Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

hoạt động của các tập đoàn đa quốc gia và xuyên quốc gia tại Việt Nam. ảnh hưởng của các tập đoàn này đến ngoại thương Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.84 KB, 33 trang )

Trường đại học hàng hải Việt Nam
Khoa kinh tế vận tải biển
Bộ môn kinh tế ngoại thương
Bài tập lớn
Môn: kinh tế ngoại thương
Tên đề tài: hoạt động của các tập đoàn đa quốc gia và xuyên quốc gia tại Việt
Nam. ảnh hưởng của các tập đoàn này đến ngoại thương Việt Nam.
Giáo viên hướng dẫn: Đỗ Việt Thanh
Lớp: KTN51-ĐH1
Sinh viên thực hiện: Phạm Thị Oanh
Hải Phòng, năm 2012
1
Lời mở đầu:
Các công ty đa quốc gia và xuyên quốc gia đang ngày càng có vai trò quan trọng
trong việc phát triển nền kinh tế thế giới cũng như nền kinh tế mỗi quốc gia.Hoạt
động của các công ty này đã tác động không nhỏ tới tất các lĩnh vực kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội ở nước sở tại. Để làm rõ hơn về ảnh hưởng của các công ty này
chúng ta có thể tìm hiều sự ảnh hưởng của các công ty đa quốc gia và xuyên quốc
gia tới nền kinh tế Việt Nam. Các công ty đó đã tác động gì vào nền kinh tế nước
ta, giải pháp để phát triển các tập đoàn này ở Việt Nam.
Mục tiêu
-Hiểu thế nào là công ty đa quốc gia
-Hoạt động của các công ty này ở Việt Nam
-Tác động của các công ty này tới nền kinh tế Việt Nam
- Giải pháp thu hút
-Tìm hiểu tác động của các tập đoàn này tới ngoại thương Việt Nam.
Đối tượng: công ty đa quốc gia và xuyên quốc gia.
Phương pháp: + phân tích.
+ dùng số liệu.
2
Chương 1: Nghiên cứu công ty đa quốc gia:


I. Khái niệm và quá trình phát triển của công ty đa quốc gia:
1. Khái niệm:
Công ty đa quốc gia, thường viết tắt là MNC (từ các chữ Multinational
corporation) hoặc MNE (từ các chữ Multinational enterprises), là khái niệm để chỉ
các công ty sản xuất hay cung cấp dịch vụ ở ít nhất hai quốc gia. Các công ty đa
quốc gia lớn có ngân sách vượt cả ngân sách của nhiều quốc gia. Công ty đa quốc
gia có thể có ảnh hưởng lớn đến các mối quan hệ quốc tế và các nền kinh tế của
các quốc gia.
2. Quá trình ra đời và phát triển công ty đa quốc gia:
+ Công ty Xuyên quốc gia (MNC) gắn liền với sự ra đời và phát triển của sản xuất
lớn TBCN. Trong thời kỳ đầu cạnh tranh tự do của CNTB, mục đích lợi nhuận và
sự phát triển sản xuất đã làm tăng yêu cầu về thị trường nguyên liệu, thị trường lao
động, thị trường hàng hoá và thị trường tài chính. Các yêu cầu đó đã thúc đẩy việc
tăng cường khai thác và mở rộng hoạt động kinh doanh sang nước khác. Ngoài ra,
sự cạnh tranh quyết liệt cũng hướng nhiều công ty trong nước đi tìm lợi nhuận
trong thị trường bên ngoài. Quá trình này đã được tạo điều kiện bởi sự phát triển
của thương mại quốc tế đã hình thành qua nhiều thế kỷ trước. Quá trình này cũng
được tạo điều kiện bởi sự ủng hộ của các nhà nước TBCN và chủ nghĩa thực dân.
Đồng thời, quá trình đi từ hợp tác giản đơn đến liên kết sâu sắc hơn trong giới công
thương tư bản đã làm tăng khả năng thực hiện sự mở rộng này. Trên cơ sở đó, các
tổ chức kinh doanh quốc tế bắt đầu được hình thành và phát triển.
+ Các MNC thực sự hình thành và phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ chủ nghĩa đế
quốc. Trong thời kỳ này, quá trình tích tụ tư bản, tập trung sản xuất, sự kết hợp
giữa giới tài chính và giới công thương đã dẫn đến sự ra đời của hàng loạt các tập
đoàn sản xuất-kinh doanh lớn theo xu hướng độc quyền. Sự cạnh tranh tự do trong
3
thời kỳ đầu của CNTB với sự thôn tính “cá lớn nuốt cá bé” cũng tạo thêm điều
kiện cho sự hình thành các tổ chức kinh doanh độc quyền lớn. Đáng chú ý, sự cạnh
tranh và xu hướng độc quyền diễn ra mạnh mẽ cả trên thị trường trong nước lẫn
ngoài nước nên càng làm tăng tính quốc tế của các công ty này.

