyện xung phong và được các
bạn tín nhiệm. Sự thành lập cũng như hiệu quả hoạt động của “Hội đồng tự quản
học sinh”, các “Ban” rất cần sự tư vấn, khích lệ, giám sát của giáo viên, phụ
8


huynh, sự tích cực, trách nhiệm của học sinh. “Hội đồng tự quản học sinh” là
một biện pháp giúp học sinh được phát huy quyền làm chủ quá trình học tập,
giáo dục. Học sinh có điều kiện hiểu rõ quyền và trách nhiệm trong môi trường
giáo dục, được rèn các kĩ năng lãnh đạo, kĩ năng tham gia, hợp tác trong các
hoạt động.
Vậy “Hội đồng tự quản học sinh” là gì? Hội đồng tự quản là do học sinh,
với sự hướng dẫn của giáo viên tự tổ chức và thực hiện nhiệm vụ học tập. “Hội
đồng tự quản học sinh” bao gồm các thành viên là học sinh. Hội đồng tự quản
được thành lập là vì học sinh, bởi học sinh và để đảm bảo cho các em tham gia

một cách dân chủ, tích cực vào đời sống học đường; khuyến khích các em tham
gia một cách toàn diện vào các hoạt động của nhà trường, phát triển tính tự chủ,
sự tôn trọng, bình đẳng, tinh thần hợp tác và đoàn kết của học sinh.
Sơ đồ tổ chức bộ máy Hội đồng tự quản học sinh bao gồm: 1 Chủ tịch Hội
đồng tự quản học sinh, 2 hoặc 3 phó Chủ tịch Hội đồng tự quản và các ban tham
gia Hội đồng tự quản (Ban học tập, Ban quyền lợi, Ban sức khoẻ, Ban vệ sinh,
Ban văn nghệ, thể dục, Ban thư viện; Ban đối ngoại…)
Quá trình thành lập Hội đồng tự quản học sinh: Thành lập Hội đồng tự
quản học sinh đòi hỏi phải có sự tham gia của giáo viên, học sinh, khuyến khích
phụ huynh và các tổ chức khác cùng tham gia. Giáo viên cần chuẩn bị về tư
tưởng cho học sinh khi các em tham gia Hội đồng tự quản, những lợi ích có thể
có của Hội đồng tự quản học sinh tới cuộc sống của chính các em trong nhà
trường, những vai trò trách nhiệm mà các em cùng chia sẻ, gánh vác.
(1) Trước bầu cử:
Sau khi hoàn thành bước chuẩn bị về tư tưởng cho học sinh, giáo viên
cùng học sinh thảo luận về cơ cấu Hội đồng tự quản thông thường là 1 chủ tịch,
2 phó chủ tịch. Tuy nhiên số lượng phó chủ tịch tuỳ vào đặc điểm của mỗi lớp,
trường học khác nhau. Học sinh, dưới sự định hướng của giáo viên trao đổi về
những phẩm chất, năng lực cần có của các bạn trong Hội đồng tự quản. Sau đó
học sinh lập danh sách ứng cử và danh sách đề cử để bỏ phiếu bầu Hội đồng tự
quản học sinh. Ban kiểm phiếu cũng là học sinh, bao gồm trưởng ban và một số
9


thành viên khác, dưới sự hướng dẫn của giáo viên tiến hành kiểm phiếu. Các học
sinh trong danh sách ứng cử, đề cử sẽ có thời gian để chuẩn bị phần ứng cử của
mình với nội dung: Giới thiệu về bản thân, những mong muốn của em về lớp
học, những việc em sẽ làm nếu như em trở thành Chủ tịch Hội đồng tự quản.
Đây là một hoạt động nhằm tạo điều kiện cho học sinh được cảm thấy dân chủ,
công bằng, bình đẳng và được học cách thuyết trình trước đám đông.

(2) Bầu cử:
Một học sinh dưới sự hỗ trợ của giáo viên sẽ điều hành bầu cử. Các ứng
cử viên lần lượt tranh cử bằng các bài thuyết trình đã được chuẩn bị trước. Giáo
viên lưu ý không để học sinh cầm giấy đọc mà chủ động thể hiện khả năng
thuyết trình của mình. Ban kiểm phiếu làm việc sau khi các ứng cử viên đã
thuyết trình xong. Học sinh nào có số phiếu cao nhất từ trên xuống sẽ trúng cử
vào vị trí Chủ tịch và phó Chủ tịch Hội đồng tự quản học sinh. Chủ tịch và Phó
Chủ tịch ra mắt trước lớp.
(3) Thành lập các ban chuyên trách:
Chủ tịch và phó Chủ tịch Hội đồng tự quản học sinh cùng bàn bạc với giáo viên
để quyết định thành lập các ban chuyên trách và thông báo rõ về vai trò của các
ban như: Học tập, Sức khoẻ và vệ sinh, Quyền lợi học sinh, Lao động, Thư
viện... Số lượng các ban tuỳ theo tình hình lớp học và sự thống nhất giữa Chủ
tịch, phó Chủ tịch Hội đồng tự quản và học sinh trong lớp quyết định. Hội đồng
tự quản cùng giáo viên chủ nhiệm, có sự hỗ trợ của phụ huynh khuyến khích học
sinh đăng kí vào các ban theo nguyện vọng, sở thích. Sau khi thành lập các ban,
tiến hành bầu trưởng ban, thư kí và xây dựng kế hoạch hành động, động viên các
bạn cùng tham gia hoạt động. Để làm việc có hiệu quả, mỗi ban nên có sự hỗ
trợ, tư vấn của một phụ huynh và giáo viên. Có thể nói, quá trình thành lập “Hội
đồng tự quản học sinh” giúp các em hiểu được quá trình bầu cử tự do, công bằng
và dân chủ của đất nước, của địa phương; giúp học sinh có thể nảy sinh đề xuất
những ý tưởng mới của chính các em. Thông qua hoạt động này học sinh tự giác
hơn, phát huy tinh thần trách nhiệm, sự sáng tạo trong quản lý và chỉ đạo những
công việc được giao. Hy vọng rằng, mô hình dạy học kiểu mới sẽ ngày càng
10


được nhân rộng để các em học sinh, phụ huynh và các thầy cô giáo được cùng
nhau tham gia vào quá trình dạy - học đảm bảo theo mong muốn của xã hội về
nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh trong giai đoạn hiện nay.

