Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

Khoá luận tốt nghiệp dạy học ca dao trong ngữ văn 10 theo quan điểm tích hợp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 69 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC s ư PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

LƯƠNG TH Ị NGỌC BÍCH

DAY HOC CA DAO TRONG NGỮ VĂN 10
THEO QUAN ĐIỂM TÍCH HỢP




KHÓA LUẬN TÓT NGIỆP ĐẠI HỌC








Chuyên ngành: Phương pháp dạy học Ngữ văn

HÀ NỘI - 2015


TRƯỜNG ĐẠI
• HỌC
• s ư PHẠM
• HÀ NỘI
• 2
KHOA NGỮ VĂN



LƯƠNG TH Ị NGỌC BÍCH

DAY HOC CA DAO TRONG NGỮ VĂN 10
THEO QUAN ĐIỂM TÍCH HỢP




KHÓA LUÂN TỐT NGIẼP ĐAI HOC








Chuyên ngành: Phương pháp dạy học Ngữ văn

Người hướng dẫn khoa học:
ThS. Vũ Ngọc Doanh

HÀ NỘI, 2015


LỜ I CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan những nội dung trình bày trong khóa luận này là kết quả
nghiên cứu của bản thân tôi dưới sự hướng dẫn của thầy giáo, Thạc sĩ

Vũ Ngọc Doanh. Những nội dung này không trùng với kết quả nghiên cứu của các
tác giả khác.
Neu sai tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.
Hà Nội, ngày ....tháng.... năm 2015
Tác giả

Lương Thị Ngọc Bích


LỜ I CẢM ƠN

Trong thời gian thực hiện khóa luận tốt nghiệp tôi đã nhận được sự giúp đỡ
của rất nhiều thày cô giáo và các bạn sinh viên khoa Ngữ văn Trường Đại Học Sư
Phạm Hà Nội 2.
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến thày giáo, Thạc sĩ Vũ Ngọc Doanh, người
đã trực tiếp tận tình hướng dẫn để tôi hoàn thành khóa luận này.
Tôi cũng chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn, đặc biệt là
các thầy cô trong tổ Phương pháp đã tạo điều kiện thuận lợi để khóa luận của tôi
được hoàn thành.
Hà Nội, ngày ....tháng.... năm 2015
Tác giả

Lương Thị Ngọc Bích


DANH MỤC VIẾT TẮT

GV

Giáo viên


HS

Học sinh

NXB

Nhà xuất bản

SGK

Sách giáo khoa

THCS

Trung học cơ sở

THPT

Trung học phô thông

TPVH

Tác phâm văn học

VHDG

Văn học dân gian



MỤC LỤC

PHẦNMỞĐẬU............................................................................................... 1
1. Lý do chon đề tài..................................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề.................................................................................................... 2
3. Đối tượng nghiên cứu.......................................................................................... 2
4. Mục đích nghiên cứu...........................................................................................2
5. Nhiệm vụ nghiêti cứu.......................................................................................... 3
6. Phương pháp nghiên cứu................................................................................ 3
7. Cấu trúc khóa luận......................................................................................... 3
PHẦN NỘI DUNG.......... ...................................................................... ............. 4
Chuông 1: Cơ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC DẠY HỌC THEO QUAN ĐIỂM
TÍCHHỢP....................... .............................. !........ .................................................. 4

1.1 Dạy học theo quan điểm tích hợp.............................................................4
1.1.1 Quan điểm tích hợp............................................................................. 4
1.1.2 Tích hợp trong dạy học Ngữ văn........................................................ 5
1.2 Lý thuyết tiếp nhận tác phẩm văn học......................................................7
1.2.1 Vẩn đề tiếp nhận tác phẩm văn học....................................................7
1.2.2 Vẩn đề đọc - hiểu tác phẩm văn học................................................... 8
1.3 Những đặc trưng của thể loại ca d ao ...................................................... 10
1.3.1 Khái niệm về thể loại và thi pháp thể loại........................................10
1.3.2 Đặc trưng của thể loại ca dao.......................................................... 11
ChiroiỊ22. VÃN DỤNG QUAN ĐIỂM TÍCH HỢP TRONG DẠYHỌCCA
DAOỞLỚPIO... ......................r

