Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

Hình tượng tác giả trong “Chiếc thuyền ngoài xa”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (91.13 KB, 4 trang )

Nguyễn Minh Châu (1930-1989) là một nhà văn đóng vai trò quan
trọng trong cả hai giai đoạn văn học Việt Nam trước và sau 1975.
Đối với ông, quá trình sáng tạo của người nghệ sĩ không bao giờ
theo một lối mòn, chính vì thế, những sáng tác của ông sau những
năm sau khi đất nước giải phóng đã hoàn toàn khác biệt với giai
đoạn trước mà ông cho là “giai đoạn của văn nghệ minh họa”.
Chiếc thuyền ngoài xa là một tác phẩm đặc sắc thể hiện rõ nét nhất quan điểm sáng tác của ông sau này.
Tác phẩm mang trong mình tinh thần nhân đạo sâu sắc và một phong cách truyện độc đáo của nhà văn
đầy tài năng và nhân hậu. Chiếc thuyền ngoài xa cũng được nói đến như một tác phẩm điển hình, đặc sắc
cả về nội dung và nghệ thuật trong giai đoạn văn học này. Những thành công đó đã góp phần làm nổi bật
hình tượng tác giả mà chúng ta đang muốn nói tới trong Chiếc thuyền ngoài xa.
“Mỗi nhà văn, dù muốn hay không đều miêu tả chính mình trong các tác phẩm một cách đặc biệt”
(Goethe). Tác giả chính là trung tâm làm nên nội dung và hình thức của tác phẩm, tác giả hiện trong thế
giới của tác phẩm chính là hình tượng tác giả. Đối với mỗi thể loại, hình tượng tác giả được thế hiện khác
nhau. Nếu như ở thơ ca, đó chính là hình tượng cái Tôi thì ở văn xuôi, đó chính là hình tượng người kể
chuyện. Nhưng với mỗi nhà văn, sáng tạo ra một tác phẩm đều phải chọn cho mình một cách kể riêng.
Khác với những tác phẩm hồi kí, nhật kí, hình tượng tác giả xuất hiện một cách trực tiếp với tư cách là
người tham gia vào câu chuyện mà họ đang kể lại, ở một tác phẩm truyện ngắn, hình tượng tác giả luôn
xuất hiện gián tiếp qua các yếu tố khác nhau để hình thành nên tác phẩm nhưng rõ nét nhất là thể hiện qua
hình ảnh nhân vật, đặc biệt là nhân vật trung tâm trong tác phẩm. Hình tượng tác giả trong Chiếc thuyền
ngoài xa chính là nhân vật Phùng – một người kể chuyện xưng Tôi. Nhiều ý kiến nhận xét đã cho rằng
Phùng là hóa thân của tác giả. Điều này là tất yếu bởi Nguyễn Minh Châu đã thực sự làm nên một thành
công mà bất kì nhà văn nào cũng muốn hướng đến trong quá trình sáng tạo của mình. M.Bakhotin đã viết
về hình tượng tác giả trong cuốn Ngữ cảnh “chúng tôi quan niệm người sáng tạo trong sáng tác của anh ta
chứ không thể nào bên ngoài sáng tác của anh ta” có nghĩa là chúng ta sẽ đánh giá hình tượng của chính
nhà văn đó qua mỗi tác phẩm mà họ viết nên chứ không phải là hình tượng bên ngoài nào khác và để
đánh giá chúng, chỉ có cách duy nhất là dựa vào văn bản và các yếu tố cấu trúc nên văn bản đó như ngôn
ngữ, giọng điệu, cái nhìn nghệ thuật, nhân vật v.v..
Nguyễn Minh Châu đã thể hiện rất thành công hình tượng của chủ thể sáng tạo trong tác phẩm của mình.
Điều ông hướng tới là một đề tài khác với những đề tài trước đó là về chiến tranh mang cảm hứng sử thi,
cái ông tìm kiếm chính là đề tài thế sự, về cuộc sống thường nhật, nghèo khó của chính những con người