1.2. Đặc điểm học sinh dân tộc và vùng miền:
Cũng như trẻ em các dân tộc khác, Học sinh tiểu học dân tộc ít người hầu
hết có đặc điểm tâm lí chung là ”Chóng thích, chóng chán, dễ nhớ, mau quên”.
Hoạt động chủ đạo của các em vẫn đang nằm ở danh giới giữa vui chơi và học
tập. Tâm hồn các em đang thanh khiết như tờ giấy trắng mà nhờ hoạt động giáo
dục đào tạo sẽ vẽ lên đó tương lai của các em. Các em mới quen với trường tiểu
học, mọi hoạt động học tập vui chơi dường như vẫn còn rất mới mẻ đối với các
em. Đặc biệt là hoạt động học tập vẫn phụ thuộc chủ yếu vào sự dẫn dắt của các
thầy giáo cô giáo, mọi hoạt động chủ yếu vẫn là bắt trước những gì các em nghe,
nhìn thấy. Tâm lý còn rụt rè e ngại, cần được vỗ về che chở. Như vậy giáo viên
đóng vai trò rất quan trọng.
Ở địa bàn vùng cao vùng sâu vùng xa, kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn,
trình độ dân trí thấp. Nói chung là mọi mặt xã hội đều chậm phát triển so với các
vùng thuận lợi khác. Ở những vùng này hầu hết là dân tộc thiểu số sinh sống, ít
được giao tiếp xã hội. Tiếng việt là ngôn ngữ thứ hai sau tiếng mẹ đẻ, mọi người
đều phải nỗ nực học tập từ bé mới có được vốn ngôn ngữ nhất định. Các dân tộc
ít người họ thường sống ở những vùng núi cao, cuộc sống chủ yếu là tự cung tự
cấp. Con em họ vốn tiếng việt rất hạn chế, các em nói được rất ít câu từ bằng
tiếng việt, chủ yếu là đọc viết đơn thuần, chưa hiểu nghĩa. Các em phải rất nỗ
lực để học được bằng tiếng việt. Do vậy các em luôn có tâm lí e ngại, ngại tiếp
xúc với người lạ, dẫn đến khả năng giao tiếp của các em cũng chậm phát triển
hơn so với trẻ ở các vùng kinh tế xã hội phát triển. Do vậy việc các em tự học, tự
quản là công việc tương đối khó, đòi hỏi phải nghiên cứu chuẩn bị công phu và
áp dụng các giải pháp linh hoạt phù hợp mới có thể đem lại hiệu quả.
Tại các vùng dân tộc như dân tộc H”Mông, dân tộc Thái hay Khơ mú …
thường hay sống ở địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa, giáo viên thường là
người nơi khác đến giảng dạy, trình độ đào tạo không đồng đều. Do đó khả năng
11



thích ứng với việc dạy học sinh dân tộc đặc biệt là quá trình giao tiếp, tương tác
với các em gặp rất nhiều khó khăn, dẫn đến việc khó hình thành và rèn kĩ năng
tự học, tự quản cho các em. Vì vậy hiệu quả dạy học theo Mô hình VNEN còn
nhiều hạn chế.
Bên cạnh đó các dân tộc sống ở vùng cao thường có đời sống tự cung tự
cấp, phụ thuộc chủ yếu vào thiên nhiên. Vì vậy kinh tế thường nghèo đói, ít có
gia đình khá giả. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình học tập của học
sinh. Thời gian ở nhà các em thường phải giúp bố mẹ làm việc nhà như chông
em, chăn trâu, làm nương… không cò thời gian học tập. Vẫn còn nhiều hủ tục
lạc hậu tồn tại trong dân như: Sinh nhiều con; chỉ cho con trai đi học; tảo hôn…
dẫn đến tỷ lệ học sinh bỏ học còn nhiều. Tệ nạn nghiện hút vẫn còn tồn tại phức
tạp. Vì thế việc duy trì đầy đủ số lượng học sinh đi học cũng là một vấn đề khó,
nếu các em đi học không đều thì không thể hình thành thói quen tự học, tự quản.
1.3. Thực trạng tự quản của học sinh:
Khi chưa áp dụng Mô hình Dự án VNEN thì việc tự quản của các em mới chỉ
dừng lại ở mức độ thực hiện các nhiệm vụ một cách thụ động do giáo viên giao cho.
Theo đó chỉ một số ít học sinh nằm trong ban cán sự lớp được tham gia vào công tác
tự quản. Các em hầu như chưa được chủ động thực hiện nhiệm vụ của mình.
Từ năm học 2012 – 2013 khi tham gia thực hiện thí điểm Dự án VNEN,
qua quan sát ở một số lớp trên các trường trong cụm. Đề tài đánh giá thực trạng
tự quản của học sinh như sau:
- Hình thức tổ chức tự quản đã thay đổi nhưng hiệu quả tự quản chưa thực
sự thay đổi nhiều.
- Hội đồng tự quản đã thực hiện nhiệm vụ theo yêu cầu nhưng vẫn chỉ là
thực hiện theo sự sắp xếp của giáo viên, chưa chủ động thực hiện diễn ra một
cách tự nhiên sáng tạo.
- Học sinh vẫn chờ sự gợi ý sắp xếp của giáo viên theo kịch bản có trước
và chỉ diễn lại một cách thụ động.