.......................... ................. ■... ..................... 18

2.1 Chương trình ca dao trong SGK Ngữ văn 10......................................... 18
2.2 Vận dụng quan điểm tích họp trong dạy học ca dao lóp 10...................18

2.2.1 Thông tin nghệ thuật......................................................................... 18
2.2.2 Thông tin văn hóa............................................................................ 27
2.2.3. Thông tin ngôn ngữ.......................................................................... 37
2.2.4 Thông tin đời sổng...........................................................................40
Chuông 3. THỰC NGHIỆM SƯPHẠM.......................................................... 45
3.1 Mục đích thực nghiệm............................................................................45
3.2 Văn bản thực nghiệm.............................................................................. 45
3.3 Đối tượng thực nghiệm...........................................................................46
3.4 Thiết kế bài học.......................................................................................46
PHẦN KẾT LUẬN...... ...... ...............................................................................62
TÀI LIỆU THAM KHẢO


PHẦN M Ở ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thơ ca trữ tình dân gian là tiếng nói tâm tư , tình cảm của tập thể nhân dân
lao động. Nhân vật trữ tình trong thơ ca dân gian là những con người bình dị, người
dân lao động. Các nhà nghiên cứu Việt Nam từng đánh giá rất cao giá trị nhiều mặt
của thơ ca dân gian: “Là tiếng tơ đàn muôn điệu của tâm hồn quần chúng”.
Nằm trong dòng văn học dân gian, ca dao như dòng sữa ngọt ngào nuôi
dưỡng tâm hồn, ngọt ngào hương sắc đồng quê. Là sáng tác của quần chúng nhân
dân, những bài ca dao có tác dụng giáo dục và nuôi dưỡng tâm hồn to lớn với các
thế hệ học sinh THPT. Ca dao đem lại cho chúng ta những hiểu biết về cuộc sống,
văn hóa của con người qua các thời đại khác nhau. Nó nuôi dưỡng cho con người
những giá trị tình cảm tốt đẹp, bồi đắp tâm hồn con người. Vì những giá trị đó mà
ca dao được đưa vào chương trình SGK Ngữ Văn, trong chương trình Ngữ Văn 10,
tập 1- NXB Giáo dục, có hai chùm bài ca dao: Ca dao than thân, yêu thương tình
nghĩa và Ca dao hài hước. Khi đưa vào chương trình SGK, ca dao được học sinh
yêu thích hơn các thể loại văn học khác bởi đặc điểm giản dị, dễ hiểu, dễ thuộc, dễ
nhớ của nó. Tuy nhiên, đối với vấn đề giảng dạy và tìm hiểu về ca dao không phải

không gặp phải những khó khăn nhất định.
Dạy học ca dao trong sách Ngữ văn 10 ở nhiều trường phổ thông có nhiều
cách khác nhau. Trong những giờ học ca dao, có những bài vẫn được khai thác
giống như bài học ở các thể văn học thảnh văn, giáo viên chỉ phân tích ngôn từ của
văn bản một cách cô lập mà không đặt tác phẩm vào môi trường văn học dân gian,
thời điểm phát sinh...để khai thác. Hoặc có những bài lại dạy học theo cách “diễn
nôm ca dao”, làm phức tạp hóa sự giản dị của ca dao. Hiện nay, quan điểm tích hợp
đang được vận dụng trong dạy học Ngữ văn và đem lại hiệu quả rất tốt và nó được
vận dụng trong từng bài dạy. v ấn đề dạy học ca dao theo hướng tích hợp vẫn còn
nhiều bỡ ngỡ với giáo viên và học sinh. Xuất phát từ những lý do trên, tôi đã chọn
đề tài: “Dạy học ca dao trong ngữ văn 10 theo quan điểm tích hợp”, để giúp học
sinh tiếp cận được ca dao một cách hiệu quả nhất, đồng thời giải quyết được phần
nào khó khăn của người giáo viên đứng lớp.

