Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

kết luận thanh tra – thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1001.17 KB, 80 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT

----o0o----

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
KHÓA 36 (2010 – 2014)

Đề tài:

KẾT LUẬN THANH TRA – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Giáo viên hướng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

Lâm Bá Khánh Toàn

Lê Thị Nghi
MSSV: 5106164
Lớp:Luật hành chính K36
Cần Thơ, 11/ 2013


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THANH TRA VÀ HOẠT ĐỘNG
THANH TRA............................................................................................................ 3
1.1. Khái quát chung về thanh tra............................................................................................... 3
1.1.1. Khái niệm thanh tra ........................................................................................................ 3
1.1.2. Đặc điểm ......................................................................................................................... 4


1.1.3. Phân loại thanh tra ......................................................................................................... 6
1.2. Khái quát chung về hoạt động thanh tra............................................................................ 10
1.2.1. Khái niệm về hoạt động thanh tra ................................................................................. 10
1.2.2. Đặc điểm hoạt động thanh tra....................................................................................... 11
1.2.3. Các nguyên tắc.............................................................................................................. 11
1.2.4. Hành vi bị cấm trong hoạt động thanh tra .................................................................... 17
1.3. Sơ lược về quy trình thanh tra ........................................................................................... 18
1.3.1. Chuẩn bị thanh tra........................................................................................................ 18
1.3.2. Tổ chức thực hiện thanh tra.......................................................................................... 21
1.3.3. Kết thúc thanh tra ......................................................................................................... 22
1.4. Vai trò của hoạt động thanh tra ......................................................................................... 24
1.5. Các chủ thể trong hoạt động thanh tra .............................................................................. 26
1.5.1. Chủ thể thực hiện hoạt động thanh tra ......................................................................... 26
1.5.2. Chủ thể là đối tượng thanh tra...................................................................................... 28
1.5.3. Người có quyền và nghĩa vụ liên quan.......................................................................... 29

CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ KẾT LUẬN THANH TRA .. 31
2.1. Căn cứ ban hành kết luận thanh tra .................................................................................. 31
2.2. Xây dựng và ban hành kết luận thanh tra ......................................................................... 34
2.3. Công khai kết luận thanh tra.............................................................................................. 37
2.3.1. Vai trò và ý nghĩa của nguyên tắc công khai trong kết luận thanh tra.......................... 41
2.3.2. Chủ thể công khai kết luận thanh tra............................................................................ 44
2.3.3. Hình thức công khai kết luận thanh tra........................................................................ 45
2.3.4. Thời điểm công khai kết luận thanh tra ........................................................................ 46
2.3.5. Địa điểm công khai kết luận thanh tra.......................................................................... 46
2.4. Thực hiện kết luận thanh tra.............................................................................................. 47
2.4.1 Chủ thể thực hiện kết luận thanh tra ............................................................................. 47


2.4.2. Xử lý về vấn đề kết luận, kiến nghị thanh tra................................................................ 48

2.5. Giám sát, kiểm tra kết luận thanh tra ................................................................................ 51
2.5.1. Giám sát về kết luận thanh tra ...................................................................................... 52
2.5.2. Kiểm tra về kết luận thanh tra....................................................................................... 52

CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ CÔNG KHAI, THỰC HIỆN KẾT LUẬN
THANH TRA VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT .... 53
3.1. Hiệu quả của công tác thanh tra trong những năm gần đây ............................................. 53
3.1.1. Về lĩnh vực kinh tế - xã hội ........................................................................................... 54
3.1.2. Về lĩnh vực giải quyết khiếu nại - tố cáo ....................................................................... 56
3.1.3. Về công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng ......................................................... 59
3.2. Thực tiễn và giải pháp về việc công khai kết luận thanh tra ............................................. 62
3.2.1. Những khó khăn, vướng mắc trong việc công khai kết luận thanh tra ......................... 62
3.2.2. Giải pháp, kiến nghị trong việc công khai kết luận thanh tra ....................................... 64
3.3. Một số tồn tại, hạn chế và giải pháp trong việc thực hiện kết luận thanh tra ................... 67
3.3.1. Khó khăn, hạn chế về việc thực hiện kết luận thanh tra ............................................... 67
3.3.2. Một số giải pháp đảm bảo thi hành các kết luận, kiến nghị thanh tra .......................... 69

KẾT LUẬN ............................................................................................................. 75


Kết luận thanh tra – Thực trạng và giải pháp
LỜI NÓI ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài
Trong quá trình phát triển của một đất nước thì quyền lực của Nhà nước luôn

gắn liền với quá trình đó, đi đôi với quyền lực nhà nước là chức năng quản lý nhà
nước. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và thanh tra chính là một chức năng
của quản lý đồng thời cũng là công cụ quản lý hữu hiệu của Nhà nước. “Ở đâu có

quyền lực thì ở đó có thanh tra”. Hoạt động thanh tra là một hoạt động không thể
thiếu trong hoạt động quản lý nhà nước, đảm bảo pháp luật được thực thi nghiêm
chỉnh nhưng để đảm bảo được điều đó thì công tác thanh tra phải thục hiện tốt, đặc
biệt là giai đoạn kết luận thanh tra.
Kết luận thanh tra là một khâu quan trọng trong hoạt động thanh tra, là cơ sở
để Đoàn thanh tra, người ra quyết định thanh tra thực hiện quyền kết luận, kiến nghị
trong hoạt động thanh tra. Kết luận thanh tra được xây dựng dựa trên cơ sở báo cáo
kết quả thanh tra, ý kiến giải trình của đối tượng thanh tra và ý kiến của các cơ quan,
đơn vị liên quan. Theo quy định của pháp luật, kết luận thanh tra phải được công khai
theo các hình thức được pháp luật quy định. Đây là nguyên tắc quan trọng trong hoạt
động thanh tra - hoạt động thanh tra phải đảm bảo yêu cầu công khai, dân chủ.
Tuy nhiên trong thời gian qua, việc thực hiện công khai kết luận vẫn còn những
tồn tại, hạn chế như: các cơ quan thanh tra chưa thực hiện việc cung cấp thông tin đầy
đủ, kịp thời về kết quả hoạt động của các Đoàn thanh tra cho các cơ quan thông tấn,
báo chí; việc công bố kết luận thanh tra tại nơi được thanh tra rất hạn chế…Ngoài ra,
quy định của pháp luật hiện nay còn thiếu thống nhất, chưa rõ ràng có điểm mâu thuẫn
nhất là việc phân định kết luận thanh tra thuộc loại tài liệu “mật”, hay “không mật”.
Bên cạnh vấn đề công khai kết luận thanh tra thì việc thực hiện kết luận thanh tra cũng
tồn tại những khó khăn. Thực tiễn theo dõi nhận thấy không phải cuộc thanh tra nào
cũng được đối tượng chấp hành thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các nội dung quyết định
xử lý, còn về phía cơ quan nhà nước có thẩm quyền chưa thật sự kiên quyết trong chỉ
đạo, tổ chức thực hiện xử lý...
Để làm rõ và tìm hiểu sâu hơn nữa những quy định của pháp luật về việc công
khai kết luận thanh tra và thực hiện kết luận thanh tra là hết sức cần thiết. Vì vậy,
người viết quyết định chọn đề tài “Kết luận thanh tra – Thực trạng và giải pháp” để
làm luận văn tốt nghiệp.

GVHD: Lâm Bá Khánh Toàn

Trang 1


SVTH: Lê Thị Nghi


Kết luận thanh tra – Thực trạng và giải pháp
2.

Mục tiêu nghiên cứu đề tài
Trọng tâm của đề tài này người viết nghiên cứu trong các quy định của pháp
luật về kết luận thanh tra bao gồm việc công khai và thực hiện kết luận thanh tra theo
quy định hiện hành tại Luật Thanh tra và Nghị định 86/2011/NĐ-CP. Qua việc phân
tích các quy định của pháp luật để tìm ra những vướng mắc còn tồn tại và đưa ra
những hướng giải quyết. Đồng thời đưa ra một số kiến nghị đối với việc công khai và
thực hiện kết luận thanh tra. Qua những nghiên cứu này góp phần hoàn thiện pháp
luật, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động trong công tác thanh tra, tăng cường công
tác phòng, chống các hành vi tham nhũng.
3.

Phạm vi nghiên cứu đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu quy định của pháp luật về kết luận thanh tra, công
khai kết luận thanh tra và việc thực hiện kết luận thanh tra. Đồng thời người viết tìm
hiểu thực trạng của quá trình công khai và thực hiện kết luận thanh tra trên một số lĩnh
vực cụ thể như kinh tế, xã hội…
4.

Phương pháp nghiên cứu đề tài
Nhằm để hoàn thiện bài viết một cách tốt hơn, người viết đã vận dụng một số
phương pháp nghiên cứu để làm cơ sở cho việc nghiên cứu của mình như sau:
 Phương pháp phân tích, tổng hợp các tài liệu có liên quan đến việc công khai
và thực hiện kết luận thanh tra.

 Phương pháp đối chiếu, so sánh các quy định của pháp luật về kết luận thanh
tra trong quá trình công khai và thực hiện kết luận thanh tra.
5.