cơ cực ở làng chài ven biển nơi chiến trường xưa “trở về thăm một vùng chiến trường cũ ở đấy tôi có một
thằng bạn vừa là đồng hương, vừa là đồng đội đã từng mười năm ở với nhau trên rừng A So”. Cái nhìn
của tác giả đã đọng lại ở số phận của những con người nhỏ bé, lam lũ quanh năm lênh đênh trên biển,
sớm tối làm bạn với sóng to gió lớn. Cảm quan của một nhà văn đã từng hướng đến vẻ đẹp hoàn hảo và
bao bọc nhân vật trong môi trường “vô trùng” dường như đã thay đổi để hướng đến những con người thực
trong cuộc sống đầy khó khăn. Câu chuyện bắt đầu từ chuyến đi thực tế của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng với
nhiệm vụ chụp một tấm ảnh “không có người. Hoàn toàn là thế giới tĩnh vật.” Nhưng chính trong hành
trình tìm kiếm vẻ đẹp của thiên nhiên đó, người nghệ sĩ đã khám phá vẻ đẹp của chính con người ẩn sau
những thứ tưởng chừng như người ta không thể chấp nhận được trong cuộc sống thường nhật. Sự hoá
thân của tác giả qua nhân vật Phùng đóng vai người kể chuyện trong tác phẩm. Ở đó, nhà văn cũng muốn
có điều kiện bộc lộ gần như trực tiếp những suy nghĩ của mình trước một hiện thực được nhìn ở tầm gần.


Thời gian trong truyện mở ra vào một ngày tháng bảy khi người nghệ sĩ đã có một chuyến công tác đầy
thành công trở về với những bức ảnh nghệ thuật mà họ đã dày công làm việc suốt năm tháng. Nhưng tất
cả vẫn chưa làm hài lòng trưởng phòng đầy kinh nghiệm và cầu toàn. “Một bức ảnh chụp cảnh sương trên
biển” là điều vô cùng khó khăn khiến cho Phùng phải lặn lội một lần nữa để có được. Thời gian mà
Nguyễn Minh Châu lựa chọn có thể coi là thời gian tuyến tính, một sự lựa chọn khá đơn giản nhưng lại có
tác dụng làm cho câu chuyện trở nên chân thực và chúng ta có cảm giác người kể chuyện đang kể lại câu
chuyện thực mà chính mình đã trải qua. “Năm ngày sau tôi đã có mặt ở một vùng biển cách Hà Nội ngoài
sáu trăm cây số”. Khoảng thời gian hơn một tuần lẽ là những ngày ở vùng ven biển nơi Phùng đã ở lại và
tìm kiếm tác phẩm nghệ thuật của mình. Một khoảng thời gian rất ngắn nhưng đã đủ để chứng kiến, để đi
qua số phận con người đầy nghiệt ngã, để rồi sau mỗi ngày, mỗi thời khắc, ta càng cảm nhận được nỗi
đau đang thấm dần trong trái tim. Nhịp thời gian Phùng chứng kiến câu chuyện của gia đình người đánh
cá cũng như diễn biến tiếp theo của câu chuyện rất gần nhau. Mỗi sự việc đều diễn rất nhanh “trong mấy
phút đầu, tôi cứ đứng há hốc mồm ra mà nhìn” để rồi sự việc khiến Phùng ngạc nhiên cũng chỉ diễn ra
trong chốc lát “khoảnh khắc sau”, tất cả đều kết thúc như chưa hề có sự xáo trộn lớn trước đó. Dòng thời
gian thuận chiều được tác giả chọn lựa tạo cho người đọc một cảm giác thực như những điều đó đang
diễn ra trước mắt người đọc. Những điều chứng kiến trong lần đầu tiên ấy đã làm cho nhân vật Phùng
không khỏi ám ảnh và chính lần gặp thứ hai đã giúp anh có cơ hội tham gia và tháo bỏ mọi khúc mắc