1


2. Lịch sử vấn đề
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về dạy học tích hợp trong môn Ngữ văn như
“Những đổi mới của chương trình SGK và yêu cầu dạy học Ngữ văn 10 ’’(Nguyễn
Thuý Hồng,Tạp chí Giáo dục, kỳ 2, 2006); “Tích hợp trong dạy học Ngữ văn”
(Nguyễn Thanh Hùng, Tạp chí nghiên cứu khoa học Giáo dục, số 6 (3/2006); “Tích
hợp và liên hội hướng tới kết nối trong dạy học Ngữ vãn”(Nguyễn Trọng Hoàn, Tạp
chí Giáo dục, số 22, 2002)... Những tài liệu này đã cung cấp cho tôi kiến thức lí
luận, những ví dụ minh hoạ, những giải pháp cụ thể trong dạy học tích hợp trong
môn Ngữ văn và nó có vai trò định hướng, mở đường cho đề tài nghiên cứu của
chúng tôi.
v ề vấn đề phân tích, bình giảng ca dao và dạy học ca dao đã được nhiều cuốn
sách bàn tới như: “Những đặc điểm thỉ pháp của các thể loại văn học dân gian” của
GS Đỗ Bình Trị, NXB Giáo dục, “Thi pháp ca dao” của nhà nghiên cứu văn học

dân gian Nguyễn Xuân Kính, NXB Giáo dục KHXH- Hà Nội...những công trình
khoa học nghiên cứu về dạy học ca dao theo hướng tích hợp như: “Giảng dạy ca
dao-dân ca trong chương trình ngữ văn 7” , “Nâng cao chất lượng của học sinh khi
giảng dạy ca dao- dân ca trong chương trình Ngữ văn 7 như thế nào?”, “Dạy học
ca dao trong Ngữ văn 10 theo hướng tích hợp và tích cực” ...
Với những kiến thức lý luận có được từ những tài liệu trên, đề tài của chúng
tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu, tổng hợp những vấn đề lý thuyết về thi pháp ca dao, về
quan điểm tích hợp trong dạy học... để làm cơ sở cho việc khảo sát thực tế, tìm ra
những hướng đi, biện pháp tối ưu trong dạy học ca dao theo quan điểm tích hợp.
3. Đối tượng nghiên cứu
Cách dạy học ca dao toong SGK Ngữ văn 10 theo hướng tích hợp. Cụ thể là
hoạt động của giáo viên và học sinh trong các giờ học ca dao ở lớp 10 theo hướng
tích hợp.
4. M ục đích nghiên cứu
- Nắm vững được quan điểm dạy học tích hợp.
- Chỉ ra những thông tin trong dạy học ca dao.

2


- Góp phần nhỏ vào việc tìm ra các hướng đi của dạy học ca dao một cách
hiệu quả nhất.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu cơ sở lý luận và thực tiễn của dạy học tích hợp.
- Đe xuất một phương án có tính khả thi, hiệu quả cho việc dạy học ca dao ở
lớp 10 theo quan điểm tích hợp.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tổng hợp lý luận.
- Phương pháp khảo sát.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm.

- Phương pháp so sánh.
7. Cấu trú c khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, phần kết luận và thư mục tham khảo, khóa luận gồm 3
chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận của việc dạy học theo quan điểm tích hợp.
Chương 2.Vận dụng quan điểm tích hợp trong dạy học ca dao ở lớp 10.
Chương 3.Thực nghiệm sư phạm.