Kết cấu của đề tài
Trong đề tài này ngoài Lời mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham
khảo thì kết cấu đề tài gồm ba chương:
Chương 1: Khái quát chung về thanh tra và hoạt động thanh tra
Chương 2: Quy định của pháp luật về kết luận thanh tra
Chương 3: Thực trạng vấn đề công khai, thực hiện kết luận thanh tra và hướng
hoàn thiện pháp luật.

GVHD: Lâm Bá Khánh Toàn

Trang 2

SVTH: Lê Thị Nghi


Kết luận thanh tra – Thực trạng và giải pháp
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THANH TRA VÀ HOẠT ĐỘNG THANH TRA
1.1. Khái quát chung về thanh tra
1.1.1. Khái niệm thanh tra
Tùy theo từng góc độ, thanh tra được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau điển
hình có một số cách hiểu như sau:
Theo tiếng Latinh, thanh tra có nghĩa là “nhìn vào bên trong”, chỉ một sự kiểm
tra, xem xét từ bên ngoài đối với hoạt động của một đối tượng nhất định;
Đối với Từ điển tiếng Việt, “Thanh tra là kiểm soát, xem xét tại chỗ việc làm
của địa phương, cơ quan, xí nghiệp”;

Còn Từ điển pháp luật Anh - Việt, thanh tra là “sự kiểm soát, kiểm kê đối với
đối tượng bị thanh tra”1;
Từ điển Luật học thì quy định, thanh tra "là sự tác động của chủ thể đến đối
tượng đã và đang thực hiện thẩm quyền được giao nhằm đạt được mục đích nhất
định”2.
Ngoài ra, thanh tra còn được hiểu là một chức năng thiết yếu của quản lý nhà
nước, là hoạt động kiểm tra, xem xét, đánh giá, xử lý của cơ quan quản lý nhà nước
đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân;
được thực hiện bởi một cơ quan chuyên trách theo một trình tự, thủ tục do pháp luật
quy định nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, phát
hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị các biện
pháp khắc phục; phát huy nhân tố tích cực, góp phần nâng cao hiệu quả, hiệu lực của
hoạt động quản lý nhà nước, bảo vệ lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân.
Thanh tra thường đi kèm với một chủ thể nhất định: “Người làm nhiệm vụ
thanh tra” “Đoàn thanh tra” và “đặt trong phạm vi quyền hành của một chủ thể nhất
định”3.
Bên cạnh hoạt động quản lý nhà nước là thanh tra còn có kiểm tra và giám sát.
Kiểm tra là một trong những hoạt động quản lý nhà nước, kiểm tra là một khái
niệm rộng, được hiểu theo hai góc độ sau:
Thứ nhất, kiểm tra là hoạt động thường xuyên của cơ quan nhà nước cấp trên
với cơ quan nhà nước cấp dưới trong mối quan hệ trực thuộc nhằm xem xét, đánh giá
mọi hoạt động của cấp dưới khi thấy cần thiết hoặc trong trường hợp cần kiểm tra một
1

Lê Thị Hương, Giáo trình Lý luận và pháp luật về thanh tra, Học viện Hành chính, Hà Nội, 2011, tr.11.
Lê Thị Hương, Giáo trình Lý luận và pháp luật về thanh tra, Học viện Hành chính, Hà Nội, 2011, tr.11.
3
Nguyễn Thái Hồng, Các nguyên tắc trong hoạt động thanh tra – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Viện Khoa
học Thanh tra, phần 1, 2011, tr.2.
2


GVHD: Lâm Bá Khánh Toàn

Trang 3

SVTH: Lê Thị Nghi


Kết luận thanh tra – Thực trạng và giải pháp
vấn đề cụ thể nào đó. Vì vậy khi tiến hành kiểm tra, cơ quan cấp trên hoặc thủ trưởng
cơ quan có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế kỷ luật, bồi thường thiệt hại vật
chất hoặc áp dụng các biện pháp tác động tích cực với đối tượng bị kiểm tra như động
viên khen thưởng về vật chất hoặc tinh thần.
Thứ hai, kiểm tra là hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội như kiểm tra
của các tổ chức xã hội đối với hoạt động hành chính nhà nước. Hoạt động kiểm tra
này ít mang tính quyền lực nhà nước và không trực tiếp áp dụng các biện pháp cưỡng
chế mà chỉ áp dụng các biện pháp tác động mang tính xã hội.
Còn giám sát là hoạt động của các cơ quan quyền lực nhà nước, các cơ quan tư
pháp, các tổ chức xã hội và mọi công dân nhằm đảm bảo sự tuân thủ nghiêm chỉnh
pháp luật trong quản lý nhà nước và quản lý xã hội. Như vậy, hoạt động giám sát chủ
yếu được thực hiện ngoài quan hệ trực thuộc theo chiều dọc; hoạt động này được tiến
hành bởi Quốc Hội, HĐND các cấp, các cơ quan tư pháp và toàn thể nhân dân thông
qua hoạt động thực hiện chức năng, thẩm quyền do pháp luật qui định.
1.1.2. Đặc điểm
Thanh tra là nội dung không thể thiếu của quản lý nhà nước, là giai đoạn cuối
cùng trong chu trình quản lý, có vai trò kiểm định, đánh giá hiệu quả của quản lý nhà
nước. Chính vì vậy, trong hoạt động quản lý nhà nước phải có thanh tra và thanh tra
phải phục vụ cho yêu cầu quản lý nhà nước. Ở đâu có quản lý nhà nước thì ở đó phải
có thanh tra. Quản lý nhà nước mà không có thanh tra sẽ dẫn tới quan liêu và xa rời
thực tiễn. Do đó, thanh tra mang những đặc điểm sau:

 Tính quyền lực nhà nước
Là một chức năng của quản lý nhà nước, thanh tra phải thể hiện như một tác
động tích cực nhằm thực hiện quyền lực của chủ thể quản lý đối với đối tượng quản
lý. Tính quyền lực nhà nước của hoạt động thanh tra gắn bó chặt chẽ với tính quyền
uy - phục tùng - một đặc tính quan trọng của quản lý nhà nước. Nói về quyền lực nhà
nước trong quá trình thanh tra cũng có nghĩa là xác định về mặt pháp lý tính chất nhà
nước của tổ chức thanh tra. Đối với các quốc gia trên thế giới, chủ thể tiến hành thanh
tra luôn là cơ quan nhà nước, dù mô hình tổ chức thanh tra có khác nhau. Vì vậy,
thanh tra phải được nhà nước sử dụng như một công cụ có hiệu quả trong quá trình
quản lý, bởi theo Lênin, thanh tra mà thiếu quyền lực là thanh tra suông. Tính quyền
lực nhà nước của hoạt động thanh tra được thể hiện ở những mặt sau đây:
- Ra các quyết định bắt buộc thực hiện đối với các đối tượng bị thanh tra về
những vấn đề đã bị thanh tra phát hiện và xử lý;

GVHD: Lâm Bá Khánh Toàn

Trang 4

SVTH: Lê Thị Nghi


Kết luận thanh tra – Thực trạng và giải pháp
- Yêu cầu cấp có thẩm quyền giải quyết đề nghị của thanh tra; yêu cầu truy cứu
trách nhiệm pháp lý đối với những người vi phạm pháp luật;
- Trong những trường hợp cần thiết, trực tiếp áp dụng các biện pháp cưỡng chế
nhà nước.
Ngoài ra, tính quyền lực nhà nước của thanh tra còn được cụ thể hoá ở chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng tổ chức thanh tra; phương thức tiến hành thanh
tra; xử lý kết quả thanh tra; trong mối quan hệ giữa cơ quan thanh tra với đối tượng
thanh tra cũng như trong sự phối hợp giữa các tổ chức thanh tra nhà nước theo cấp

hành chính và theo ngành, lĩnh vực. Hoạt động thanh tra đòi hỏi phải sử dụng đồng
bộ. Tính quyền lực nhà nước trên tất cả các lĩnh vực, có như vậy mới phát huy hiệu
quả của thanh tra.
 Tính khách quan
Bản chất của thanh tra là xem xét, đánh giá một cách khách quan việc thực hiện
chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, kế hoạch nhà nước của các cơ quan, tổ chức và cá
nhân nhằm đưa ra kết luận đúng, sai, đánh giá ưu, khuyết điểm, phát huy nhân tố tích
cực, phòng ngừa, xử lý vi phạm góp phần bảo vệ lợi ích của nhà nước, xã hội, các
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Vì thế, hoạt động thanh tra phải mang tính
khách quan. Tính khách quan của hoạt động thanh tra được biểu hiện ở chỗ mọi hoạt
động thanh tra đều dựa trên cơ sở pháp luật và phải tuân theo pháp luật. Pháp luật về
nguyên nghĩa là ý chí của giai cấp cầm quyền (ý chí nhà nước). Nhà nước đặt ra pháp
luật và pháp luật là công cụ để nhà nước thực hiện quản lý xã hội. Theo đó, mọi hoạt
động của cơ quan nhà nước nói chung và hoạt động của thanh tra nói riêng đều phải
dựa trên cơ sở pháp luật, bởi nếu hoạt động thanh tra mà không dựa trên cơ sở pháp
luật thì nó sẽ mất đi tính công minh, ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý nhà nước.
 Tính độc lập tương đối
Tính độc lập tương đối là đặc điểm vốn có, xuất phát từ bản chất của thanh tra.
Khác với hoạt động kiểm tra thường do bản thân các cơ quan quản lý nhà nước tự tiến
hành, hoạt động thanh tra thường được tiến hành bởi một cơ quan chuyên trách. Vì
vậy, khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, ngoài việc đảm bảo sự phối kết hợp
nhịp nhàng với các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước, hoạt động thanh tra còn có
tính độc lập tương đối trong quá trình thực thi nhiệm vụ. Điều này được thể hiện ở
chỗ, các tổ chức thanh tra được phép tự mình tổ chức các cuộc thanh tra trên các lĩnh
vực kinh tế - xã hội theo thẩm quyền đã được pháp luật quy định. Trên cơ sở kết quả
thanh tra, ra các kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý theo các quy định của pháp luật
về thanh tra, chịu trách nhiệm về quyết định thanh tra của mình.