12



- Bộ máy tự quản dường như không thay đổi trong cả năm học như vậy công việc tự
quản cũng chỉ do một số học sinh thực hiện, chưa phát huy được khả năng tự chủ bình đẳng ở
học sinh. Nhiều học sinh trong lớp không hề được tham gia công tác tự quản của lớp.
- Một số Ban trong Hội đồng tự quản chỉ là hữu danh vô thực chưa thực
hiện được nhiệm vụ của ban mình, vì học sinh không chủ động và không hiểu
được phải làm gì và làm như thế nào trong nhiệm vụ tự quản.
- Quá trình giao tiếp giữa học sinh với học sinh và giữa học sinh với giáo
viên chưa diễn ra một cách tự nhiên. Chứng tỏ môi trường tự quản của lớp học
chưa thân thiện, điều này phụ thuộc nhiều yếu tố: Đặc điểm học sinh (đã nêu ở
trên) giáo viên chủ quan áp đặt và tạo ra môi trường đó.
- Khả năng giao tiếp bằng tiếng việt của các em còn nhiều hạn chế, vì vậy
quá trình tự quản không suôn sẻ do vấn đề sử dụng và hiểu ngôn ngữ chưa tốt.
1.4. Thực trạng tự học của học sinh:
Từ rất nhiều những vấn đề chưa tốt về tự quản, kéo theo việc tự học gặp
nhiều trở ngại. Qua quá trình tổ chức các chuyên đề, dự giờ thăm lớp đề tài đã
tộng hợp về khả năng tự học theo Mô hình VNEN của học sinh dân tộc với
những ưu điểm và tồn tại như sau:
- Một số học sinh thực hiện việc tự học rất tốt, các em hiểu và giải quyết tốt các
nhiệm vụ trong Tài liệu hướng dẫn học. Các em thực hiện tốt các yêu cầu của giáo viên.
Đó là những em học sinh thuộc nhóm đối tượng học sinh khá và giỏi của lớp.
- Đa số các đối tượng học sinh của lớp đều được tham gia các hoạt động
học tập trong tài liệu và theo gợi dẫn của giáo viên.
- Nhiều học sinh chưa có kĩ năng đọc hiểu thậm chí không đọc được các câu
lệnh. Do vậy việc tự học tự chiếm lĩnh kiến thức là khó có thể thực hiện được.
- Nhiều học sinh thực hiện theo hình thức tự học nhưng không hiểu bản
chất vấn đề dẫn đến kết thúc nhiệm vụ mặc dù đã hoàn thành nhưng vẫn không
đạt được mục tiêu giờ học.
- Học sinh chưa thực sự chủ động học tập theo chỉ dẫn của tài liệu, chưa

mạnh dạn trao đổi với bạn, trao đổi với giáo viên để nắm kiến thức cần đạt.

13


- Hoạt động tự học ở nhà hầu như không diễn ra, vì cha mẹ học sinh đa số chưa
quan tâm đến việc học của con em mình, không thể dạy thêm trong hoạt động ứng
dụng. Sự hỗ trợ của cộng đồng hầu như không có trong phối hợp giáo dục và dạy học.
Tóm lại: Sau một thời gian chưa dài áp dụng đổi mới phương pháp dạy học theo Mô hình
Dự án VNEN, ở vùng điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn đã đổi mới cơ bản về
phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phù hợp với xu hướng phát triển của xã hội. Khi
triển khai thực hiện cũng đã bộc lộ những ưu điểm và hiệu quả đổi mới rõ rệt. Song bên
cạnh đó là một loạt vấn đề đặt ra cần được xem xét, nghiên cứu có những giải pháp phù
hợp áp dụng cho vùng miền, để thực hiện đổi mới phương pháp và hình thức dạy học theo
Mô hình Dự án VNEN, ở vùng điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn đạt được hiểu
quả cao nhất, đây là mục tiêu đề tài hướng tới. ”Trong cái khó ló cái khôn” nếu có sự nỗ
nực từ nhiều phía chúng ta hoàn toàn tin tưởng sẽ thực hiện thành công và hiệu quả trong
thực tiễn dạy học cho học sinh dân tộc.
2. Một số giải pháp giúp học sinh dân tộc hình thành kĩ năng tổ chức lớp
học tự quản, tự học theo Mô hình trường tiểu học kiểu mới (GPE – VNEN):
2.1. Kết quả khảo sát đầu năm học:
Ở lớp 2A4 trường tiểu học Xam Măn:
STT

1
2
3
4
5
6

7
8
9
10
11
12
13
14
15

Tên học sinh

Lò Văn Nam
Lò Thị Thùy Trang
Cà Văn Quang
Lò Thị Hương
Quàng Văn Nam
Lò Văn Hảo
Cà Thị Tỉnh
Quàng Văn Quyền
Cà Văn Dũng
Lò Mạnh Quỳnh
Quàng Văn Huy
Quàng Thị Thêm
Lò Văn Phòng
Quàng Văn Anh
Lò Văn Hạo

Thực trạng tự quản
Tốt

Bình
Chưa
thườn
tốt
g
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
14

Thực trạng tự học
Tốt
Bình Chưa
thườn
tốt
g
x
x

x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x


16
17
18
19
20
21
22
23

x

Lò Văn Quyết
Tòng Văn Vũ
Lường Thị Hơn
Tòng Thị Lan Tuyết

Tòng Thị Thảo
Tòng T. Hương Giang

Lường T. Bích Ngọc
Cà Thị Linh

x
x

x
x

x
x
x

x
x

x
x
x
x

x

x

Tự quản: Tốt = 03 em; Bình thường = 09 em; Chưa tốt = 11 em.
Tự học: Tốt = 01 em; Bình thường = 06 em; Chưa tốt = 16 em.

