Ba bài thơ là ba bức tranh thu hết sức tiêu biểu cho phong cảnh
làng quê Việt Nam được vờn vẽ bằng những nét thủy mạc hết sức
tinh tế và tài hoa.
Nguyễn khuyến sinh ra và lớn lên ở một vùng quê yên ả. Trừ hơn 10 năm làm quan phải sống xa quê, còn
lại phần lớn cuộc đời ông gắn bó với lũy tre làng Yên Đổ quê ông. Hình ảnh làng quê ấy đã in đậm trong
thơ ông với những nét hết sức tiêu biểu và điển hình khiến Nguyễn Khuyến trở thành: “Nhà thơ của làng
cảnh Việt Nam’’ như Xuân Diệu đã từng nhận xét. Chỉ cần qua ba bài thơ thu của ông, ta cũng thấy rõ
được điều này.
Mùa thu vốn là đề tài muôn thuở, gần gũi và quen thuộc của các thi nhân. Ai làm thơ mà mỗi độ thu về lại
chẳng có đôi câu để thổ lộ tâm tình mình qua những bức tranh thu. Nhưng trong lịch sử thơ ca Việt Nam
quả cũng ít người có được nhiều bài thơ mùa thu nổi tiếng như Nguyền Khuyến. Nhà thơ Xuân Diệu ở
một dịp khác cũng đã nhận xét: Nguyễn Khuyến nổi tiếng nhất trong văn học Việt Nam là thơ Nôm. Mà
thơ Nôm của Nguyễn Khuyến nức danh nhất là ba bài thơ mùa thu: Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh" (Đọc
thơ Nguyễn Khuyến). Cùng viết về mùa thu, ba bài thơ có những vẻ đẹp khác nhau, nhưng nhìn chung
đều tiêu biểu cho cảnh thu, hồn thu của làng quê Việt Nam. Bài Thu vịnh (vịnh mùa thu) là một bức tranh
thu rất hoàn chỉnh. Một bức tranh thủy mặc mờ ảo, đượm buồn, gợi cảm giác tĩnh lặng và se lạnh lòng
người. Ai nói đến mùa thu cũng đều nhắc đến: Trời thu, trăng thu, nước thu... Nguyễn Khuyến cũng đưa
những cảnh vật ấy vào bài thơ của mình. Có điều chỉ bằng vài nét chấm phá ông đã như bắt được hồn thu:
Trời thu xanh ngắt mấy từng cao
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu
Nước biếc trông như tầng khói phủ
Song thưa để mặc bóng trăng vào...
Thế là có trời thu, cây thu, trăng thu, nước thu, lại có cả gió mùa thu nữa. Bầu trời trong thơ Nguyễn
Khuyến cao vút, trong trẻo đến rợn ngợp bởi hai chữ xanh ngắt. Cây mùa thu ít lá lơ phơ, gió mùa thu hắt
hiu, vừa nhẹ nhàng, vừa se lạnh, trời xanh agắt soi bóng xuống nền nước thu tạo thành sắc biếc mờ ảo,
mông lung như làn khói lam bao phủ mặt ao, hồ. Tưởng như thế ta đã có trọn vẹn một bức tranh thu. Thế
mà nhà thơ còn đặt thêm vào đó hình ảnh một chùm “hoa năm ngoái”, thả vào đó một âm thanh đơn độc:
“Một tiếng trên không ngỗng nước nào”, cả không gian và thời gian càng mông lung, không xác định
khiến mùa thu thêm mơ màng hơn, người đọc càng bâng khuâng hơn. Bài Thu điếu (câu cá mùa thu) cũng
là một bức tranh quê rất có hồn. Bao trùm lên toàn bộ bức tranh ấy là một bầu không khí tĩnh lặng, yên
ắng, một không gian làng quê nên thơ mù lặng lẽ, đượm buồn. Trong thế giới “ao thu” ấy, cái gì cũng nhỏ
bé, nhẹ nhàng. Từ “một chiếc thuyền câu bé tẻo teo” đến làn song lăn tăn “gợn tí", từ chiếc lá “khẽ đưa
vèo” đến cái ngõ trúc lối nhỏ quanh co không một bóng người “khách vắng teo". Đọc bài thơ, cả một
vùng thôn quê yên ả hiện về. Đó chính là vùng quê hương của nhà thơ nói riêng và đồng bằng Bắc Bộ nói
chung. Những làng quê ấy có rất nhiều ao, chuôm. Không lớn nhưng nước “trong veo’’. Vào tiết thu khí