GVHD: Lâm Bá Khánh Toàn


Trang 5

SVTH: Lê Thị Nghi


Kết luận thanh tra – Thực trạng và giải pháp
Tính độc lập của thanh tra chỉ là tương đối bởi vì, hoạt động thanh tra ngoài
việc căn cứ vào pháp luật, chính sách hiện hành còn xuất phát từ thực tế cuộc sống,
phải đặt sự vật, hiện tượng trong sự phát triển biện chứng với quan điểm khoa học,
khách quan, lịch sử, cụ thể. Tính độc lập của hoạt động thanh tra cũng khác với tính
độc lập trong xét xử của toà án. Đối với thanh tra xem xét mọi việc không chỉ căn cứ
vào tính hợp pháp mà còn căn cứ vào tính hợp lý; trong khi đó hoạt động xét xử của
toà án độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Bên cạnh đó, không phải mọi hoạt động
thanh tra đều mang tính tài phán; còn hoạt động của toà án đều mang tính chất tài
phán (xét xử). Trong hoạt động thanh tra, về nguyên tắc, người có quyền quyết định
cuối cùng trong việc xử lý kết quả thanh tra là thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước;
còn trong hoạt động xét xử, người có thẩm quyền quyết định cuối cùng là Hội đồng
xét xử.
 Thanh tra luôn gắn với quản lý nhà nước
Quản lý nhà nước và thanh tra có điểm chung là nhân danh quyền lực nhà nước
thực hiện sự tác động lên các đối tượng quản lý. Hơn nữa, với tư cách là một chức
năng thiết yếu của quản lý nhà nước, thanh tra gắn liền với hoạt động quản lý nhà
nước. Như vậy, quản lý nhà nước và thanh tra có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Thanh tra chỉ xuất hiện khi có nhà nước và ở đâu có quản lý nhà nước thì ở đó có
thanh tra. Trong mối quan hệ này, quản lý nhà nước giữ vai trò chủ đạo, chi phối hoạt
động của thanh tra. Hơn nữa, hoạt động chấp hành của quản lý nhà nước thường bao
hàm cả sự điều hành, cho nên trong quá trình chấp hành các văn bản pháp luật đòi hỏi
phải có sự kiểm tra nghiêm ngặt của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tuy nhiên,
xét về mặt cơ cấu, chức năng của quản lý thì thanh tra chỉ là phương tiện, công cụ để
quản lý nhà nước.

Ngoài ra, với tư cách là một khâu trong chu trình quản lý, thanh tra bị ràng
buộc, chế ước bởi quản lý nhưng đồng thời lại tác động trở lại, góp phần điều chỉnh
cách thức, phương pháp quản lý của chủ thể quản lý. Nhờ có thanh tra mà mục đích
của quản lý được đảm bảo. Thực tế cho thấy rằng, một thể chế hành chính và cơ chế
quản lý nhà nước sẽ không đầy đủ và kém hiệu quả nếu thiếu thanh tra. Hoạt động có
tính hiệu quả của thanh tra sẽ ngăn chặn được nguy cơ biến dạng, tuỳ tiện, thiếu kỷ
cương trong hoạt động của bộ máy nhà nước.
1.1.3. Phân loại thanh tra
Hệ thống cơ quan thanh tra nhà nước là một bộ phận cấu thành của bộ máy nhà
nước bao gồm một hệ thống các cơ quan thanh tra được thành lập từ trung ương đến
địa phương (Thanh tra Chính phủ, Thanh tra Bộ, Thanh tra cấp tỉnh, Thanh tra cấp

GVHD: Lâm Bá Khánh Toàn

Trang 6

SVTH: Lê Thị Nghi


Kết luận thanh tra – Thực trạng và giải pháp
huyện, Thanh tra Sở) để xem xét, đánh giá, xử lý đối với việc thực hiện chính sách,
pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự quản lý; kiến nghị các biện
pháp khắc phục những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật nhằm góp
phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ
quan, tổ chức, cá nhân.
Thanh tra nhà nước là hoạt động xem xét, đánh giá, xử lý theo trình tự, thủ tục
do pháp luật quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với việc thực hiện
chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Thanh tra
nhà nước bao gồm thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành.4
Theo quy định của Luật Thanh tra năm 2010, giữa thanh tra hành chính và

thanh tra chuyên ngành có sự khác nhau cơ bản, nhất là về đối tượng thanh tra, trình
tự, thủ tục thanh tra và hậu quả pháp lý sau thanh tra.
Thanh tra hành chính là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trực thuộc trong việc thực hiện chính sách,
pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn được giao.5
Cụ thể, thanh tra hành chính là thanh tra việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
của cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức thuộc phạm vi quản lý của Thủ trưởng cơ
quan quản lý nhà nước cùng cấp, nếu phát hiện có vi phạm thì kiến nghị Thủ trưởng
cơ quan quản lý nhà nước xử lý. Nói khái quát, thanh tra hành chính là hoạt động
thanh tra từ trên xuống, hướng vào đối tượng bên trong bộ máy nhằm mục tiêu chung
là đánh giá, xem xét trách nhiệm của bộ máy quản lý.
Về mặt chủ thể, hoạt động thanh tra hành chính do Thanh tra Chính phủ và các
cơ quan Thanh tra nhà nước khác (Thanh tra bộ, thanh tra cấp tỉnh, Thanh tra sở,
thanh tra cấp huyện) quyết định và tiến hành. Ngoài ra, đối với những vụ việc phức
tạp, liên quan đến trách nhiệm quản lý của nhiều cơ quan, đơn vị hoặc đối với những
vụ việc đặc biệt phức tạp, liên quan đến trách nhiệm quản lý của nhiều cấp, nhiều
ngành thì Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước (Bộ trưởng, Chủ tịch Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh, Giám đốc sở, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện) ra quyết định thanh
tra và thành lập Đoàn thanh tra hoặc Đoàn thanh tra liên ngành để thực hiện nhiệm vụ
thanh tra.
Thanh tra chuyên ngành là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành

4
5

Khoản 1 Điều 3 Luật Thanh tra năm 2010.
Khoản 2 Điều 3 Luật Thanh tra năm 2010.

GVHD: Lâm Bá Khánh Toàn


Trang 7

SVTH: Lê Thị Nghi


Kết luận thanh tra – Thực trạng và giải pháp
pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn – kỹ thuật, quy tắc quản lý thuộc
ngành, lĩnh vực đó.6
Khác với thanh tra hành chính, thanh tra chuyên ngành là hoạt động thanh tra
việc thực hiện pháp luật chuyên ngành, việc chấp hành các quy định về tiêu chuẩn kỹ
thuật, chuyên môn, nghiệp vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi quản lý
nhà nước của bộ, ngành, trừ công việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn mang tính chất
công vụ. Đây là hoạt động thanh tra hướng ra ngoài bộ máy, ra ngoài xã hội nhằm
đảm bảo trật tự kỷ cương, pháp luật phục vụ yêu cầu quản lý nhà nước theo ngành,
lĩnh vực. Hoạt động thanh tra chuyên ngành được tiến hành thường xuyên, nếu phát
hiện có vi phạm thì xử phạt hành chính theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm
hành chính hoặc có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật
hình sự.
Không như thanh tra hành chính, hoạt động thanh tra chuyên ngành chỉ do cơ
quan nhà nước có thẩm quyền theo ngành, lĩnh vực quyết định và thực hiện. Cụ thể là,
Chánh Thanh tra bộ, Chánh Thanh tra sở, Thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện
chức năng thanh tra chuyên ngành ra quyết định thanh tra và thành lập Đoàn thanh tra
để thực hiện quyết định thanh tra. Khi xét thấy cần thiết, Bộ trưởng, Giám đốc sở ra
quyết định thanh tra và thành lập Đoàn thanh tra.7
 Căn cứ vào phạm vi, quy mô của cuộc thanh tra có: Thanh tra diện rộng, thanh
tra diện hẹp.
Thanh tra diện rộng là hình thức thanh tra thường được áp dụng khi tiến hành
thanh tra một cơ quan, một ngành hay một lĩnh vực quản lý để đánh giá kết quả hoạt
động một cách tổng thể, toàn diện trong việc thực hiện chủ trương, chính sách, pháp

luật hoặc cơ chế quản lý để phát hiện, chấn chỉnh những yếu kém, sai phạm, đổi mới
hoạt động nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước của cơ quan, một
ngành hay lĩnh vực đó.
Thanh tra diện rộng có tác dụng không chỉ để chấn chỉnh, đổi mới trực tiếp một
cơ quan, một ngành hay một lĩnh vực mà còn có tác dụng rất quan trọng để các cơ
quan, người có thẩm quyền chỉ đạo, điều hành, quản lý nhà nước ở tầm vĩ mô.8
Thanh tra diện hẹp là hình thức thanh tra chỉ tập trung vào một chuyên đề hoặc
một vụ việc cụ thể nhất định nào đó để phát hiện, chấn chỉnh những yếu kém, sai
phạm trong chuyên đề, vụ việc đó nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà
nước của cơ quan, của ngành, lĩnh vực.
6