Ở lớp 4A1 trường tiểu học Xam Măn:
STT

Tên học sinh

Thực trạng tự quản
Tốt

1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22

23
24
25
26

Thào A Cu
Lò Văn Di
Quàng Thị Giang
Giàng Thị Ghềnh
Thào Thị Ghếnh
Lò Thị Thu Hà
Quàng Thị Hồng
Lò Văn Hùng
Lò Thị Hương
Thào Thị Mỷ
Lò Văn Minh
Quàng Thị Nguyên
Lò Thị Nguyên
Lường Thị Nguyệt
Lò Thị Nhung
Lò Thị Phương
Lò Văn Quân
Tòng Văn Sơn
Thào A Sàng
Thào A Tà
Lò Văn Tỷ
Quàng Văn Thủy
Lường Thị Thưởng
Thào Thị Vênh
Giàng A Vù

Lò Văn Xuân

B.
thường

Chưa tốt

Thực trạng tự học
Tốt

B.
thường

x
x

Chưa tốt

x
x

x

x
x
x

x
x


x

x
x

x

x
x

x

x
x

x

x
x
x
x

x
x
x

x

x
x

x

x

x
x
x
x

x
x

x
x

x
x
x

x
x
x
x

x
15

x
x
x



Tự quản: Tốt = 03 em; Bình thường = 12 em; Chưa tốt = 11 em.
Tự học: Tốt = 02 em; Bình thường = 10 em; Chưa tốt = 14 em.
2.2. Những giải pháp cần thực hiện ngay khi bước vào năm học mới:
2.2.1. Rèn thói quen và dần hình thành kĩ năng tự quản tự học:
Đầu năm học ngay khi nhận lớp giáo viên cần khảo sát và phân loại các đối
tượng học sinh. Chủ động tìm hiểu tính cách của từng cá nhân thông qua giao tiếp
trực tiếp với các em và thông tin từ giáo viên dạy trước. Sau hoạt động này giáo viên
phải nắm được khả năng học tập, khả năng giao tiếp, tâm tính của từng em.
Hình thành ban đầu bộ máy tổ chức lớp học tự quản: Trên cơ sở đã khảo
sát giáo viên thành lập Hội đồng tự quản của lớp. Lần lượt từ cao xuống thấp
giáo viên lựa chọn tương ứng những học sinh bạo dạn, tự tin, khả năng giao tiếp
bằng tiếng việt tốt hơn. Giao nhiệm vụ cụ thể cho từng cá nhân theo vị trí đã
được phân công, hằng ngày hướng dẫn các em thực hiện tự quản để dần dần
hình thành thói quen.
Sau một thời gian tổ chức thực hiện, khi đã nắm bắt chắc chắn về đối
tượng học sinh, giáo viên điều chỉnh phù hợp: Điều chỉnh Hội đồng tự quản,
việc điều chỉnh này có thể lấy ý kiến dân chủ từ học sinh để chọn ra các thành
viên xứng đáng thực hiện nhiệm vụ trong Hội đồng tự quản. Hội đồng tự quản
không nên thay đổi nhiều trong năm học. Chỉ nên điều chỉnh nhân sự cho hợp lý
theo học kì. Hằng ngày thực hiện nhiệm vụ như vậy chắc chắn sẽ hình thành
được thói quen, kết hợp với dẫn dắt của giáo viên, các em sẽ có được các kĩ
năng tự quản cần thiết theo yêu cầu.
Đối với các Ban học tập, nên lựa chọn các em cùng sở thích vào một Ban.
Thường xuyên thay đổi vai trò nhiệm vụ của cá nhân trong một Ban. Các thành
viên trong Ban phải được trải nghiệm (Trưởng ban, phó ban, báo cáo viên của
ban...) tất cả đều phải hợp tác tương tác trong tự quản và trong học tập. Để thực
hiện điều này giáo viên phải là người tổ chức hướng dẫn các em thực hiện. Ban
đầu chắc chắn gặp khó khăn với học sinh dân tộc, đòi hỏi giao viên kiên nhẫn

rèn học sinh, hằng ngày thực hiện như thế chắc chắn sau khoảng thời gian học
sinh sẽ có được thói quen, khi đã có thói quen dần dần các em sẽ hiểu bản chất
16