3


PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: C ơ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC DẠY HỌC
THEO QUAN ĐIỂM TÍCH HỢP

1.1 Dạy học theo quan điểm tích hợp
1.1.1 Quan điểm tích hợp
1.1.1.1 Khái niệm
*

Tích hợp: là một trong những xu thế dạy học hiện đại hiện đang được quan

tâm nghiên cứu và áp dụng vào nhà trường ở nhiều nước trên thế giới. Ở nước ta, từ
thập niên 90 của thế kỷ XX ừở lại đây, vấn đề xây dựng môn học tích hợp với
những mức độ khác nhau mới thực sự được tập trung nghiên cứu, thử nghiệm và áp
dụng vào nhà trường phổ thông.
Tích hợp là một phương pháp dạy học hiện đại nhằm giải quyết mâu thuẫn
giữa khối lượng kiến thức được cung cấp với năng lực thực tế của người học, kiến
thức hàn lâm với thực tế đời sống, trong khi thời gian học tập có hạn.Quan điểm
tích hợp được áp dụng với nhiều bộ môn khác nhau, với những mức độ khác nhau

như: tích hợp đa môn, tích hợp liên môn, tích hợp xuyên môn...
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về tích hợp. Có ý kiến cho rằng, tích hợp là
tổ hợp( conbi-nation) hay phối hợp (co-ordination) các môn học...
Theo Nguyễn Khắc Phi trong sách giáo viên Ngữ văn 6 đã đưa ra quan điểm về
tích hợp: “Tích hợp là một phương hướng nhằm phổi hợp một cách tối ưu các quả
trình học tập riêng rẽ các môn học khác nhau theo các mô hình, cấp độ khác nhau
nhằm đáp ứng những mục tiêu, mục đích và những yêu cầu cụ thể khác nhau ” [tr 6].
Theo quan điểm của TS.Nguyễn Văn Đường trong bài “ Những điểm mới của
chương trình và SGK Ngữ vãn ố”, tạp chỉ giáo dục, năm 2002 cho rằng: “ Tích hợp
là sự tổng hợp ở mức độ cao, hài hòa, biện chứng ở các cấp độ, phương diện khác
nhau nhằm đạt hiệu quả, chất lượng mới và tố t’’ [tr 7].
Tiến sĩ Nguyễn Trọng Hoàn trong bài “ Tích hợp và liên hội hướng tới kết nổi
trong dạy học Ngữ văn”, tạp chỉ Giáo dục, sổ 22, năm 2002 quan niệm: “Tích hợp

4


là thuật ngữ mà nội hàm của nó chỉ hướng tiếp cận kiến thức từ việc khai thác giá
trị của các tri thức công cụ thuộc từng phân môn, trên cơ sở một văn bản có vai trò
ỉà kiến thức nguồn ” [tr 21-22].
1.1.1.2 Phân loại
Tích hợp ngang là “tích hợp trong từng thời điểm”( một tiết học, một bài học)
từ kiến thức bài học của phân môn này liên hệ đến các phân môn khác ( Văn- Tiếng
Việt -Làm văn) hoặc giữa môn Ngữ văn với các môn học khác, với các lĩnh vực
trong cuộc sống, để làm nổi bật, đào sâu kiến thức, phát triển tư duy của học sinh.
Tích họp theo chiều dọc là tích hợp một đơn vị kiến thức và kỹ năng với đơn vị
kiến thức và kỹ năng đã học trước đó .Cụ thể là: kiến thức và kỹ năng của lớp trên, bậc
học trên bao hàm cả kiến thức và kỹ năng của lớp dưới, nhưng cao hơn, sâu hơn kiến
thức và kỹ năng của lớp dưới, bậc học dưới. Đây là kiểu tích hợp khoa học.
Xét riêng từng phân môn một thì khi tích hợp ngang, ít nhiều phá vỡ tính hàng