Khoản 3 Điều 3 Luật Thanh tra năm 2010.
Khoản 1 Điều 51 Luật Thanh tra năm 2010.
8
Lê Thị Hương, Giáo trình Lý luận và pháp luật về thanh tra, Học viện Hành chính, Hà Nội, 2011, tr 21.
7

GVHD: Lâm Bá Khánh Toàn

Trang 8

SVTH: Lê Thị Nghi


Kết luận thanh tra – Thực trạng và giải pháp
Khác với thanh tra diện rộng, thanh tra chuyên đề, vụ việc có phạm vi, quy mô
hẹp hơn và có đối tượng, nội dung cụ thể, rõ ràng hơn, tính chất của vụ việc rõ hơn. Vì
thế, cơ quan (người có thẩm quyền thanh tra) cũng dễ dàng hơn trong việc xác định
trọng tâm, trọng điểm cần thanh tra và thời gian thanh tra cũng thường ngắn hơn.

 Căn cứ vào chương trình thanh tra có: Thanh tra theo kế hoạch, thanh tra
thường xuyên, thanh tra đột xuất.
Thanh tra theo kế hoạch là hình thức thanh tra được tiến hành theo kế hoạch
đã được phê duyệt9. Kế hoạch thanh tra là văn bản xác định nhiệm vụ chủ yếu về
thanh tra của cơ quan thực hiện chức năng thanh tra trong 01 năm do Thủ trưởng cơ
quan thực hiện chức năng thanh tra xây dựng để thực hiện Định hướng chương trình
thanh tra và yêu cầu quản lý của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp10.
Thanh tra thường xuyên được tiến hành trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của cơ
quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành11.
Thanh tra đột xuất là hình thức thanh tra được tiến hành khi phát hiện cơ
quan, tổ chức, cá nhân có dấu hiệu vi phạm pháp luật hoặc theo yêu cầu của việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo hoặc do thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền
quyết định12.
Thanh tra đột xuất thường gắn với những vấn đề cấp thiết, bức xúc nhằm kịp
thời phát hiện, chấn chỉnh những sai phạm để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước.
 Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của hoạt động thanh tra có: Thanh tra kinh tế
- xã hội; thanh tra việc giải quyết khiếu nại, tố cáo; thanh tra công vụ.
Thanh tra kinh tế - xã hội là hình thức thanh tra việc chấp hành chính sách,
pháp luật trong lĩnh vực kinh tế, xã hội nhằm kịp thời phát hiện, chấn chỉnh những
yếu kém, sai phạm để nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế và xã
hội13.
Thanh tra việc giải quyết khiếu nại, tố cáo là hình thức thanh tra được tiến
hành đối với cơ quan, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo để kịp thời
phát hiện, chấn chỉnh những yếu kém, sai phạm trong công tác giải quyết khiếu nại, tố
cáo nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nhà nước, của cá nhân, cơ quan, tổ
chức và nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước14.

9

Khoản 2 Điều 37 Luật Thanh tra năm 2010.

Khoản 5 Điều 3 Luật Thanh tra năm 2010.
11
Khoản 3 Điều 37 Luật Thanh tra năm 2010.
12
Khoản 4 Điều 37 Luật Thanh tra năm 2010.
13
Lê Thị Hương, Giáo trình Lý luận và pháp luật về thanh tra, Học viện Hành chính, Hà Nội, 2011, tr 23.
14
Lê Thị Hương, Giáo trình Lý luận và pháp luật về thanh tra, Học viện Hành chính, Hà Nội, 2011, tr 24.
10

GVHD: Lâm Bá Khánh Toàn

Trang 9

SVTH: Lê Thị Nghi


Kết luận thanh tra – Thực trạng và giải pháp
Thanh tra việc giải quyết khiếu nại, tố cáo có thể tiến hành đối với một hoặc
một số hoặc tất cả các nội dung của quy trình giải quyết khiếu nại, tố cáo như: công
tác tổ chức tiếp công dân; tiếp nhận và xử lý đơn, thư khiếu nại, tố cáo; giải quyết
khiếu nại, tố cáo; thực hiện quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định xử lý tố cáo và
công tác quản lý nhà nước về khiếu nại, tố cáo.
Luật Cán bộ, công chức không đưa ra định nghĩa “thanh tra công vụ” mà quy
định trực tiếp (mô tả) phạm vi của “thanh tra công vụ” bằng việc quy định về thanh
tra công vụ tại Điều 74:
- Thanh tra việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức theo quy
định của Luật này và các quy định khác có liên quan.
- Thanh tra việc thực hiện tuyển dụng, bổ nhiệm, đào tạo, bồi dưỡng, điều động,

luân chuyển, biệt phái, miễn nhiệm, đánh giá, thôi việc, nghỉ hưu, khen thưởng, xử lý
kỷ luật công chức, đạo đức, văn hóa giao tiếp trong thi hành công vụ của công chức và
các điều kiện bảo đảm cho hoạt động công vụ.
1.2. Khái quát chung về hoạt động thanh tra
1.2.1. Khái niệm về hoạt động thanh tra
Hoạt động thanh tra là chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý nhà nước, là
một trong ba yếu tố cấu thành nên sự lãnh đạo, quản lý đó là: Ban hành quyết định, tổ
chức thực hiện quyết định; và thanh tra, kiểm tra việc thực hiện quyết định. Thực chất
thanh tra là việc xem xét tình hình thực tế để đánh giá, nhận xét và kết luận phát huy
nhân tố tích cực, phòng ngừa xử lý các vi phạm, góp phần thúc đẩy hoàn thành nhiệm
vụ, hoàn thiện cơ chế quản lý, tăng cường pháp chế nhà nước, bảo vệ quyền lợi, lợi
ích hợp pháp của các cơ quan, tổ chức và công dân, bảo vệ lợi ích quốc gia.
Luật Thanh tra năm 2010 cũng có quy định “Hoạt động thanh tra do Đoàn
thanh tra, thanh tra viên và người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên
ngành thưc hiện” (Điều 6).
Có thể thấy, hoạt động thanh tra là phương thức thể hiện vị trí vai trò và chức
năng của các cơ quan thanh tra nhà nước. Hoạt động thanh tra theo quy định của pháp
luật bao gồm: xây dựng chương trình, kế hoạch thanh tra; quyết định việc thanh tra,
tiến hành thanh tra trên thực tế; báo cáo kết quả thanh tra, kết luận thanh tra và xử lý
kết luận thanh tra. Hoạt động thanh tra được các cơ quan nhà nước tiến hành trên cơ
sở hoạt động thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành. Các cơ quan thanh tra
tiến hành trên cơ sở chương trình, kế hoạch thanh tra đã được thủ trưởng cơ quan hành
chính nhà nước cùng cấp phê duyệt hoặc khi có dấu hiệu vi phạm pháp luật, theo yêu
cầu của thủ trưởng cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao (thanh tra đột xuất).