trong lòng. Nhà văn không để cho người kể chuyện có thể hiểu thấu mọi chuyện ngay từ lần đầu mà để
cho anh có một thời gian để nghĩ đến những điều anh đã phải chứng kiến, có thể coi đây là khoảng thời
gian “chuẩn bị” để nhân vật người kể chuyện có thể nhận đón nhận sự thực đằng sau số phận của những
con người trong câu chuyện mà anh đã chứng kiến. Chính điều đó càng khơi gợi trong lòng người đọc
một hình dung mới về những gì đã và sẽ diễn ra, gieo rắc trong lòng họ những điều đang cần được giải
đáp.
Người kể chuyện đã đi và chiêm nghiệm trong suốt quãng thời gian ngắn ngủi anh ở tại làng chài này.
Anh đã chứng kiến cuộc sống lao động của con người và đã quyết định từ bỏ ý nghĩ ban đầu về việc nắm
bắt hình ảnh đẹp của thiên nhiên mà thay vào đó là cảnh thu lưới trên các vó bè dù biết đó là điều mạo
hiểm bởi trước đó đã có rất nhiều bức ảnh thành công về đề tài này nhưng “sự hấp dẫn của hình ảnh mà
chính là những tiếng động đầy vẻ náo nhiệt ở cách xa hàng cây số cũng nghe tiếng của một nhóm thuyền
đánh cá đêm bằng vó bè”. Khoảng không gian mở ra trước mắt người kể chuyện là khoảng không gian
đối lập giữa sự rộng lớn của vùng biển bao la và cuộc sống tù túng, nhỏ hẹp của biết bao thế hệ gia đình
làm nghề chài lưới. Họ đã giúp người nghệ sĩ hiểu được những mảnh đời nhỏ bé và chính anh đã nhận ra
cái đẹp không phải chỉ nằm trong vẻ đẹp toàn mĩ của thiên nhiên mà còn nằm trong chính những điều gần
gũi nhất. Với nhan đề Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu đã mở ra hình tượng có ý nghĩa biểu
tượng, như vẻ đẹp của một bức tranh toàn bích, nhưng đằng sau hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp là cuộc
sống đầy khắc nghiệt, dữ dội và những số phận con người vật vã trong cuộc mưu sinh. Hình ảnh vừa có ý
nghĩa gợi tả vừa có ý nghĩa biểu tượng. Nhân vật người kể chuyện dường như đã chọn cho mình một vị trí
khá thuận lợi để quan sát để chứng kiến và cảm nhận về cuộc sống. Ban đầu câu chuyện là của chính anh
và không gian cũng mở ra cho nhân vật với công việc đi tìm những bức ảnh nghệ thuật. Vùng biển miền
Trung đã gợi ra cho anh những hình ảnh về kỉ niệm chiến đấu một thời và giờ đây tất cả đã đổi thay
nhưng vẻ đẹp thiên nhiên nơi đây vẫn vẹn nguyên. Nhưng chính trong câu chuyện của mình, anh không
còn là môt nhân vật thứ ba chứng kiến bên ngoài khoảng không gian của nhân vật khác mà chính anh là
nhân vật bước và không gian của mình. Anh đã ở bãi biển hàng tuần liền, đã có những đêm nằm cạch
những con sóng trên bờ cát để đếm những ngôi sao trên bầu trời khuya và chính những lúc như thế đã
khiến anh thấy mình cũng giống như người dân nơi đây cũng thấy mình thật nhỏ bé giữa không gian bao
la rộng lớn. Anh đã tự mình chọn cho mình không gian để sáng tác, để nắm bắt nghệ thuật đôi khi chỉ là
bên trong những cỗ xe tăng còn sót lại sau thời chiến. Dường như để nhân vật người kể chuyện của mình
gắn với hình ảnh không gian ấy, tác giả vẫn thể hiện một điều ám ảnh khôn nguôi về một thời chiến đã

qua nhưng vẫn để lại những dấu tích hữu hình và vô hình trên mảnh đất này.
Không gian của người kể chuyện được chia cắt làm hai nơi, một là toàn bộ bãi biển rộng lớn, nơi anh đã
hai lần chứng kiến nghịch cảnh của gia đình người thuyền chài đó và một nơi khác là tòa án huyện. Trong
căn phòng làm việc của Đẩu – vị Bao Công của huyện ven biển này, không gian thật sự quá chặt hẹp và
câu chuyện về cuộc đời tù túng của người đàn bà làng chài ấy cũng được mở ra. Hai thứ tù túng một của
không gian căn phòng và cả thứ tù túng của cuộc đời con người như đang cộng hưởng, tác động vào tâm
thức của người đang chứng kiến câu chuyện ấy khiến cho “Sau câu nói của người đàn bà, tôi cảm thấy