+ Sự nổi lên của các công ty độc quyền và sự vươn mạnh ra thế giới còn nhờ sự kết
hợp chặt chẽ giữa quyền lực kinh tế với quyền lực chính trị của nhà nước TBCN.
Sau Chiến tranh Thế giới II, sự phát triển của nền kinh tế thế giới, nhu cầu tăng
cường quan hệ kinh tế quốc tế và sự hợp tác chính trị giữa các TBCN đã tạo điều
kiện cho sự phát triển tiếp tục của các MNC, đặc biệt trong thế giới tư bản. Nhiều
MNC ra đời và phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ này.
+ Sự phát triển của MNC không chỉ ở sự nắm giữ các lĩnh vực kinh tế trọng yếu,
năng lực tài chính và khoa học kỹ thuật,… mà còn ở sự mở rộng hoạt động kinh
doanh ra khắp thế giới tư bản. Vai trò của MNC trong QHQT cũng vì thế mà đã
tăng lên qua sự đóng góp rất lớn vào việc tăng trưởng các dòng đầu tư nước ngoài,
thúc đẩy thương mại xuyên quốc gia và mở rộng phân công lao động quốc tế.
+ Đáng chú ý, sự thay đổi cách nhìn nhận về MNC ở các nước TBCN đã góp phần
đáng kể cho sự mở rộng hoạt động kinh doanh quốc tế của các MNC. MNC ngày
càng được coi là công cụ phát triển, là sự tạo công ăn việc làm, là nguồn thuế thu,
là sự khắc phục về vốn, kỹ thuật, công nghệ và kinh nghiệm làm ăn quốc tế. Bởi
thế, các nước đều mở cửa thị trường, khuyến khích FDI và thậm chí còn cạnh tranh
với nhau trong việc thu hút MNC. Nhờ đó, các MNC đã bành trướng khá nhanh và
mở rộng vai trò trong đời sống quốc tế.
+ Sau Chiến tranh Lạnh, MNC đã có sự phát triển chóng mặt với số lượng các
MNC tăng gần gấp đôi, từ khoảng 37.000 đầu thập kỷ 1990 lên gần 70.000 vào
4
năm 2004. Đồng thời, mức độ quốc tế hoá của chúng cũng phát triển chưa từng
thấy với số lượng chi nhánh nước ngoài tăng gần bốn lần, từ 170.000 đầu thập kỷ
1990 lên gần 690.000 vào năm 2004. Một điểm khác cũng đáng chú ý, MNC
không còn là độc quyền của các nước phát triển hàng đầu mà đã xuất hiện cả trong
các nền kinh tế đang phát triển hoặc mới nổi. Tuy nhiên, quy mô và vai trò của các
MNC này vẫn còn rất khiêm tốn. Các MNC cũng là người nắm giữ hầu hết vốn
đầu tư nước ngoài. Các MNC thực hiện hơn 80% thương mại thế giới. Các MNC
chi phối hầu hết các ngành công nghiệp và dịch vụ quan trọng của thế giới. Các
MNC cũng nắm giữ phần lớn công nghệ tiên tiến và quá trình chuyển giao công