GVHD: Lâm Bá Khánh Toàn

Trang 10

SVTH: Lê Thị Nghi



Kết luận thanh tra – Thực trạng và giải pháp
Như vậy, hoạt động thanh tra không chỉ giới hạn là hoạt động thanh tra kinh tế
- xã hội được thực hiện bởi các cơ quan thanh tra nhà nước mà hoạt động thanh tra
còn được thể hiện dưới nhiều hình thức như thanh tra trách nhiệm giải quyết khiếu
nại, tố cáo; thanh tra trách nhiệm việc thực hiện pháp luật về thanh tra, thực hiện pháp
luật về phòng, chống tham nhũng.
1.2.2. Đặc điểm hoạt động thanh tra
Thanh tra được coi là công cụ có hiệu quả của Nhà nước trong việc thực hiện
chức năng của quản lý. Do đó, quyền lực của thanh tra là một bộ phận không thể thiếu
của quyền lực nhà nước, chỉ có thông qua hoạt động thanh tra, quyền lực nhà nước
mới được thực hiện, nền dân chủ nhân dân mới được bảo đảm. Vì vậy, hoạt động
thanh tra mang những đặc điểm sau:
Thứ nhất, hoạt động thanh tra là hoạt động tổng hợp và đa dạng gắn với mọi
mặt hoạt động kinh tế - xã hội, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham
nhũng.
Thứ hai, thanh tra là loại hình hoạt động thường phải đấu tranh với những vi
phạm trong việc chấp hành pháp luật nói chung và các quyết định quản lý, quy chế nội
bộ của các cơ quan đơn vị.
Thứ ba, tổ chức và các cá nhân được thanh tra vừa là đối tượng thanh tra vừa
là chủ thể quản lý.
1.2.3. Các nguyên tắc
Có thể hiểu, “Nguyên tắc trong hoạt động thanh tra là những tư tưởng chủ đạo,
những tiêu chuẩn hành động mà các cơ quan nhà nước, các tổ chức, công dân cũng
như đối tượng của thanh tra phải tuân theo trong quá trình thanh tra”15.
Các nguyên tắc trong hoạt động thanh tra chỉ đạo và chi phối các mối quan hệ
trong thanh tra nhằm đảm bảo cho hoạt động thanh tra đạt được mục đích đề ra. Theo
Điều 7 Luật Thanh tra 2010 xác định nguyên tắc hoạt động thanh tra bao gồm: “Tuân
theo pháp luật; bảo đảm chính xác, khách quan, trung thực, công khai, dân chủ, kịp

thời; không trùng lặp về phạm vi, đối tượng, nội dung, thời gian thanh tra giữa các cơ
quan thực hiện chức năng thanh tra; không làm cản trở hoạt động bình thường của cơ
quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra”.
Như vậy, quy định trên là những tư tưởng chỉ đạo làm nền tảng cơ bản, mang
tính xuyên suốt đối với hoạt động thành tra được quy định trên cơ sở kế thừa và phát
huy những nguyên tắc của hoạt động thanh tra đã được Đảng và Nhà nước xác định từ
trước tới nay. Theo đó, các nguyên tắc cơ bản của thanh tra bao gồm:
15

Lê Thị Hương, Giáo trình Lý luận và pháp luật về thanh tra, Học viện Hành chính, Hà Nội, 2011, tr.31.

GVHD: Lâm Bá Khánh Toàn

Trang 11

SVTH: Lê Thị Nghi


Kết luận thanh tra – Thực trạng và giải pháp
1.2.3.1. Bảo đảm pháp chế trong việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật của
hoạt động thanh tra
Một trong những nguyên tắc cơ bản của hệ thống chính trị và bộ máy nhà nước
ta là nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nguyên tắc pháp chế là nhằm bảo đảm
cho pháp luật được tuân thủ một cách tuyệt đối, không có một thực thể nào đứng trên
pháp luật hay đứng ngoài pháp luật. Nguyên tắc pháp chế phải được thể hiện ở việc
chấp hành pháp luật cả từ phía các cơ quan nhà nước và từ phía các cá nhân, tổ chức
là đối tượng chịu sự quản lý của Nhà nước.
Thanh tra là hoạt động kiểm tra, xem xét, đánh giá, xử lý việc thực hiện quy
định pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực
hiện theo trình tự pháp luật quy định nhằm phục vụ cho hoạt động quản lý nhà nước,

bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Vì vậy, yêu cầu trước tiên đối với hoạt động thanh tra là phải tuân theo pháp
luật. Nguyên tắc này thể hiện quan điểm của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền
Việt Nam xã hội chủ nghĩa, là Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân, “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật”. Thanh tra là công cụ quản lý
hữu hiệu của Nhà nước, vì về mặt lý thuyết “Ở đâu có quyền lực thì ở đó có thanh
tra”. Vì vậy, hoạt động thanh tra phải được tiến hành trước hết bởi các quy định của
pháp luật; phải tuân thủ các quy định của pháp luật - Luật Thanh tra và các văn bản
pháp luật có liên quan.
Để bảo đảm nguyên tắc pháp chế trong việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật,
nội dung của hoạt động thanh tra phải bảo đảm việc tuân thủ đúng quy định của pháp
luật có liên quan:
Thứ nhất, hoạt động thanh tra phải được thực hiện theo phương thức thành lập
Đoàn thanh tra hoặc thông qua thanh tra viên, người được giao thực hiện nhiệm vụ
thanh tra chuyên ngành tiến hành thanh tra độc lập.
Thứ hai, thời hạn mỗi cuộc thanh tra phải tuân thủ trình tự, thủ tục pháp luật
quy định.16
Thứ ba, người có thẩm quyền phê duyệt kế hoạch thanh tra hàng năm và quyết
định các cuộc thanh tra cụ thể.
Thứ tư, Đoàn thanh tra có Trưởng đoàn và các thành viên hoạt động theo nhiệm
vụ, quyền hạn được pháp luật quy định.
Như vậy, bảo đảm việc tuân thủ nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật, về
nguyên tắc hoạt động của Thanh tra là không vi phạm những điều cấm của pháp luật
16

Khoản 1 Điều 45 Luật Thanh tra năm 2010.

GVHD: Lâm Bá Khánh Toàn

Trang 12


SVTH: Lê Thị Nghi


Kết luận thanh tra – Thực trạng và giải pháp
khi thanh tra, kiểm tra, bảo đảm cho đối tượng bị thanh tra nghiêm chỉnh chấp hành
pháp luật một cách nghiêm chỉnh.
Tuy nhiên, do những nguyên nhân khác nhau, không phải lúc nào, ở đâu pháp
luật cũng được thực thi nghiêm chỉnh. Hành vi vi phạm pháp luật đã, đang và sẽ còn là
một vấn đề thực tế cần được giải quyết một cách liên tục, nhanh chóng. Để giải quyết,
Nhà nước đã áp dụng các biện pháp từ giáo dục, thuyết phục đến cưỡng chế hành vi
của đối tượng vi phạm, cho nên mọi biện pháp thực hiện đều cần đến công tác thanh
tra. Chỉ có qua thanh tra mới có thể đánh giá được một cơ quan, tổ chức, cá nhân nào
đó chấp hành pháp luật như thế nào, có vi phạm pháp luật hay không, vi phạm ở mức
độ nào... Từ đó mới có thể đề ra những biện pháp xử lý thích hợp. Do vậy, thanh tra
chính là phương thức bảo đảm pháp chế, ngăn ngừa, phát hiện và xử lý những hành vi
vi phạm pháp luật.
1.2.3.2. Bảo đảm tính chính xác, khách quan, trung thực của hoạt động thanh
tra
Khi xem xét vai trò của thanh tra trong mối quan hệ với kiểm tra, giám sát thực
hiện quyền lực nhà nước và vai trò của thanh tra trong phòng, chống tham nhũng và
giải quyết khiếu nại, tố cáo đã cho thấy:
Thanh tra là chức năng thiết yếu của quản lý nhà nước, đó là hoạt động tự kiểm
tra việc thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật và các quyết định quản lý trong hệ
thống cơ quan hành chính nhà nước các cấp, trên cơ sở hệ thống Thanh tra được tổ
chức theo cơ quan thực hiện chức năng thanh tra: Thanh tra Chính phủ, Thanh tra Bộ,
Thanh tra tỉnh, Thanh tra sở, Thanh tra huyện. Ngoài ra có các cơ quan được giao thực
hiện chức năng thanh tra chuyên ngành. Vì vậy, thanh tra luôn gắn liền với chức năng
pháp lý trong quản lý nhà nước, tuy nhiệm vụ của thanh tra cũng là kiểm tra nhưng
thanh tra hẹp hơn kiểm tra.

Bên cạnh đó, thanh tra được coi là “tai mắt” của cấp trên, có vai trò như một bộ
phận của quản lý nhà nước. Điều này cũng nhằm xác nhận về mặt pháp lý tính chất
nhà nước của tổ chức Thanh tra, do đó, Thanh tra được coi là công cụ có hiệu quả của
Nhà nước trong việc thực hiện chức năng của quản lý. Khi một cơ quan cấp trên ban
hành một chủ trương, chính sách nào đó, thanh tra sẽ giúp cơ quan này biết được việc
triển khai thực hiện chủ trương, chính sách đó ở cấp dưới, mà còn biết được tình hình
những sơ hở, khiếm khuyết hoặc những nội dung quản lý của địa phương chưa sát với
chủ trương, chính sách đó cũng như tình hình thực tế ở địa phương; đồng thời thanh
tra còn giúp cho địa phương kịp thời sửa chữa uốn nắn nếu làm sai hoặc làm chậm.