hậu ở miền Bắc đã bắt đầu chớm lạnh, ngồi trên chiếc “thuyền câu bé tẻo teo” giữa ao thu “nước trong
veo” ấy lại càng thấy lạnh lẽo hơn. Một chiếc lá vàng rơi cũng là hình ảnh rất thu. Câu thơ ấy nhắc ta nhớ
một vần thơ cổ:
Ngô đồng nhất diệp lạc
Thiên hạ cộng tri thu
(Ngô đồng một lá rời cành
Báo cho thiên hạ tin lành thu sang)
Nhìn chiếc lá vàng rụng xuống, ta biết mùa thu đã về. Ở đây, Nguyền Khuyến không chỉ nhìn mà ông còn
lắng nghe được tiếng lá rơi “khẽ đưa vèo” trước gió. Sau này Tản Đà cùng đã có câu thơ tương tự: '‘Vèo
tròng lá rung đầy sân ". Chữ “vèo" trong câu thơ của cả hai ông đêu thế hiện được tâm trạng bâng khuâng
lắng nghe của thi nhân trước mùa thu của đất trơi. Trời xanh cũng là một nét rất tiêu biểu của mùa thu
Việt Nam. Trong cả liai bài, Nguyễn Khuyến đều nhắc tới một sắc trời “xanh ngắt”. Hai chữ ấy đã diễn tả
được đầy đủ tính chất của bầu trời thu Việt Nam: cao vòi vọi, trong trẻo và thanh sạch đến lạ lùng. Người
ta có thể đi câu cá vào nhiều thời điểm trong một năm. Nhưng rõ ràng, nếu Nguyễn Khuyến không lấy tên
bài thơ và bỏ các chữ thu đi, người đoc vẫn nhận ra được ngay là tác giả câu cá mùa thu. Cảnh ấy chỉ có
thể là mùa thu ấy mà thôi. Bài Thu ẩm luống rượu mùa thu). Nếu như hai bài thơ trên, tác giả nhắc đến
những chữ trời thu, ao thu, thì ở bài này, ông không nói gì đến chữ thu ở các câu thơ. Ấy thế mà đọc lên
ta vẫn thấy đó là mua thu, là cảnh sắc quen thuộc của làng quê Việt Nam mỗi độ thu về:
Năm gian nhà cỏ thấp le te
Ngõ tối, đêm, sâu, đóm lập lòe
Đích thị đó là cảnh sắc của một làng quê. Ở thành thị, phố phường có nhà cao cửa rộng, có đường rộng
thênh thang, sáng sủa làm gì có những ngôi nhà thấp bé, có “ngõ tối, đêm sâu” và “đóm lập lòe”. Phải là
cái “ngõ tối, đêm sâu” thì mới có thể thấy đóm “lập lòe”, và ngược lại cái lập lòe của con đom đóm ấy
càng làm cho ngõ tối hơn. Phải sống ở nông thôn, làng quê, phải có óc quan sát tinh tế mới viết được
những câu thơ như thế. Hai câu tiếp theo:
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe
Đúng là cảnh đêm khuya thanh vắng, sương khói bốc lên từ mặt đất, vương vấn, phất phơ lưng giậu. Và
trăng khuya chiếu xuống mặt ao hồ, không biết có phải vì sương mù lan tỏa mà trở thành "ánh trăng loe”,
hay là vì con mắt nhà thơ đang chếnh choáng hơi men mà nhìn ra thế:
Rượu tiếng rằng hay, hay chả mấy
Độ năm ba chén đã say nhè
Bài thơ, ở từng chi tiết, thật khó phân tích cho rành mạch. Xuân Diệu cho bài thơ này là “Sự tổng hợp
nhiều cảnh thuộc nhiều thời điểm”. Nhưng quả là thu ẩm đã truyền được cái linh hồn rất đỗi tĩnh mịch của
xóm làng Việt Nam, vùng đồng bằng Bắc Bộ trong những đêm thu khuya khoắt.
Ba bài thơ là ba bức tranh thu hết sức tiêu biểu cho phong cảnh làng quê Việt Nam được vờn vẽ bằng
những nét thủy mạc hết sức tinh tế và tài hoa không yêu quí quê hương mình, không đặt cả tâm hồn vào
cảnh vật, không thể vẽ nên được những bức tranh chân thật và thú vị đến thế. Nguyễn Khuyến thật xứng
đáng với danh hiệu mà Xuân Diệu đã đặt cho ông: “nhà thơ của làng cảnh Việt Nam”.
Trích: loigiaihay.com
Xem thêm: Video bài giảng môn Văn học