nghệ. Các MNC vẫn tiếp tục nằm trong trung tâm của sự phát triển. Thế và lực của
MNC tiếp tục phát triển trong những năm gần đây với xu hướng sáp nhập và thu
nhận để hình thành các tập đoàn lớn, nhất là trong những lĩnh vực kinh tế quan
trọng như truyền thông, ngân hàng-tài chính, giao thông vận tải... Tất cả những
điều này đang làm tăng vai trò của MNC đối với quốc gia và QHQT.
II. Cấu trúc và đặc trưng của công ty đa quốc gia:
1. Cấu trúc công ty đa quốc gia:
Các công ty đa quốc gia có thể xếp vào ba nhóm lớn theo cấu trúc các phương tiện
sản xuất:
* Công ty đa quốc gia “theo chiều ngang” sản xuất các sản phẩm cùng loại hoặc
tương tự ở các quốc gia khác nhau (ví dụ:McDonalds).
* Công ty đa quốc gia “theo chiều dọc” có các cơ sở sản xuất ở một số nước nào
đó, sản xuất ra sản phẩm là đầu vào cho sản xuất của nó ở một số nước khác (ví
dụ: Adidas).
* Công ty đa quốc gia “đa chiều” có các cơ sở sản xuất ở các nước khác nhau mà
chúng hợp tác theo cả chiều ngang và chiều dọc (ví dụ: Microsoft)..
2. Đặc trưng của công ty đa quốc gia:
5
- Cổ đông đến từ khắp nơi trên thế giới.
- Liên quan đến nơi đặt trụ sở chính và nơi kinh doanh.
- Các công ty con phải chịu ảnh hưởng của môi trường quốc tế và sở tại.
- Các công ty con có chung nguồn tài trợ (tài sản, nhãn hiệu hàng hóa và nhân lực),
các công ty con có thể tìm nhiều định chế tài chính tài trợ vốn.
- Các công ty con có chung chiến lược.
Đặc điểm cơ bản: của các công ty đa quốc gia là bộ phận không trực tiếp làm việc
với khách hàng ở mỗi quốc gia mà nó hoạt động.
III/ Nguyên nhân và tác động của công ty đa quốc gia đến nền kinh tế Việt
Nam.
1.Nguyên nhân dẫn đến việc đầu tư của các công ty đa quốc gia vào Việt Nam:
Các công ty xuyên quốc gia hoạt động ở Việt Nam phần lớn đều thuộc loại hình

doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong 500 tập đoàn lớn nhất được bình chọn hàng năm,
ở Việt Nam cho đến nay mới chỉ có 10% trong số đó có dự án m
 Thứ nhất là lợi thế so sánh chủ yếu của Việt Nam hiện tại chủ yếu là lao
động rẻ nguyên liệu rẻ và thị trường rộng lớn những ngành sản suất tận dụng các
lợi thế này chủ yếu là những nghành sử dụng nhiều lao động và công nghệ chuyển
giao thường không cao. Trong điều kiện toàn cầu hoá khi lợi thế cạnh tranh trên thị
trường quốc tế đã chuyển trọng tâm sang cho các nghành đòi hỏi có hàm lượng cao
về công nghệ và tri thức thì theo lôgic của sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế toàn cầu
6
phần xâm nhập sâu vào thị trường Việt Nam chủ yếu thuộc về các doanh nghiệp
vừa và nhỏ.
 Thứ hai như trên đã phân tích phần đầu tư và chu chuyển thương mại ở Việt
Nam được thực hiện chủ yếu bởi các MNC châu Á.
 Thứ ba sự yếu kém về hạ tầng cơ sở về môi trường đầu tư về năng lực và
thẩm định dự án đầu tư của phía Việt Nam đang có nhiều bất cập so với yêu cầu
đòi hỏi từ các phía đối tác nước ngoài là các tập đoàn xuyên quốc gia lớn.
 Thứ tư cho đến nay Việt Nam mới đang ở những bước đầu tiên của tiến trình
hội nhập quốc tế .
 Thứ năm,Các MNC lớn nhất là các MNC đến từ châu Âu và châu Mỹ còn dè
dặt trong việc đầu tư vào VN.
2. Tác động của các công ty đa quốc gia đến nền kinh tế quốc dân VN:
a/Tác động tích cực đối với sự nghiệp cải cách và đối với nền kinh tế VN:
 Hiện diện của MNC đồng nghĩa với việc cung cấp một nguồn vốn
quan trọng cho sự nghiệp công nghiệp hóa của đất nước.
 Các MNC đã đóng góp phần tích cực trong việc thực hiện sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo yêu cầu CNH-HĐH đất nước.
 Các nước MNC tham gia tích cực vào việc duy trì nhịp độ tăng
trưởng cao và ổn định cho nền kinh tế mở rộng xuất khẩu,tăng nguồn thu ngân
sách.
 Giải quyết số lượng lớn lđ tham gia phát triển nguồn nhân lực cho đất nước.