gian phòng ngủ lồng lộng gió biển của Đẩu tự nhiên bị hút hết không khí, trở nên ngột ngạt quá”. Người
đọc được bước ra khỏi cái căn phòng đó để cùng nhân vật chứng kiến câu chuyện của cuộc đời chị. Tất cả
như vỡ òa sau những lời nói, sau những tiếng nấc và những dòng tâm sự. Không gian khép lại câu chuyện
cũng chính là nơi câu chuyện được bắt đầu. Sự trở về của người nghệ sĩ là một cánh cửa khép lại cuộc
hành trình vừa qua nhưng đồng thời cũng là mở ra một cánh cửa mới của những chặng đường tiếp theo
nhưng cái đọng lại chính là vòng quay luẩn quẩn của những kiếp người mà anh đã chứng kiến để rồi tất cả
đọng lại là một nỗi xót xa.
Một lần nữa, qua hình tượng người kể chuyện, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện chính hình ảnh và những
suy tư của mình về thế giới, về con người. Người kể chuyện ấy có tên là Phùng – một người nghệ sĩ nhiếp
ảnh đã từng trải qua chiến tranh, đã chứng kiến biết bao nhiêu cảnh đau thương mất mát và họ đã từng
cầm súng chiến đấu cho những điều tốt đẹp hơn nhưng hiện thực vẫn còn là những góc khuất buộc họ
phải tìm đến và không né tránh. Họ không thể là những nghệ sĩ trốn vào trong những thứ ảo ảnh của nghệ
thuật mà quên đi cuộc sống và Phùng chính là con người kiếm tìm của Nguyễn Minh. Ông đã không đi
theo con đường tìm kiếm những con người nghị lực vượt lên trên hoàn cảnh khắc nghiệt của thực tại mà
trong Chiếc thuyền ngoài xa, nhà văn đã nói về những nghịch lý tồn tại như một sự thật hiển nhiên trong
đời sống con người. Bằng thái độ cảm thông và sự hiểu biết sâu sắc về con người, ông đã cung cấp cho ta
cái nhìn toàn diện về cái đẹp cuộc sống, hiểu cả bề mặt lẫn chiều sâu. Ông nhìn thân phận con người
không còn là sự đề cao và đặt cho họ những phẩm chất hoàn mĩ mà trên hết, ông đã chứng kiến và tham
gia vào chính cuộc đời của họ như một người bạn, thực sự biết sẻ chia và đồng cảm. Hành động xông vào
đánh người chồng vũ phu của Phùng cũng chính là hành động của một con người thực sự bởi “Bất luận
trong hoàn cảnh nào tôi cũng không cho phép hắn đánh một người đàn bà, cho dù đó là vợ và tự nguyện

rúc vào trong xó bãi xe tăng kín đáo cho hắn đánh”. Đó là hành động của nhân vật tự ý thức được vai trò
của mình trước những cảnh mà anh chứng kiến và đó cũng là điều nhà văn muốn mình không còn là
người ngoài cuộc trước số phận của con người. Nhưng kết thúc thiên truyện không phải là những điều mà
nhà văn muốn thay đổi cho cuộc sống của nhân vật mà là sự thấu hiểu của Phùng, của Đẩu và tất cả người
đọc về cuộc đời của người đàn bà ấy. Đó thực sự là cuộc sống riêng tuy trong mắt người ngoài đó là bất
hạnh nhưng đối với chị đó cũng đủ để hạnh phúc. Hạnh phúc ấy không phải là hạnh phúc cho riêng mình
mà là hạnh phúc của những đứa con. Ở đây, cho dù không muốn nhưng người kể chuyện vẫn phải nằm
ngoài cuộc số phận của người đàn bà đó. Chính họ đã quen và chấp nhận nó, đó không phải là sự chấp
nhận trong mù quáng mà đó là chấp nhận của sự hi sinh. Nguyễn Minh Châu đã từng nói “Nhà văn tồn tại
ở trên đời có lẽ trước hết là vì thế: để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những người cùng
đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn con người ta đến chân tường, những con người cả tâm
hồn và thể xác bị hắt hủi và đọa đầy đến ê chề, hoàn toàn mất hết lòng tin vào con người và cuộc đời để
bênh vực cho những con người không có ai để bênh vực” và có lẽ nhân vật Phùng trong truyện đã thực
hiện được những gì nhà văn muốn hướng đến.
Hình tượng người kể chuyện của Nguyễn Minh Châu không đơn thuần là người dẫn dắt câu chuyện mà
anh cũng là một nhân vật biết mà theo điểm nhìn của người kể chuyện – nghệ sĩ – qua đó, sự xuất hiện
của các nhân vật tạo được ấn tượng riêng và sự cuốn hút người đọc khiến họ muốn tiếp tục tìm hiểu,
khám phá. Câu chuyện dần sáng tỏ theo sự tìm hiểu của nghệ sĩ và được đẩy lên đến cao trào ở cảnh
người đàn ông lại đánh mẹ Phác lần thứ hai. Cách tổ chức, sắp xếp các sự kiện, chi tiết của câu chuyện
tôn trọng tính chân thực và tập trung thể hiện tư tưởng tác phẩm. Phùng không chỉ kể lại những điều mắt
thấy tai nghe mà còn bày tỏ những cảm xúc chủ quan, những suy nghiệm về nghệ thuật, về con người và
cuộc sống con người, về mối quan hệ giữa cuộc sống và nghệ thuật. Sự thay đổi ngôi kể chính là thay đổi
điểm nhìn, từ điểm nhìn chủ quan của ngôi Tôi đến điểm nhìn khách quan của người thứ ba nghe câu
chuyện của người đàn bà làng chài và anh đã hoàn toàn bị xúc động bởi câu chuyện đó khiến cho anh có
thể bộc lộ trạng thái của mình một cách chân thành, không che giấu, không đè nén. Đó là ngôi kể mang
tính hướng ngoại ở những hành động trực tiếp nhưng đôi khi nó cũng mang tính hướng nội trong lời kể
qua những cảm xúc nội tâm bên trong “tôi trở nên bối rối”, tôi tưởng chính mình vừa khám phá thấy”,
“tôi chắc mẩm”, “tôi vô cùng ngạc nhiên” v.v.. Người kể chuyện trong Chiếc thuyền ngoài xa mang trong
mình một tâm hồn nghệ sĩ, luôn hướng đến giao hòa và cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên “Tôi trở nên
ngây ngất vào mỗi buổi sáng, bầu trời không xanh biếc, cao thăm thẳm mà đượm một sắc giữa xanh và