của tự quản và tự giác thực hiện.
Đối với các nhóm học tập thì có thể thay đổi vai trong ngày. Học sinh
phải luôn phiên thực hiện nhiệm vụ của nhóm. Giáo viên phải quan sát thật tốt
để yêu cầu các cá nhân trong nhóm phải hoạt động. Nhóm trưởng phải tự giác
điều hành nhóm thực hiện các nhiệm vụ học tập theo hướng dẫn của tài liệu,
theo yêu cầu của giáo viên. Rèn cho các em thói quen mạnh dạn trình bầy trước
nhóm, yêu cầu bạn thực hiện nhiệm vụ trước nhóm.
Tổ chức lớp học tự quản đối với học sinh dân tộc là việc làm không dễ
nhưng không phải không làm được. Trước hết đòi hỏi giáo viên phải kiên trì
nhẫn nại rèn luyện học sinh một cách từ từ. Quá trình thực hiện lặp đi lặp lại
nhiều lần các em sẽ có thói quen tự quản. Khi đã trở thành thói quen, kết hợp
với giáo dục từ nhiều hình thức, từ nhiều phía sẽ hình thành được kĩ năng tự
quản. Học sinh đã có kĩ năng tự quản các em sẽ có thể tự học, tự khám phá để
đạt được mục tiêu bài học. Giáo viên chỉ định hướng giúp đỡ khi cần thiết.
2.2.2. Thực hiện lặp lại liên tục các hoạt động tự quản trong tổ chức lớp:
Khi đã hoàn tất bộ máy tổ chức lớp, giáo viên thực hiện giao nhiệm vụ tự
quản cho các thành viên. Phân công công việc rõ ràng cụ thể:
Chủ tịch hội đồng tự quản có nhiệm vụ tổ chức các hoạt động cụ thể giao
cho từng Ban thực hiện. Theo dõi kết quả thực hiện và tổng hợp báo cáo giáo
viên. Giáo viên là người kết luận.
Trưởng các Ban (Có thể đồng thời là phó chủ tịch hội đồng tự quản) thực
hiện nhiệm vụ do chủ tịch hội đồng tự quản yêu cầu. Trưởng ban có quyền chỉ
định bất kì thành viên nào trong lớp thực hiện nhiệm vụ học tập, mời bạn khác
đánh giá, tổng hợp kết quả báo cáo chủ tịch hội đồng tự quản. Nhiệm vụ này
cũng có thể do trưởng nhóm học tập thực hiện.

Toàn bộ học sinh trong lớp phải thực hiện tích cực các nhiệm vụ học tập
khi được yêu cầu.
Cách thức tiến hành như vậy được lặp đi lặp lại hằng ngày, hằng tuần học để
tạo thành thói quen tự quản cho các em. Trong quá trình thực hiện học sinh phải
được luôn phiên đảm nhiệm các nhiệm vụ tự quản khác nhau trong nhóm. Đối với
17


những học sinh còn rụt rè nhút nhát giáo viên cần cho học sinh trải nghiệm dần
dần, tuyệt đối không bỏ mặc các em, không để học sinh khác thay thế.
2.2.3. Khuyến khích học sinh tham gia tự quản thông qua các hoạt động
giáo dục:
Để hình thành kĩ năng tự quản, tự học cho học sinh không chỉ giáo viên
chủ nhiệm mà cần có sự tham gia của tất cả giáo viên dạy chuyên, giáo viên
tổng phụ trách Đội.
Hoạt động giáo dục đạo đức: Đây là hoạt động hết sức quan trọng, diễn ra
thường xuyên mọi nơi, mọi lúc mọi thời điểm. Thông qua hoạt động này có thể rèn
thói quen tự quản rất tốt cho học sinh. Trên cơ sở các hoạt động thực hành các chuẩn
mực hành vi đạo đức, học sinh có thể tự tổ chức các trò chơi sắm vai, tự bầy tỏ thái độ
trước một tình huống đạo đức cụ thể. Trong quá trình hoạt động phải huấn luyện để
các em tự tổ chức, tự thể hiện, giáo viên chỉ đóng vai trò định hướng giúp đỡ.
Hoạt động giáo dục âm nhạc: Rèn cho các em thói quen mạnh dạn tự tin
thể hiện trước đám đông. Tạo điều kiện dẫn dắt để học sinh tự tổ chức và biểu
diễn các bài hát, các động tác phụ họa đã học. Giáo viên có thể xây dựng kịch
bản để các em tự biểu diễn các tiết mục đơn giản, phù hợp với chương trình lớp
học. Gợi dẫn học sinh tự giới thiệu về bản thân, về tiết mục sẽ trình bày. Yêu
cầu các đối tượng học sinh đều phải mạnh dạn tham gia.
Hoạt động giáo dục mĩ thuật: Tổ chức cho học sinh tự trình bày về sản
phẩm mĩ thuật của bản thân. Trình bày các nhận xét đánh giá về các tác phẩm mĩ
thuật được xem hoặc nhận xét bài vẽ của các bạn. Định hướng cho học sinh nói

theo ý hiểu của riêng mình. Yêu cầu tương tác theo cặp, nhóm một cách tích
cực. Như vậy buộc học sinh phải làm tốt công tác tự quản thì mới hoàn thành
được nhiệm vụ học tập.
Hoạt động giáo dục thể chất: Giáo viên xây dựng Ban cán sự môn học để
điều khiển lớp luyện tập, hình thành các nhóm tự quản tự tập luyện. Ban cán sự
cũng cần thường xuyên thay đổi nhân sự để nhiều học sinh được rèn luyện khả
năng tự quản tự điều khiển các bạn tập luyện.
Hoạt động giáo dục về tự nhiên và xã hội: Thông qua môn học học sinh
18


có những hiểu biết ban đầu về các hiện tượng tự nhiên; các mối quan hệ trong xã
hội. Từ đó bản thân mỗi học sinh tự nhận thức được trách nhiệm cá nhân với tự
nhiên, với xã hội. Thông qua các hoạt động của môn học sinh được rèn luyện và
phát huy các năng lực cá nhân cần thiết để ứng xử phù hợp với các tình huống
xã hội trong thực tế cuộc sống. Góp phần tạo cho các em có thể tự tin, tự hành
động đúng. Trước hết là tự điều khiển tự học môn học sao cho đạt được mục tiêu
bài học, và vận dụng vào cuộc sống tương lai sau này.
Hoạt động Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh: Các hoạt động tập thể
ngoài giờ trên lớp giúp các em rất nhiều trong việc hình thành thói quen và kĩ
năng tự quản. Qua các hoạt động tập thể các em được rèn luyện khả năng thể
hiện trước đám đông, được rèn luyện khả năng giao tiếp bằng tiếng việt. Thông
qua các hoạt động Đội rèn luyện các em mạnh dạn tự tin, thích tham gia các hoạt
động tập thể, đó là cơ sở để các em có được kĩ năng tự quản tự tổ chức lớp học.
2.3. Những giải pháp cần thực hiện trong cả quá trình dạy học:
2.3.1. Rèn kĩ năng đọc hiểu:
Đây là kĩ năng học sinh phải có, là yêu cầu bắt buộc để học sinh có thể học
được theo Mô hình VNEN. Tuy nhiên đối tượng học sinh dân tộc vùng sâu vùng xa,
Tiếng việt là ngôn ngữ thứ hai, vì vậy dạy các em đọc thông viết thạo đã là rất khó hơn
nữa dạy các em đọc hiểu được văn bản là cả một quá trình không hề dễ.