GVHD: Lâm Bá Khánh Toàn

Trang 13

SVTH: Lê Thị Nghi


Kết luận thanh tra – Thực trạng và giải pháp
Vì vậy, những thông tin thanh tra cung cấp cho cơ quan cấp trên, cho người
lãnh đạo đòi hỏi có độ chính xác, trung thực cao cũng như tính khách quan của đời
sống xã hội. Tuy nhiên, để những thông tin có độ chính xác đó, đòi hỏi thái độ của
người thanh tra viên phải có tính cẩn trọng, tỉ mỉ khi xem xét một cách thấu đáo và
đánh giá vụ việc thanh tra một cách khách quan, trung thực mà không thể áp đặt ý chí
chủ quan của mình vào việc kết luận vụ việc thanh tra.
Theo Hồ Chủ Tịch: “Thái độ của người cán bộ thanh tra phải cẩn thận.
- Nghe không được thiên lệch, nghe một bên, nên nghe người này, nghe người
kia.
- Phải khách quan. Chớ do ý muốn mà suy đoán chủ quan của mình.
- Chống quan liêu: Thanh tra muốn biết, muốn thấy, muốn hiểu rõ sự thật ở cơ
quan, ở địa phương nào đấy phải đến tận nơi nghe ngóng, tìm tòi, chịu khó. Quan liêu

sẽ không làm được nhiệm vụ
Phải cẩn thận khách quan, điều tra, nghiên cữu kỹ lưỡng, chịu khó”17.
Sự phản ánh của thanh tra đòi hỏi tính chính xác, khách quan, song không thể
phản ánh một cách đơn giản tình hình vụ việc thực tế, mà sự phản ánh phải mang tính
chắt lọc, được xem xét thông qua những phân tích, đánh giá cùng với những kiến nghị
đề xuất phù hợp.
1.2.3.3. Bảo đảm tính dân chủ, công khai trong hoạt động thanh tra
Trong Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX cũng đã nhấn mạnh việc
“định kỳ kiểm tra, đánh giá cán bộ, công chức, kịp thời thay thế những cán bộ, công
chức yếu kém và thoái hóa”. Nghị quyết cũng xác định một trong những biện pháp
đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng là phải “tăng cường thanh tra, kiểm tra,
kiểm kê, kiểm soát, bảo đảm tính minh bạch trong việc sử dụng ngân sách nhà nước,
tài sản công, tài chính đảng, đoàn thể, tài chính các doanh nghiệp nhà nước, các quỹ
do nhân dân đóng góp và do nước ngoài viện trợ”.
Theo đó, việc tiến hành thanh tra phải được thực hiện thường xuyên, công khai,
bảo đảm tính minh bạch trong công tác thanh tra, nhất là đối với lĩnh vực tài chính của
các cơ quan, tổ chức Đảng, Nhà nước. Tính công khai, minh bạch phải được thể hiện
ở những nội dung sau18:
Thứ nhất, trong quá trình thanh tra, người tiến hành thanh tra phải thông báo
cho đối tượng thanh tra về những nội dung thanh tra và kết luận thanh tra;
17

Một số văn kiện về công tác thanh tra: Huấn thị của Hồ Chủ Tịch về công tác thanh tra tại Hội nghị cán bộ
thanh tra toàn miền Bắc ngày 19/4/1957, tr 7- 10.
18
Lê Thị Hương, Giáo trình Lý luận và pháp luật về thanh tra, Học viện Hành chính, Hà Nội, 2011, tr.36.

GVHD: Lâm Bá Khánh Toàn

Trang 14


SVTH: Lê Thị Nghi


Kết luận thanh tra – Thực trạng và giải pháp
Thứ hai, phải bảo đảm các quyền của đối tượng thanh tra trong việc giải trình
những nội dung liên quan, khiếu nại, tố cáo về quyết định thanh tra, quyết định xử lý
về thanh tra, hành vi của Trưởng đoàn thanh tra, Thanh tra viên và các thành viên
khác của Đoàn thanh tra, Thủ trưởng cơ quan thanh tra...;
Thứ ba, bảo đảm yêu cầu không làm cản trở hoạt động bình thường của cơ
quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra.
Như vậy, nguyên tắc dân chủ, công khai minh bạch là một trong những nguyên
tắc nhằm bảo đảm cho hoạt động thanh tra nói riêng, hoạt động thanh tra, kiểm tra,
giám sát nói chung thực hiện được mục đích xem xét, đánh giá việc thực hiện chính
sách, pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức cũng như cá nhân, nhằm bảo đảm cho
hoạt động quản lý nhà nước ngày càng tốt hơn, mà không phải là làm cản trở, đình trệ
hoạt động của các cơ quan, tổ chức vị thanh tra. Bên cạnh đó việc xác định nguyên tắc
này còn nhằm ngăn ngừa hạn chế tình trạng thanh tra trùng lặp, kéo dài, sách nhiễu,
gây khó khăn, phiền hà cho đối tượng bị thanh tra.
1.2.3.4. Bảo đảm tính trách nhiệm trong việc phát hiện, xử lý các hành vi vi
phạm pháp luật của các cơ quan, cá nhân thanh tra
Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng: lãnh đạo, chỉ đạo,
điều hành, quản lý mà thiếu sự thanh tra thì đó chính là nguyên nhân của bệnh quan
liêu, dẫn đến tham ô, lãng phí. Ngay từ năm 1945, trong Sắc lệnh số 64-SL của Hồ
Chủ Tịch ký ngày 23/11/1945 về thành lập Ban Thanh tra đặc biệt đã có quy định
quyền hạn của Ban Thanh tra đặc biệt là: “đình chức, bắt giam bất cứ nhân viên nào
trong Uỷ ban nhân dân hay của Chính phủ đã phạm lỗi”. Sắc lệnh số 138b-SL ngày
18/12/1949 về việc thành lập Ban Thanh tra Chính phủ có quy định nhiệm vụ của Ban
là “thanh tra các nhân viên Uỷ ban kháng chiến hành chính và viên chức về phương
diện liêm khiết”. Tại Sắc lệnh số 261-SL ngày 28/3/1956 về việc thành lập Ban Thanh

tra Trung ương của Chính phủ có giao nhiệm vụ “thanh tra việc thực hiện kế hoạch
nhà nước, việc sử dụng, bảo quản tài sản nhà nước, chống phá hoại, tham ô, lãng
phí”.
Luật Thanh tra 2010 cũng quy định trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan nhà
nước (Điều 8): “Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chủ
tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là
cấp tỉnh), Thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Chủ tịch
Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp
huyện), Thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành
trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo hoạt

GVHD: Lâm Bá Khánh Toàn

Trang 15

SVTH: Lê Thị Nghi


Kết luận thanh tra – Thực trạng và giải pháp
động thanh tra, xử lý kịp thời kết luận, kiến nghị thanh tra và phải chịu trách nhiệm
trước pháp luật về hành vi, quyết định của mình”.
Luật Thanh tra năm 2010 đã cụ thể hóa trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá
nhân là đối tượng thanh tra và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong hoạt động
thanh tra tại Điều 10:
1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra có trách nhiệm thực hiện
yêu cầu, kiến nghị, quyết định về thanh tra, có quyền giải trình về nội dung thanh tra,
có quyền và trách nhiệm theo quy định khác của pháp luật.
2. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung thanh
tra phải cung cấp đầy đủ, kịp thời theo yêu cầu của người ra quyết định thanh tra,
Trưởng đoàn thanh tra, Thanh tra viên, người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra

chuyên ngành, cộng tác viên thanh tra, thành viên khác của Đoàn thanh tra và phải
chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực của thông tin, tài liệu đã cung cấp; có
quyền và trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật.
Để thực hiện cơ chế thanh tra, kiểm tra, pháp luật cũng quy định cơ quan thanh
tra trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với cơ quan
công an, Viện kiểm sát, cơ quan, tổ chức hữu quan trong việc phòng ngừa, phát hiện,
xử lý các hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm.
Riêng về Thanh tra nhân dân, Ban Thanh tra nhân dân được thành lập ở xã,
phường, thị trấn do Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã, phường, thị trấn hướng
dẫn tổ chức, chỉ đạo hoạt động. Còn đối với Ban Thanh tra nhân dân được thành lập ở
cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước do Ban chấp
hành Công đoàn cơ sở ở cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đó hướng dẫn tổ chức, chỉ đạo
hoạt động.19
Như vậy, việc phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi sai phạm của
cá nhân, cơ quan có trách nhiệm, của các cá nhân, tổ chức là đối tượng bị quản lý sẽ
bảo đảm trật tự, kỷ cương pháp luật trong hoạt động quản lý. Mặt khác, việc tìm ra
những sơ hở, yếu kém trong công tác quản lý, phát hiện những nội dung chưa phù hợp
với yêu cầu thực tế khách quan, từ đó có các biện pháp sửa đổi, bổ sung, khắc phục
kịp thời có ý nghĩa tích cực trong việc củng cố trật tự, kỷ cương, hoàn thiện cơ chế
quản lý. Tuy nhiên, việc phát hiện, tìm kiếm sai phạm, sơ hở, yếu kém trong quản lý
cũng chưa đủ, mà thanh tra còn phải phát hiện và khẳng định, đồng thời tạo điều kiện
cho những nhân tố mới, cơ chế mới nảy sinh phát triển. Có như vậy thì hiệu quả công

19

Điều 12 Luật thanh tra năm 2010.