 Sự có mặt của các nước MNC đã và đang là nhân tố quan trọng
thúc đẩy sự nghiệp chuyển đổi sang kinh tế thị trường mở cửa và hội nhập quốc tế
của VN.
b/Tác động tiêu cực của MNC tại VN:
 Mục tiêu của các nước MNC là lợi nhuận,thị phần doanh số ưu
thế cạnh tranh và phát triển ổn định nó thường xuyên mâu thuẫn với mục tiêu của
7
chiến lược chung về phát triển kinh tế xã hội của nhà nước ta là tăng trưởng đồng
đều và bền vững.
 Một số MNC lạm dụng các ưu thế về vốn công nghệ để thao
túng và gây hậu quả xấu cho liên doanh thậm chí có MNC gây sức ép với các cơ
quan nhà nước.
 Một số vấn đề yếu kém trong hoạt động của MNC nhìn từ phía
công tác chuẩn bị và vai trò hỗ trợ của các cơ quan quản lý nhà nước.
Phân tích những tác động tích cực của các công ty xuyên quốc gia đối với nền
kinh tế Việt Nam
Thứ nhất, sự hiện diện của các công ty xuyên quốc gia đã cung cấp một nguồn vốn
quan trọng cho sự nghiệp công nghiệp hoá của đất nước. Việt Nam tiến hành công
nghiệp hoá trong điều kiện tích luỹ còn thấp, nhu cầu về vốn lớn đòi hỏi phải khai
thác cả trong và ngoài nước dưới mọi hình thức. Các công ty xuyên quốc gia đã
không chỉ đáp ứng nhu cầu về vốn mà còn cung cấp cả các thiết bị và công nghệ
cho Việt Nam. Nhờ đó nhiều nguồn lực của nước ta như vốn nhàn rỗi trong dân cư,
doanh nghiệp... được khơi dậy, nâng cao khả năng cạnh tranh ngay trên thị trường
nội địa. Việt Nam đã coi đây là một bộ phận quan trọng của tổng đầu tư xã hội và
thông qua các chính sách thì nguồn vốn đầu tư từ các công ty xuyên quốc gia vào
nước ta ngày càng chiếm tỷ trọng lớn.
Thứ hai, các công ty xuyên quốc gia đã đóng góp phần tích cực trong việc thực
hiện sự dịch chuyển có cấu kinh tế theo yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Yêu cầu của công nghiệp hoá là tăng nhanh tỷ trọng của sản xuất công
nghiệp, đặc biệt là của các ngành dịch vụ trong tổng thu nhập quốc dân, đồng thời