xám, bầu trời như hạ thấp xuống và như ngưng đọng lại” nhưng đồng thời anh cũng mang trong mình tấm
lòng của một người lính nhân hậu nỗi xót xa trước cuộc sống của những người dân chài thấm đẫm trong
giọng kể: “thường thường mỗi thuyền là một gia đình, ngoài thuyền lớn còn có một chiếc mủng nhỏ để đi


lại”.
Người xưa nói: “Văn như kỳ nhân”, xem văn là biết được người, đọc tác phẩm là biết ngay tác giả. Với
Chiếc thuyền ngoài xa, thực sự Nguyễn Minh Châu đã thể hiện rõ nét phong cách văn chương của mình.
Chiếc thuyền ngoài xa mãi mãi là những khao khát mà suốt đời muốn tìm kiếm và níu giữ nhưng để rồi
khi tới gần người nghệ sĩ mới phát hiện ra những sự thật ẩn sau vẻ đẹp lung linh huyền ảo đó và nhận
thức được vẻ đẹp thực sống giữa cái ảo chính là vẻ đẹp ẩn sâu trong tâm hồn mỗi con người tưởng chừng
như bình thường nhất. Cách xây dựng nhân vật cũng thể hiện cảm quan của nhà văn về con nguời. Họ đã
đang và sống cuộc sống bình dị, đó là một nhân vật Phùng hóa thân của chính tác giả, một người mà hơn
bao giờ hết, hiểu rõ rằng trước khi là một nghệ sĩ biết rung động trước cái đẹp, hãy làm một người biết
yêu ghét vui buồn trước mọi lẽ đời thường tình, biết hành động để có một cuộc sống xứng đáng với con
người. Đó còn là người phụ nữ không tên với vẻ ngoài xấu xí nhưng chứa đựng trong đó là một tâm hồn
thanh cao đến bất ngờ. Tưởng chừng như chị là một người phụ nữ chỉ biết câm lặng và chịu đựng nhưng
ít ai ngờ rằng đó là sự hi sinh cao cả đến nghịch lí để đổi lấy một hạnh phúc bình dị “Vui nhất là lúc ngồi
nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no…”. Câu nói của chị mới thực sự xót xa làm sao, nó như xát muối
vào trong lòng Phùng cũng như mỗi người đọc để rồi hình ảnh đó cứ ám ảnh mãi khôn nguôi.
Nếu hình tượng tác giả trong văn Nguyễn Huy Thiệp hàm ẩn với bao chiêm nghiệm suy tư về thân phận
con người, về cuộc đời với những thiên truyện mang ngôn ngữ trần thuật sắc gọn, hàm súc, nhiều khi trơ
trụi, nếu cái Tôi trong thơ Huy Cận là “một linh hồn nhỏ, mang mang thiên cổ sầu” thì hình tượng tác giả
trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu chính là một người nghệ sĩ luôn hướng tới cái đẹp trong cuộc sống
thực của mỗi kiếp người. Đó cũng chính là nét đặc sắc nổi bật mà nhà văn đã thể hiện trong Chiếc thuyền
ngoài xa để rồi khi đã thực sự tìm được câu trả lời cho mỗi nhân vật, mỗi thân phận của ông, chúng ta vẫn
không nguôi ám ảnh về cuộc đời của họ bởi có thể đó là những người đang hiện hữu xung quanh mỗi
chúng ta.
loigiaihay.com
Xem thêm: Video bài giảng môn Văn học

>>>>> Luyện thi ĐH-THPT Quốc Gia 2016 bám sát cấu trúc Bộ GD&ĐT bởi các Thầy Cô uy tín,
nổi tiếng đến từ các trung tâm Luyện thi ĐH hàng đầu Hà Nội, các Trường THPT Chuyên và Trường Đại
học.



×