GVHD: Lâm Bá Khánh Toàn

Trang 16


SVTH: Lê Thị Nghi


Kết luận thanh tra – Thực trạng và giải pháp
tác quản lý mới đáp ứng được yêu cầu phát triển của thực tiễn, điều này được thể hiện
ở những nội dung sau:
Một là, hoạt động thanh tra (dù được thực hiện bằng phương thức gì, do cơ
quan nào tiến hành) phải thể hiện tính kỷ cương pháp luật. Bởi vì, sự hiện diện của các
cơ quan thanh tra, kiểm tra, giám sát là nhằm nhắc nhở tới mọi đối tượng chịu sự
thanh tra, kiểm tra, giám sát rằng: pháp luật phải được tuân thủ. Sự thanh tra, kiểm tra,
giám sát định kỳ, thường xuyên hay đột xuất luôn tạo ra một “sức ép” thường trực lên
các đối tượng và nhờ đó đã hạn chế sự vi phạm pháp luật. Vì vậy, thanh tra, kiểm tra,
giám sát không chỉ thực hiện chức năng bảo đảm pháp chế mà còn thực hiện chức
năng tìm hiểu, giúp đỡ, định hướng cho các đối tượng thực hiện đúng các quy định
của pháp luật, nhất là đối với một Nhà nước chuyển từ mô hình kinh tế tập trung sang
Nhà nước đảm nhận vai trò dịch vụ công. Khi đó, các cơ quan có chức năng thanh tra,
kiểm tra, giám sát sẽ thực sự trở thành một trong những địa chỉ tin cậy của mọi thành
phần kinh tế để có thể nhận được những khuyến nghị, những chỉ dẫn bảo đảm cho
hoạt động của mình đúng pháp luật.
Hai là, trong quá trình thanh tra, các đánh giá, kết luận và kiến nghị có thể đưa
ra những phân tích sâu sắc, đầy đủ nhất các nguyên nhân, động cơ, mục đích, tính
chất, mức độ của một hành vi vi phạm, song các giải pháp được đưa ra không chỉ
hướng vào việc xử lý hành vi vi phạm pháp luật phát hiện được, mà nó còn có tác
dụng khắc phục các kẽ hở của chính sách, pháp luật, nhằm ngăn ngừa những phát sinh
những vi phạm pháp luật tương tự xảy ra.
Ba là, hoạt động thanh tra dù là loại hình nào cũng luôn luôn có tính định
hướng và tính xây dựng. Vai trò phòng ngừa của thanh tra được đề cập ở đây là vai trò
phòng ngừa mang tính chủ động. Trong rất nhiều trường hợp, thông qua hoạt động
thanh tra mà có thể dự báo được một hành vi vi phạm pháp luật sẽ xảy ra trong tương

lai nếu không có sự chấn chỉnh, không có sự định hướng lại cho các đối tượng một
cách kịp thời.
1.2.4. Hành vi bị cấm trong hoạt động thanh tra
Hoạt động thanh tra đóng vai trò quan trọng trong quá trình quản lý Nhà nước.
Nhưng trong quá trình hoạt động thanh tra có các hành vi bị nghiêm cấm thực hiện:20
Một là, lợi dụng chức vụ, quyền hạn thanh tra để thực hiện hành vi trái pháp
luật, sách nhiễu, gây khó khăn, phiền hà cho đối tượng thanh tra.

20

Điều 13 Luật Thanh tra năm 2010.

GVHD: Lâm Bá Khánh Toàn

Trang 17

SVTH: Lê Thị Nghi


Kết luận thanh tra – Thực trạng và giải pháp
Thanh tra viên và những người có thẩm quyền không được lợi dụng chức vụ,
quyền hạn để thực hiện hành vi trái pháp luật, sách nhiễu, gây khó khăn cho đối tượng
bị thanh tra.
Hai là, thanh tra không đúng thẩm quyền, phạm vi, nội dung thanh tra được
giao.
Ba là, cố ý không ra quyết định thanh tra khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm
pháp luật; kết luận sai sự thật; quyết định, xử lý trái pháp luật; bao che cho cơ quan, tổ
chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật.
Bốn là, tiết lộ thông tin, tài liệu về nội dung thanh tra trong quá trình thanh tra
khi chưa có kết luận chính thức.

Năm là, cung cấp tài liệu, thông tin không chính xác, thiếu trung thực; chiếm
đoạt, tiêu hủy tài liệu, vật chứng liên quan đến nội dung thanh tra.
Sáu là, chống đối, cản trở, mua chuộc, đe dọa, trả thù, trù dập người làm nhiệm
vụ thanh tra, người cung cấp thông tin, tài liệu cho cơ quan thanh tra nhà nước; gây
khó khăn cho hoạt động thanh tra.
Bảy là, can thiệp trái pháp luật vào hoạt động thanh tra, lợi dụng ảnh hưởng của
mình tác động đến người làm nhiệm vụ thanh tra.
Cuối cùng là, đưa, nhận, môi giới hối lộ.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra có trách nhiệm thực hiện yêu
cầu, kiến nghị, quyết định về thanh tra, có quyền giải trình về nội dung thanh tra, có
quyền và trách nhiệm khác theo quy định của Luật Thanh tra năm 2010 và các quy
định khác của pháp luật có liên quan.
1.3. Sơ lược về quy trình thanh tra
Hoạt động thanh tra được tiến hành bởi Đoàn thanh tra, thanh tra viên và người
được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành (gọi tắt là chủ thể thực hiện
hoạt động thanh tra). Hoạt động thanh tra sẽ được tiến hành qua ba giai đoạn như sau
(các giai đoạn này được thể hiện chủ yếu qua hoạt động của Đoàn thanh tra):
1.3.1. Chuẩn bị thanh tra
Đây là giai đoạn trước khi tổ chức thực hiện thanh tra. Chủ thể thực hiện hoạt
động thanh tra chuẩn bị tốt các điều kiện cần thiết sẽ góp phần quan trọng làm cho
việc thanh tra có hiệu quả và hoàn thành được đúng thời hạn quy định.
 Khảo sát, nắm tình hình để quyết định thanh tra
Trước khi ra quyết định thanh tra, trong trường hợp cần thiết, thủ trưởng cơ
quan quản lý nhà nước, thủ trưởng cơ quan thanh tra nhà nước căn cứ vào yêu cầu của

GVHD: Lâm Bá Khánh Toàn

Trang 18

SVTH: Lê Thị Nghi



Kết luận thanh tra – Thực trạng và giải pháp
cuộc thanh tra để quyết định việc khảo sát, nắm tình hình đối với cơ quan, tổ chức, cá
nhân được thanh tra (sau đây gọi là đối tượng thanh tra).
Người được giao khảo sát, nắm tình hình có trách nhiệm tổng hợp, phân tích,
đánh giá các thông tin thu nhận được, lập báo cáo gửi người giao nhiệm vụ khảo sát,
nắm tình hình. Báo cáo gồm các nội dung sau:
Thứ nhất, khái quát chung về mô hình tổ chức bộ máy, cơ chế quản lý, chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của đối tượng thanh tra;
Thứ hai, kết quả khảo sát, nắm tình hình theo từng nội dung: Hệ thống các quy
định của pháp luật liên quan đến hoạt động của đối tượng thanh tra; các thông tin liên
quan đến tình hình hoạt động, việc thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra của các cơ
quan chức năng và hoạt động tự kiểm tra, kiểm soát của đối tượng thanh tra; các thông
tin liên quan đến các mối quan hệ chủ yếu gắn với tổ chức hoạt động của đối tượng
thanh tra và các thông tin liên quan đến những nội dung dự kiến thanh tra;
Thứ ba, nhận định những vấn đề nổi cộm, có dấu hiệu sai phạm, đề xuất những
nội dung cần thanh tra và cách thức tổ chức thực hiện.
 Ra quyết định thanh tra
Đây là cơ sở pháp lý để tiến hành một cuộc thanh tra. Thẩm quyền ra quyết
định thanh tra bao gồm: thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước, thủ trưởng cơ quan
thanh tra nhà nước, thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra
chuyên ngành. Việc ra quyết định thanh tra phải có một trong các căn cứ sau đây21:
Kế hoạch thanh tra;
Theo yêu cầu của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước;
Khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật;
Yêu cầu của việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng.
Nội dung quyết định thanh tra được quy định cụ thể tại Khoản 1 Điều 37 Luật
Thanh tra, gồm các nội dung sau:
- Căn cứ pháp lý để thanh tra;

- Đối tượng, nội dung, phạm vi, nhiệm vụ thanh tra;
- Thời hạn tiến hành thanh tra;
- Trưởng đoàn thanh tra và các thành viên khác của Đoàn thanh tra;
- Cơ quan, tổ chức, cá nhân được giao nhiệm vụ chỉ đạo, giám sát hoạt động
Đoàn thanh tra (nếu có).
-

21

Điều 38 Luật Thanh tra năm 2010.