8
tăng trưởng xuất khẩu để nhanh chóng hội nhập vào thị trường quốc tế. Các công
ty xuyên quốc gia, nhất là các công ty có công nghệ và tài chính hùng hậu hoàn
toàn có thể giúp Việt Nam thực hiện được những yêu cầu này. Các công ty xuyên
quốc gia đã chiếm một tỷ trọng cao trong nhiều ngành sản xuất công nghiệp, tạo ra
nhiều ngành công nghiệp mới cho nước ta đã góp phần tạo ra một bước ngoặt quan
trọng trong sự phát triển của các ngành kinh tế quốc dân. Cùng với sự phát triển
của các ngành công nghiệp, các ngành sản xuất và cung cấp dịch vụ cũng được
phát triển theo. Hiện nay đã có nhiều nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài ở Việt Nam
trên nhiều lĩnh vực như tài chính, bảo hiểm, viễn thông...Bên cạnh đó, sự hiện diện
của các công ty xuyên quốc gia còn làm cho các doanh nghiệp Việt Nam phải tự
thay đổi để thích ứng và cạnh tranh tốt. Có thể nói các công ty xuyên quốc gia đã
góp phần đưa Việt Nam tham gia vào sự phân công lao động quốc tế, đồng thời
giúp các doanh nghiệp Việt Nam thích ứng cao nhất với các đòi hỏi của nền kinh tế
thị trường mở cửa và hội nhập.
Thứ ba, các công ty xuyên quốc gia đã tham gia tích cực vào việc duy trì nhịp độ
tăng trưởng cao và ổn định cho nền kinh tế, mở rộng xuất khẩu, tăng nguồn thu
ngân sách. Các công ty xuyên quốc gia đều có tốc độ tăng trưởng cao kể cả thời kỳ
nền kinh tế Việt Nam phải chịu nhiều sự tác động nặng nề của cuộc khủng hoảng
tài chính - tiền tệ khu vực. Bên cạnh đó các công ty xuyên quốc gia cũng góp phần
tạo ra nhiều sản phẩm công nghệ và chất lượng cao, trong đó có nhiều hàng thay
thế nhập khẩu nên tiết kiệm ngoại tệ cho đất nước
Thứ tư, các công ty xuyên quốc gia đã tiến hành giải quyết số lượng lớn lao động,
tham gia phát triển nguồn nhân lực cho đất nước. Sự hoạt động của các công ty
xuyên quốc gia đã thu hút hàng ngàn lao động Việt Nam vào làm việc. Những
người lao động làm việc cho các công ty này thường được tuyển chọn kỹ lưỡng,
được bồi dưỡng tay nghề, công việc gắn với công nghệ mới, với tác phong công
nghiệp hiện đại và trình độ quản lý tiên tiến, do đó họ trở thành những người lao
động lành nghề, có kỹ năng và tính kỷ luật cao.
9