dọc của hệ thống tri thức thuộc ngành khoa học. Với phân môn Văn học, vì coi trọng
việc học văn theo thể loại nên tính hệ thống của văn học sử bị lu mờ rõ rệt. Dầu sao
chúng ta vẫn thấy các nhà biên soạn chương trình, sách giáo khoa, có dụng ý sắp xếp
các văn bản đọc- hiểu vừa theo thể loại, vừa theo tìn h tự lịch sử nhằm tạo ra ít nhiều
cơ sở cho việc học chương trình văn học sử ở bậc THPT. Thông qua các giờ ôn tập
từng phần hay ôn tập cuối năm về kiến thức văn học, giáo viên giúp học sinh bước
đầu thấy được sự phát triển của lịch sử văn học từ tác phẩm đến thể loại, đến phương
pháp, phong cách, trào lưu sáng tác và một số vấn đề lịch sử tiếp nhận văn học.
Trong các kiểu tích hợp trên, các nhà biên soạn chương trình và sách giáo
khoa đặc biệt lưu tâm đến kiểu tích hợp ngang, coi đây như là “nguyên tắc chính để
tổ chức nội dung giảng dạy” Ngữ văn.
1.1.2 Tích hợp trong dạy học Ngữ văn
Trong dạy học Ngữ văn, tích hợp hiểu một cách đơn giản là dạy học ba phân
môn hợp nhất, hòa trộn vào với nhau, học cái này thông qua cái kia và ngược lại.
Quan điểm tích hợp được vận dụng ngay trong chương trình và SGK Ngữ văn
THCS, THPT. Trong “ Chương trình THPT, môn Ngữ văn ”, năm 2002 do Bộ GD&ĐT

5


dự thảo, các nhà biên soạn chương trình SGK đã nhấn mạnh: “Lấy quan điểm tích hợp
làm nguyên tắc chỉ đạo, tổ chức nội dung chương trình, biên soạn sách giáo khoa và lựa
chọn các phương pháp giảng dạy” [tr 27]. Quán triệt quan điểm này, các nhà biên soạn
đã lồng ghép các tri thức tương đồng của ba phân môn trong cùng một bài học thật
nhuần nhuyễn, phù hợp với tính chất tích cực của chương trình SGK.
Tính chất tích hợp đã được thể hiện ngay trong chương trình SGK Ngữ văn như:
dùng tên gọi Ngữ Văn để thay thế cho các tên gọi trước đây như Văn học- Tiếng ViệtLàm văn, hay cách gọi môn Văn- Tiếng Việt, hoặc Tiếng Việt- Văn học. Như vậy ngay
từ cách gọi tên môn học đã thể hiện sự tích hợp liên môn của ba phân môn.
Tích hợp ba phân môn trong cùng một bài dạy nhằm mục đích hình thành bốn
kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết và hình thành cho học sinh năng lực phân tích, bình giá,

cảm thụ văn học một cách chủ động, sáng tạo, giúp học sinh biết vận dụng linh hoạt
những kiến thức, kỹ năng của từng phân môn để giải mã và tạo lập văn bản.
Việc vận dụng quan điểm tích hợp vào dạy học Ngữ văn ở trường THPTchẳng
những dựa trên cơ sở các mối liên hệ về lí luận và thực tiễn được đề cập trong các
phân môn Văn học, Tiếng Việt, Làm văn cũng như các bộ phận tri thức khác như
hiểu biết lịch sử xã hội, văn hoá nghệ thuật... mà còn xuất phát từ đòi hỏi thực tế là
cần phải khắc phục, xoá bỏ lối dạy học theo kiểu khép kín, tách biệt thế giới nhả
trường và thế giới cuộc sống, cô lập giữa những kiến thức và kĩ năng vốn có liên hệ,
bổ sung cho nhau, tách rời kiến thức với các tình huống có ý nghĩa, những tình
huống cụ thể mà HS sẽ gặp sau này. Nói khác đi, đó là lối dạy học khép kín “trong
nội bộ phân môn”, biệt lập các bộ phận Văn học, Tiếng Việt và Làm văn vốn có
quan hệ gần gũi về bản chất, nội dung và kĩ năng cũng như mục tiêu, đủ cho phép
phối hợp, liên kết nhằm tạo ra những đóng góp bổ sung cho nhau cả về lí luận và
thực tiễn, đem lại kết quả tổng hợp và vững chắc trong việc giải quyết những tình
huống tích hợp hoặc những vấn đề thuộc từng phân môn.
Tóm lại, tích hợp trong dạy học môn Ngữ văn có thể hiểu là sự hợp nhất của ba
phân môn Văn- Tiếng Việt- Làm văn. Cả ba phân môn đều dựa vào một văn bản chung
để khai thác, hình thành kiến thức và rèn luyện kỹ năng theo yêu cầu của mỗi phần