GVHD: Lâm Bá Khánh Toàn

Trang 19

SVTH: Lê Thị Nghi


Kết luận thanh tra – Thực trạng và giải pháp
 Xây dựng và phê duyệt kế hoạch tiến hành thanh tra
Thanh tra là một trong những hoạt động quan trọng của quản lý nhà nước. Do
vậy, cũng như các hoạt động khác, hoạt động thanh tra rất cần được lập kế hoạch chi
tiết, rõ ràng để góp phần quan trọng vào việc thực hiện có hiệu quả thanh tra. Đồng
thời kế hoạch thanh tra cũng là cơ sở để người ra quyết định thanh tra theo dõi, kiểm
tra tiến độ thực hiện công việc.
Chủ thể thực hiện hoạt động thanh tra có trách nhiệm xây dựng dự thảo kế
hoạch tiến hành thanh tra gồm các nội dung: mục đích, yêu cầu, nội dung thanh tra,
đối tượng thanh tra, thời kỳ thanh tra, thời hạn thanh tra, phương pháp tiến hành thanh
tra, tiến độ thực hiện, chế độ thông tin báo cáo, việc sử dụng phương tiện, thiết bị,
kinh phí và những điều kiện vật chất cần thiết khác phục vụ hoạt động của Đoàn thanh

tra...
Sau khi kế hoạch thanh tra được người ra quyết định thanh tra phê duyệt,
Trưởng đoàn thanh tra tổ chức họp Đoàn thanh tra để phổ biến kế hoạch tiến hành
thanh tra được duyệt và phân công nhiệm vụ cho các tổ, nhóm, các thành viên của
Đoàn thanh tra; thảo luận về phương pháp, cách thức tổ chức tiến hành thanh tra, sự
phối hợp giữa các tổ, nhóm, các thành viên trong đoàn; tổ chức việc tập huấn nghiệp
vụ cho thành viên Đoàn thanh tra khi cần thiết. Từng thành viên Đoàn thanh tra xây
dựng kế hoạch thực hiện nhiệm vụ được phân công và báo cáo với Trưởng đoàn thanh
tra.
 Xây dựng đề cương yêu cầu đối tượng thanh tra báo cáo
Chủ thể thực hiện hoạt động thanh tra phải xây dựng được đề cương để yêu cầu
đối tượng thanh tra báo cáo và làm căn cứ định hướng cho quá trình nghiên cứu tài
liệu, thu thập thông tin từ đối tượng thanh tra và các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên
quan; tránh tình trạng lan man, không tập trung vào những nội dung chính. Đề cương
có thể bao gồm những nội dung như:
Những kết quả đã đạt được;
Những vấn đề còn chưa đạt được (những hạn chế, bất cập);
Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập;
Những vấn đề liên quan đến đơn, thư khiếu nại, tố cáo hoặc kiến nghị của công
dân, cơ quan, tổ chức.
 Thông báo về việc công bố quyết định thanh tra
Chủ thể thực hiện hoạt động thanh tra có trách nhiệm thông báo bằng văn bản
đến đối tượng thanh tra về việc công bố quyết định thanh tra. Thông báo phải nêu rõ
-

GVHD: Lâm Bá Khánh Toàn

Trang 20

SVTH: Lê Thị Nghi



Kết luận thanh tra – Thực trạng và giải pháp
về thời gian, địa điểm, thành phần tham dự buổi công bố quyết định thanh tra. 22 Sự
thông báo với đối tượng thanh tra về việc thanh tra là cần thiết để đối tượng thanh tra
có sự chuẩn bị, chủ động bố trí thời gian, địa điểm làm việc.
 Chuẩn bị các điều kiện cần thiết khác
Để thực hiện có hiệu quả việc thanh tra, chủ thể thanh tra cần được chuẩn bị
chu đáo các điều kiện cần thiết khác như:
- Phương tiện đi lại;
- Kinh phí phục vụ thanh tra;
- Văn phòng phẩm;
- Các loại công văn, giấy tờ liên quan đến thủ tục hành chính;
1.3.2. Tổ chức thực hiện thanh tra
Kết thúc chuẩn bị thanh tra thì giai đoạn tiếp theo của quá trình thanh tra là tiến
hành thanh tra. Đây là giai đoạn quan trọng góp phần cho kết luận thanh tra đạt hiệu
quả cũng như cho việc kết thúc thanh tra được đảm bảo thực hiện.
 Công bố quyết định thanh tra
Công bố quyết định thanh tra là nội dung đầu tiên trong việc tổ chức thanh tra.
Chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày ra quyết định thanh tra, Trưởng đoàn thanh
tra có trách nhiệm công bố quyết định thanh tra với đối tượng thanh tra.23
Công bố quyết định thanh tra có ý nghĩa rất quan trọng nhằm:
- Khẳng định tính hợp pháp của chủ thể thực hiện hoạt động thanh tra;
- Thống nhất giữa chủ thể thực hiện hoạt động thanh tra với đối tượng thanh tra
về quan điểm nhận thức, mục đích, yêu cầu và nội dung của cuộc thanh tra;
- Xác định rõ trách nhiệm và quyền hạn của chủ thể thực hiện hoạt động thanh
tra và của đối tượng thanh tra;
- Xác lập chương trình và mối quan hệ công tác giữa chủ thể thực hiện hoạt động
thanh tra và đối tượng thanh tra.
Việc công bố quyết định thanh tra phải được làm thành biên bản.

 Thu thập, kiểm tra, xác minh thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung thanh
tra
Chủ thể thực hiện hoạt động thanh tra có quyền yêu cầu đối tượng thanh tra
hoặc các cá nhân, cơ quan tổ chức khác cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan đến nội
dung thanh tra. Việc cung cấp hồ sơ, tài liệu được lập thành biên bản giao nhận giữa
Đoàn thanh tra và đối tượng thanh tra. Việc quản lý, khai thác, sử dụng thông tin, tài
liệu thu thập theo đúng quy định của pháp luật về thanh tra.

22
23

Khoản 1 Điều 8 Thông tư 02/2010/TT-TTCP Quy định quy trình tiến hành một cuộc thanh tra.
Khoản 1 Điều 9 Thông tư 02/2010/TT-TTCP Quy định quy trình tiến hành một cuộc thanh tra.

GVHD: Lâm Bá Khánh Toàn

Trang 21

SVTH: Lê Thị Nghi


Kết luận thanh tra – Thực trạng và giải pháp
Trên cơ sở văn bản báo cáo của đối tượng thanh tra và các thông tin, tài liệu đã
thu thập được, chủ thể thực hiện hoạt động thanh tra sẽ tiến hành các biện pháp nghiệp
vụ khác nhau để nghiên cứu, phân tích, đối chiếu, so sánh, đánh giá làm cơ sở để xây
dựng báo cáo thanh tra và kết luận thanh tra sau này.
Trong khi tiến hành thanh tra, nếu phát hiện có sai phạm thì chủ thể tiến hành
hoạt động thanh tra phải tiến hành lập biên bản với đối tượng thanh tra để xác định rõ
nội dung, tính chất, mức độ của hành vi vi phạm, nguyên nhân dẫn đến vi phạm. Đối
với Đoàn thanh tra thì hằng ngày trong quá trình thanh tra phải ghi nhật ký thanh tra

có chữ ký xác nhận của Trưởng đoàn thanh tra. Nhật ký Đoàn thanh tra là sổ ghi chép
những hoạt động của Đoàn thanh tra, những nội dung có liên quan đến hoạt động của
Đoàn thanh tra diễn ra trong ngày, từ khi có quyết định thanh tra đến khi bàn giao hồ
sơ thanh tra cho cơ quan có thẩm quyền.
1.3.3. Kết thúc thanh tra
Kết thúc thanh tra phải thực hiện các công việc sau:
 Báo cáo kết quả thanh tra
Sau khi kết thúc việc thanh tra, chủ thể thực hiện thanh tra cần tiến hành việc ra
văn bản Báo cáo kết quả thanh tra. Đây là căn cứ để người ra quyết định thanh tra ban
hành kết luật thanh tra. Vì vậy báo cáo thanh tra phải bám sát nội dung, kế hoạch tiến
hành thanh tra, nêu rõ những nhận xét, đánh giá về từng nội dung đã tiến hành thanh
tra; chỉ rõ những vi phạm, nguyên nhân, trách nhiệm đối với những vi phạm; đưa ra
những kiến nghị biện pháp xử lý vi phạm; nêu rõ các quy định pháp luật làm căn cứ để
xác định hành vi vi phạm pháp luật, tính chất, mức độ vi phạm, kiến nghị biện pháp
xử lý vi phạm.24
 Đưa ra kết luận thanh tra
Kết luận thanh tra phải có các nội dung sau đây:25
- Đánh giá việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của đối tượng thanh
tra thuộc nội dung thanh tra;
- Kết luận về nội dung được thanh tra;
- Xác định rõ tính chất, mức độ vi phạm, nguyên nhân, trách nhiệm của cơ quan,
tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm (nếu có);
- Các biện pháp xử lý theo thẩm quyền đã được áp dụng; kiến nghị các biện pháp
xử lý.

24
25

Khoản 1 Điều 19 Thông tư 02/2010/TT-TTCP Quy định quy trình tiến hành một cuộc thanh tra.
Khoản 2 Điều 50 Luật Thanh tra năm 2010.


GVHD: Lâm Bá Khánh Toàn

Trang 22

SVTH: Lê Thị Nghi


×