Thứ năm, sự có mặt của các công ty xuyên quốc gia đã và đang là nhân tố quan
trọng thúc đẩy sự nghiệp chuyển đổi sang kinh tế thị trường mở cửa và hội nhập
quốc tế của Việt Nam. Mỗi công ty quốc gia có nguồn gốc từ một nước, sự hiện
diện của chúng tại Việt Nam đồng nghĩa với việc chúng ta xác lập và tăng cường
quan hệ kinh tế với quốc gia đó. Mặt khác, khi lựa chọn quốc gia để đầu tư, các
công ty xuyên quốc gia thường căn cứ vào mức độ hoà nhập vào thị trường thế
giới. Vì vậy muốn thu hút được họ chúng ta phải hội nhập thực sự và thị trường
khu vực và thế giới.
Phân tích những tác động tiêu cực của các công ty xuyên quốc gia đối với nền
kinh tế Việt Nam
Bên cạnh những tác động tích cực, sự hoạt động của các công ty xuyên quốc gia
cũng đã gây ra một số các ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế Việt Nam.
Thứ nhất, mục tiêu của các công ty xuyên quốc gia là lợi nhuận, thị phần, doanh
số, ưu thế cạnh tranh và phát triển ổn định. Nó thường xuyên mâu thuẫn với mục
tiêu, chiến lược chung về phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam là tăng trưởng
đồng đều, cao và bền vững. Vì vậy các công ty xuyên quốc gia thường lựa chọn
đầu tư vào các lĩnh vực có thị trường, bảo toàn được vốn và thu được lợi nhuận
cao; còn các ngành có lãi suất thấp, yêu cầu đầu tư vốn lớn, chuyển vốn chậm lại
không thu hút được các công ty xuyên quốc gia đầu tư vào.
Thứ hai, một số công ty xuyên quốc gia đã lạm dụng các ưu thế về vốn, công nghệ
để thao túng và gây hậu quả xấu cho liên doanh, thậm chí có một số công ty xuyên
quốc gia còn gây sức ép với các cơ quan quản lý nhà nước. Hiện tượng khai khống
thiết bị và công nghệ để tính tăng giá đầu vào, đánh tụt xuất khẩu để hạ thấp giá
đầu ra của các công ty xuyên quốc gia đã là hiện tượng phổ biến khiến cho không
ít các doanh nghiệp liên doanh bị thua lỗ, giải thể. Có một số doanh nghiệp vi
phạm luật lao động của Việt Nam đã gây không ít trở ngại cho trật tự an toàn xã
hội và cho tiến trình sản xuất. Ngoài ra, có một số công ty xuyên quốc gia đã lên
án mạnh mẽ các chính sách của Việt Nam như nặng về bảo hộ, có phân biệt đối
10
xử... khi xin cấp phép đầu tư; nhưng khi đã được cấp phép thì họ lại là những

người đòi bảo hộ mạnh mẽ nhất để hướng tới độc quyền.
3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các công ty xuyên
quốc gia tại Việt Nam.
3.1. Tạo lập đối tác đầu tư trong nước.
Đối tác đầu tư có năng lực và biết làm ăn với nước ngoài chính là một nhân tố hấp
dẫn các công ty xuyên quốc gia, giúp cho chúng ta có thể quan hệ bình đẳng với họ
và tăng thêm thế thương lượng của nước mình. Bên cạnh đó, khi đầu tư vào một
nước để hạn chế rủi ro, các nhà đầu tư thường tìm kiếm đối tác là các công dân
nước chủ nhà. Vì vậy việc tạo lập đối tác đầu tư trong nước là vô cùng quan trọng.
Để tạo lập các đối tác đầu tư trong nước chúng ta cần tiếp tục củng cố và phát triển
các doanh nghiệp, xây dựng các tập đoàn kinh tế mạnh. khuyến khích đầu tư phát
triển các thành phần kinh tế và nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp.
Cùng với sự nỗ lực của nhà nước, bản thân các doanh nghiệp cũng cần phải không
ngừng phấn đấu vươn lên, quyết tâm đổi mới tổ chức quản lý, tự chủ, năng động,
sáng tạo trong hoạt động sản xuất kinh doanh để trở thành các đối tác tương xứng,
liên doanh có hiệu quả với các công ty xuyên quốc gia.
3.2. Hoàn thiện, đổi mới cơ chế quản lý, tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực quản
lý vĩ mô của nhà nước.
Cơ chế quản lý và năng lực quản lý của Nhà nước giữ vai trò quyết định trong việc
tạo lập môi trường đầu tư. Cơ chế quản lý ngày càng hoàn thiện, được thực hiện
bởi một bộ máy quản lý mạnh sẽ tạo được sự tin tưởng của các công ty xuyên quốc
gia vào sự ổn định và cởi mở của môi trường đầu tư. Như vậy muốn thu hút được
các công ty xuyên quốc gia thì chúng ta phải quan tâm đến việc xây dựng và hoàn
11
thiện cơ chế quản lý và bộ máy quản lý của mình. Việc xây dựng bộ máy quản lý
đầu tư cần được thực hiện theo hướng:
Toàn bộ quá trình tiếp nhận cho đến việc cấp phép đầu tư phải thực hiện theo
nguyên tắc một cửa, một đầu mối.
Tăng cường kiểm tra, giám sát tiến độ thực hiện đầu tư để kịp thời hỗ trợ, điều