Rèn kĩ năng đọc hiểu cần được thực hiện ngay từ lớp đầu cấp học, bắt đầu
thực hiện từ khi các em nhận biết từ ngữ giáo viên cần chú trọng đặc biệt việc
dạy cho các em hiểu nghĩa từ. Để giúp các em hiểu và ghi nhớ khắc sâu, khi dạy
giáo viên phải gắn với thực tế cuộc sống hằng ngày của các em.
Trong quá trình học ở các lớp tiếp theo, giáo viên cũng cần chú trọng đặc biệt về kĩ
năng đọc hiểu. Trước hết cần dạy học sinh đọc đúng, rõ ràng các văn bản. Sau đó hướng
dẫn các em đọc ghi nhớ nội dung văn bản. Cần làm đi làm lại nhiều lần để học sinh hiểu
được nghĩa từ, câu, đoạn và toàn bộ văn bản. Với cách dạy học thiết thực tới từng đối
tượng học sinh, trong cả quá trình lâu dài học sinh sẽ biết được cách học đúng và sẽ dẫn
đạt được yêu cầu thực theo chuẩn kiến thức và kĩ năng các môn học.
2.3.2. Rèn kĩ năng giao tiếp:
19


Ngoài việc dạy học việc giáo dục là nhiệm vụ rất quan trọng của giáo viên
đối với học sinh. Rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh là một trong những nhiệm vụ
đó. Rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh được thực hiện hằng ngày trong các giờ học
ngoài giờ học, trong tất cả các hoạt động giáo dục ở nhà trường.
Giáo viên cần thường xuyên uốn nắn cách sử dụng Tiếng việt trong quá trình
tương tác giữa học sinh với giáo viên và giữa học sinh với học sinh. Lưu ý từ cách
dùng từ, nói câu thế nào là đúng. Cách xưng hô đúng với người đối diện, với hoàn
cảnh giao tiếp. Khi học sinh giao tiếp chưa đúng cần sửa ngay cho các em. Như vậy
sẽ giúp các em thực hiện nhiệm vụ tự quản tốt hơn.
Thường xuyên tổ chức các hoạt động tập thể trong môi trường lớp học để
các em học sinh có cơ hội rèn luyện khả năng giao tiếp. Yêu cầu các em luôn sử
dụng Tiếng việt trong học tập, trong vui chơi và trong cuộc sống hằng ngày. Kết
hợp với phụ huynh học sinh để rèn khả năng giao tiếp bằng Tiếng việt cho các em,
phụ huynh cần giao tiếp với các em bằng Tiếng việt nhiều hơn khi các em ở nhà.
2.3.3. Thường xuyên tổ chức các chuyên đề thảo luận về cách rèn kĩ năng tự
quản tự học cho học sinh:

Ngoài những chuyên đề bồi dưỡng về cách dạy, cách học theo Mô hình
VNEN cần thường xuyên tổ chức các chuyên đề bàn về cách rèn kĩ năng tự quản
cho học sinh. Trong quá trình trực tiếp dạy học, giáo viên là những người tích lũy
được nhiều cách làm hay, cách tổ chức hiệu quả. Vì vậy cần thảo luận và có sự chia
sẻ cách làm để lựa chọn cách làm hiệu quả nhất, áp dụng chung cho địa bàn. Đối
với địa bàn có học sinh nhiều dân tộc khác nhau, nhất thiết phải trao đổi để tìm ra
cách rèn hiệu quả nhất phù hợp cho từng đối tượng dân tộc.
2.3.4. Vận động sự tham gia của cộng đồng:
Để giúp học sinh có kĩ năng tự quản, tự học đạt hiệu quả thì cộng đồng cha
mẹ học sinh là những nhân tố rất quan trọng trong phối kết hợp dạy học và giáo
dục. Cần vận động phụ huynh học sinh quan tâm sâu sắc tới giáo dục, làm được
điều này đòi hỏi giáo viên phải làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục. Thông qua các
cuộc tiếp xúc, các buổi tiếp xúc cần tuyên truyền để nhân dân hiểu rõ tác dụng và
tầm quan trọng của giáo dục trong thời kì đổi mới hiện nay. Đặc biệt cần làm cho
20


phụ huynh và cộng đồng hiểu được mục tiêu đổi mới giáo dục của Dự án VNEN và
những lợi ích Dự án mang lại, người thụ hưởng chính là con em họ.
Để thực hiện thành công cần có sự chung sức của cả cộng đồng. Việc cần thiết
và trước nhất phụ huynh cần làm là phối hợp dạy học và giáo dục cho chính con em họ.
Chỉ rõ những yêu cầu cần làm là: Đảm bảo cho con em đi học đều, đầy đủ. Đây là yêu
cầu rất quan trọng bởi vì học sinh phải đi học chuyên cần thì mới có thể dạy học và giáo
dục được, mới có thể thực hiện được theo yêu cầu đổi mới của Dự án; Cần dành thời
gian quan tâm một chút tới con em mình trong các hoạt động ứng dụng ở nhà; Ủng hộ
các hoạt động giáo dục của lớp, của trường và của địa phương. Nếu có được sự phối kết
hợp như vậy chắc chắn hiệu quả giáo dục sẽ cao hơn, học sinh sẽ có những điều kiện
thuận lợi để phát triển các tư chất cá nhân và sẽ hoàn thành được các nhiệm vụ học tập
theo cách tự quản, tự tổ chức lớp học tập dưới sự định hướng của giáo viên.
2.4. Một số giải pháp khác góp phần rèn luyện kĩ năng tự quản, tự học:

