Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (59.49 KB, 2 trang )
Mười hai câu song thất lục bát với giọng điệu lâm li, vừa bùi ngùi
xót xa cho chính mình, vừa vời vợi nỗi sầu nhớ thương, đọc xong
rồi cứ ám ảnh mãi. Người chinh phu và người chinh phụ còn trẻ
tuổi, đang trong tình vợ chồng gắn bó yêu thương bỗng vì đâu mà
ra nông nỗi chia ly.
Trong văn chương từ khúc Việt Nam, Chinh phụ ngâm khúc nổi lên như một viên kim cương óng ánh
sắc màu. Cả bản nguyên tác chữ Hán của Đặng Trần Côn và bản diễn nôm của Đoàn Thị Điểm đều là
những kiệt tác nghệ thuật bất hủ.
Chinh phụ ngâm khúc ra đời vào đầu thế kỉ XVIII, cái thời mà chiến tranh loạn lạc kéo dài dẫn đến bao
cảnh chia li bi thương sâu thiết:
Chàng thì đi cõi xa mưa gió
Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn
Đoái trông theo đã cách ngăn
Tuôn màu mây biếc, trải ngàn núi xanh.
Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại
Bến Tiều Dương thiếp hãy trông sang
Khói Tiên Tương cách Hàm Dương
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng.
Cùng trông lại mà cũng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?
(Sau phút chia li - Trích Chinh phụ ngâm khúc)
Mười hai câu song thất lục bát với giọng điệu lâm li, vừa bùi ngùi xót xa cho chính mình, vừa vời vợi nỗi
sầu nhớ thương, đọc xong rồi cứ ám ảnh mãi. Người chinh phu và người chinh phụ còn trẻ tuổi, đang
trong tình vợ chồng gắn bó yêu thương bỗng vì đâu mà ra nông nỗi:
Chàng thì đi cõi xa mưa gió
Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn.
Chàng thì đi- Thiếp thì về, hai hình ảnh tương phản nhau như hình sự ngăn cách nghiệt ngã. Dường như
người vợ cũng cảm nhận thấm thía điều đó. Và nỗi sầu đã nhuốm cả không gian:
Tuôn màu mây biếc, trải ngàn núi xanh