chỉnh hoạt động đầu tư khi cần thiết.
Phân cấp cấp giấy phép đầu tư và quản lý hoạt động đầu tư, nhưng cần có cơ chế
điều phối kiểm soát hữu hiệu để đảm bảo quản lý thống nhất nhằm hạn chế tiêu
cực và cạnh tranh không lành mạnh.
Tăng cường công tác thông tin, tư vấn, tận dụng thành quả cuộc cách mạng khoa
học - công nghệ trên thế giới.
Nâng cao năng lực chuyên môn, phẩm chất của đội ngũ cán bộ quản lý.
3.3. Phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật.
Kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật được coi là hệ thống xương cốt, bắp thịt của nền
kinh tế để tiếp nhận, thu hút đầu tư nước ngoài, đặc biệt là thu hút các công ty
xuyên quốc gia. Trong điều kiện nước ta hiện nay chưa cho phép chi những khoản
đầu tư lớn vào lĩnh vực này, chúng ta cần đầu tư vào cơ sở hạ tầng theo hướng sau:
Cố gắng giải quyết tốt các mối quan hệ về kinh tế, chính trị với các quốc gia, các tổ
chức phi chính phủ và các tổ chức kinh tế để có được những khoản hỗ trợ phát
triển chính thức đầu tư vào phát triển cơ sở hạ tầng.
Xây dựng và phát triển các đặc khu kinh tế để tiếp nhận các nguồn vốn và kỹ thuật
cao của nước ngoài.
Có kế hoạch dài hạn và trung hạn để huy động các tiềm năng của toàn dân cho xây
dựng và phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật.
Quan tâm xây dựng thể chế kinh tế, chính trị theo hướng khuyến khích thu hút đầu
tư nước ngoài. Quan tâm tới giáo dục, đặc biệt là công tác giáo dục chính trị, tư
12
tưởng và pháp luật để nâng cao giác ngộ cho người lao động. Nâng cao vai trò đòn
bẩy kinh tế của các công cụ tài chính tiền tệ bằng cách lành mạnh hoá hệ thống
này.
Chú trọng tới việc phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật ở nông thôn, đặc biệt
là ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa tạo ra tiền đề và điều kiện cần thiết để những
vùng này có thể tăng trưởng và phát triển nhanh hơn.
3.4. Phát triển nguồn nhân lực.
Phát triển nguồn nhân lực là nhiệm vụ bức xúc để nâng cao chất lượng lao động,

tạo điều kiện để tăng tính hấp dẫn đối với việc thu hút các công ty xuyên quốc gia.
Để phát triển nguồn nhân lực cho cả trước mắt và lâu dài, chúng ta cần quan tâm
đến một số mặt sau:
Cần có kế hoạch đào tạo và đào tạo lại đội ngũ lao động hiện có và phổ cập nghề
cho lực lượng lao động xã hội. Gắn đào tạo và dạy nghề với thực tế đời sống sản
xuất đảm bảo cho lực lượng lao động thích ứng được với yêu cầu của thị trường
lao động hiện nay.
Điều chỉnh cơ cấu đào tạo hợp lý giữa việc đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật, lao
động có tay nghề cao với đội ngũ cán bộ quản lý; giữa các ngành, các nghề..
Mở rộng và phát triển các trung tâm dạy nghề, phối hợp với các nhà đầu tư nước
ngoài đào tạo nghề cho người lao động.
Đa dạng hoá các hình thức đào tạo. Huy động mọi lực lượng, thành phần tham gia
vào lĩnh vực giáo dục đào tạo.
B) ảnh hưởng của các tập đoàn xuyên quốc gia và đa quốc gia đến hoạt động
ngoại thương Việt Nam.
1. Thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam, đặc biệt là xuất khẩu.
13

×