Trong quá trình vận dụng đổi mới phương pháp và hình thức dạy học theo
cách tự quản, tự học của Mô hình Dự án VNEN, phương pháp chủ yếu là học
sinh tự học theo hướng dẫn của tài liệu và định hướng của giáo viên; hình thức
cơ bản là tự học theo nhóm. Để có thể áp dụng phương pháp dạy học theo nhóm
thành công và hình thức học nhóm trở thành một yếu tố tích cực trong cấu trúc
của một giờ dạy, chúng ta cần quan tâm một số yêu cầu:
* Đảm bảo nguyên tắc “Dạy học thông qua cách tổ chức các hoạt động học
tập của học sinh”:
Chúng ta đều biết mỗi phương pháp dạy học đều có một lợi thế nhất định. Việc
dạy học theo nhóm nhỏ cho phép học sinh có nhiều cơ hột hơn để diễn đạt và khám
phá ý tưởng của mình, mở rộng suy nghĩ, rèn luyện kĩ năng nói, kĩ năng giao tiếp. Học
sinh phát huy được vai trò trách nhiệm cá nhân vừa có cơ hội để học tập từ các bạn
qua cách làm việc hợp tác giữa các thành viên trong nhóm. Như vậy, tổ chức cho học
sinh làm việc theo nhóm chính là đã tạo điều kiện cho tất cả học sinh tham gia vào bài
học một cách chủ động và tạo được một môi trường xã hội thuận lợi để trẻ hình thành
tính cách đồng thời phát triển kĩ năng sống của mình.
* Đảm bảo phát triển kĩ năng sử dụng ngôn ngữ và khả năng giao tiếp cho
21


mọi đối tượng học sinh:
Kết luận của nhóm sau khi đã thống nhất là sản phẩm của nhóm, đó là quá
trình trao đổi, trình bày ý kiến của từng thành viên trong nhóm. Khi mà mỗi
thành viên trong nhóm đều phải đưa ra ý kiến thì đó chính là các em đã nói với
nhau, nghe lẫn nhau và đáp lại lời của bạn hay nói cụ thể là việc thảo luận nhóm
này đã làm cho tất cả học sinh đều phải đưa ra được chính kiến của mình. Điều
này đã góp phần rèn luyện cho học sinh ngôn ngữ nói, cách giao tiếp, cách diễn
đạt một vấn đề. Đây là điểm còn yếu của học sinh dân tộc.
* Đảm bảo rèn luyện và phát triển “năng lực hợp tác” cho học sinh - một
trong những mục tiêu giáo dục hàng đầu hiện nay.

- Quan hệ giữa mục tiêu bài dạy với hình thức tổ chức lên lớp:
Phải xuất phát từ chính mục tiêu bài dạy cụ thể để xác định cách thức tổ chức học tập nào là
chủ yếu để có hiệu quả cao nhất. Ví dụ: mục đích bài dạy chủ yếu rèn luyện kĩ năng hoặc kiểm
tra kiến thức cũ thì phải coi trọng cách học cá nhân của học sinh. Cốt lõi của vấn đề là nội dung
của sách hướng dẫn học, người dạy học cần nhận thấy được nội dung như thế này thì phải tổ
chức hướng dẫn học sinh như thế nào để đạt mục tiêu, phải nắm cặn kẽ nội dung bài học và mục
tiêu bài trong tổng thể mục tiêu chung. Trong việc dạy học theo nhóm, việc nắm chắc nội dung
giúp giáo viên chuẩn bị trước nhiều phương án để giải quyết các tình huống học sinh có thể đưa
ra, tránh được lúng túng khi các em có nhiều thông tin từ xã hội mà thông tin trong sách không
có.
- Quan hệ giữa đối tượng nhận thức và trình độ học sinh:
Nếu đối tượng nhận thức quá mới mẻ với HS, cần vai trò chủ đạo của GV trong việc
thông báo, giải thích thì cách tổ chức học toàn lớp là cần thiết. Nhưng nếu gặp một đối tượng
nhận thức mà bản thân HS ít nhiều có kinh nghiệm hoặc chứa đựng những hiểu biết khác
nhau, dễ phân hóa thành các nhóm ý kiến để tranh luận, bàn cải… thì học nhóm sẽ có tác
dụng kích thích hoạt động của từng cá nhân khác nhau. Mặt khác, cần phải chọn lọc những
nội dung có “tính vấn đề” hoặc tương đối khó, cần có sự hợp tác của một nhóm học sinh, bởi
vì nếu làm việc độc lập, học sinh không đủ khả năng giải quyết. Cũng cần lưu ý đến “độ
khó” của vấn đề, nên chọn vấn đề vừa sức học sinh và giáo viên phải theo sát để hướng dẫn,
gợi ý cho các em. Nếu chọn vấn đề quá đơn giản sẽ không thực hiện được mục tiêu của
22


phương pháp dạy học theo nhóm lại làm cho việc tổ chức hoạt động nhóm trở nên hình thức.
- Quan hệ giữa các phương tiện học tập, giảng dạy và cơ sở vật chất lớp học:
Rõ ràng, nếu tài liệu, phương tiện học tập đủ, thiếu, đồng bộ hay không
đồng bộ và điều kiện về cơ sở vật chất phù hợp hay không phù hợp đều rất quan
hệ trực tiếp ảnh hưởng đến cách tổ chức học nhóm. Tổ chức luyện tập theo
nhóm, nếu không quan tâm tới điều này thì có thể, hoặc không khai thác có hiệu
quả phương tiện dạy học hiện có, hoặc vô hiệu hóa các phương tiện đó.

- Việc nhận xét quá trình làm việc của nhóm cũng không nên qua loa, đại
khái. Càng đưa ra nhận định cụ thể càng giúp học sinh tích lũy nhiều kinh
nghiệm cho những lần làm việc sau. Những tiêu chí nhận xét cần thiết phải có:
- Sự phân công trong nhóm
- Tinh thần thái độ làm việc của các thành viên trong quá trình thảo luận.
- Kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao.
- Kĩ năng trình bày kết quả hoặc giải thích chất vấn trước lớp.
Cần khen ngợi những học sinh biết lắng nghe và đưa ra những câu hỏi thắc
mắc phù hợp.
* Đảm bảo khi xếp mô hình lớp học cần phải:
- Phù hợp yêu cầu tổ chức hoạt động dạy học.
- Đảm bảo có lối di chuyển để giáo viên có thể tiếp cận giúp đỡ các cá nhân và các nhóm.
- Học sinh có thể xoay trở dễ dàng, không bị ngồi sai tư thế.
- Không cố định vị trí của học sinh hoặc cố định nhóm để học sinh có cơ
hội thay đổi hướng nhìn.
3. Những kết quả đạt được:
Sau một thời gian không dài vừa áp dụng đổi mới vừa tìm tòi sáng
tạo các giải pháp các cách làm hay để áp dụng rèn kĩ năng tự quản tự học
cho học sinh lớp 2,3 và 4,5 theo Mô hình VNEN. Đề tài đã đạt được
những thành công nhất định, đã được kiểm chứng qua thực tế dạy và học
tại khối 2,3 và 4,5 trường tiểu học Xam Măn. Tập trung áp dụng nhiều tại
lớp 2A4 và lớp 4A1, kết quả đạt được như sau:
Lớp 2A4:
23


STT

1
2

3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23

Tên học sinh

Lò Văn Nam
Lò Thị Thùy Trang
Cà Văn Quang
Lò Thị Hương
Quàng Văn Nam
Lò Văn Hảo

Cà Thị Tỉnh
Quàng Văn Quyền
Cà Văn Dũng
Lò Mạnh Quỳnh
Quàng Văn Huy
Quàng Thị Thêm
Lò Văn Phòng
Quàng Văn Anh
Lò Văn Hạo
Lò Văn Quyết
Tòng Văn Vũ
Lường Thị Hơn
Tòng Thị Lan Tuyết
Tòng Thị Thảo
Tòng T. Hương Giang

Lường T. Bích Ngọc
Cà Thị Linh

Kết quả tự quản
Tốt
Bình
Chưa
thườn
tốt
g
x
x
x
x

x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x

Kết quả tự học
Tốt
Bình Chưa
thườn
tốt
g
x
x
x
x

x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x

So sánh với đầu năm học:
Tự quản: Tốt = 13 em(Tăng 10 em); Bình thường = 09 em(Tăng 0 em);
Chưa tốt = 01 em(Giảm 10 em).
Tự học: Tốt = 11 em(Tăng 10 em); Bình thường = 11 em(Tăng 5 em);
Chưa tốt = 01 em(Giảm 15 em).
Lớp 4A1:
STT

Tên học sinh


Kết quả tự quản
Tốt

1
2
3
4

Thào A Cu
Lò Văn Di
Quàng Thị Giang
Giàng Thị Ghềnh

B.
thường

Chưa tốt

Kết quả tự học
Tốt

x
x
x

B.
thường

x
x

x

x
24

x

Chưa tốt


5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24

25
26

Thào Thị Ghếnh
Lò Thị Thu Hà
Quàng Thị Hồng
Lò Văn Hùng
Lò Thị Hương
Thào Thị Mỷ
Lò Văn Minh
Quàng Thị Nguyên
Lò Thị Nguyên
Lường Thị Nguyệt
Lò Thị Nhung
Lò Thị Phương
Lò Văn Quân
Tòng Văn Sơn
Thào A Sàng
Thào A Tà
Lò Văn Tỷ
Quàng Văn Thủy
Lường Thị Thưởng
Thào Thị Vênh
Giàng A Vù
Lò Văn Xuân

x

x


x
x
x
x

x
x
x
x
x
x

x
x
x

x
x

x
x
x

x
x
x

x
x
x


x
x
x
x

x
x
x
x
x
x
x

x
x
x
x
x
x
x

So sánh với đầu năm học:
Tự quản: Tốt = 12 em(Tăng 09 em); Bình thường = 13 em(Tăng 01 em);
Chưa tốt = 01 em(Giảm 10 em).
Tự học: Tốt = 10 em(Tăng 08 em); Bình thường = 14 em(Tăng 04 em);
Chưa tốt = 02 em(Giảm 12 em).

KẾT LUẬN
1. Hiệu quả mang lại khi thực hiện đề tài:

Thông qua các Hội thảo chuyên đề cấp trường và cấp cụm trong năm học vừa
qua, đề tài đã triển khai thực nghiệm trên tất cả giáo viên của nhà trường. Qua trao đổi
thảo luận có thể kết luận cơ bản giáo viên đã nắm bắt được tinh thần và nội dung đổi
25


×