6


trong hệ thống kiến thức của cả ba phần có mối liên hệ chặt chẽ, phụ thuộc vào nhau,
hồ trợ nhau và cùng làm sáng tỏ cho nhau, tránh chồng chéo và có tính chất thống nhất.
1.2 Lý thuyết tiếp nhận tác phẩm văn học
1.2.1 Vẩn để tiếp nhận tác phẩm văn học
1.2.1.1 Khái niệm tiếp nhận tác phẩm văn học
Theo “Từ điển Tiếng Việt”: tiếp nhận là đón nhận cái từ người khác, từ nói
khác chuyển giao cho [9,tr 1020].
Theo “Từ điển th u ật ngữ văn học” quan niệm: tiếp nhận văn học là hoạt

động chiếm lĩnh các giá trị tư tưởng thẩm m ĩ của tác phẩm văn học bắt đầu từ sự
cảm thụ văn bản ngôn từ, hình tượng nghệ thuật, tài nghệ của tác giả cho đến sản
phẩm sau khi đọc, cách hiểu, ẩn tượng trong trí nhớ ảnh hưởng trong hoạt động
sáng tạo, bản dịch chuyển thể [3,tr 325].
Như vậy, tiếp nhận văn học là một hoạt động tinh thần. Đó là một quá trình
đưa TPVH- sản phẩm nghệ thuật tinh thần được sáng tạo bởi một cá nhân hoặc cả
một tập thể đến với độc giả. Đây là một hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu hưởng
thụ thẩm mĩ, nhận thức, giải trí làm giàu vốn sống của người đọc.
1.2.1.2 Đặc trưng của tiếp nhận văn học
Đặc trưng của quá ừình tiếp nhận văn học: vừa mang tính chủ quan, chịu sự
chi phối của qui luật tâm lí, nhận thức, giao tiếp và mang tính khách quan do điều
kiện sống, lịch sử, không gian, thời gian chính trị văn hóa.
Hoạt động tiếp nhận các văn bản Ngữ văn là một hoạt động nhận thức nói
chung đối với những ai đọc và quan tâm đến văn bản Ngữ văn, đồng thời nó cũng là
một hoạt động nghệ thuật của người học, là hoạt động mang tính mục đích nhằm
chuyển nội dung các văn bản vốn tồn tại khách quan vào bên trong ý thức của người
tiếp nhận.Nó là một hoạt động tiếp nhận mang tính đặc thù, bởi nó là một hoạt động
tinh thần và kết quả của hoạt động này phụ thuộc sâu sắc vào chủ thể tiếp nhận, vào
tàm tiếp nhận của chủ thể ( năng lực, tâm lí và điều kiện tiếp nhận).
Tiếp nhận văn học luôn tồn tại những khoảng cách. Đó là khoảng cách về lịch
sử: TPVH khi được đưa vào trong nhà trường đã là quá khứ, giữa văn bản và người

7


học luôn tồn tại khoảng cách về lịch sử. Khoảng cách về tâm lí: giữa các tác giả và
người đọc, cũng như các nhân vật trong tác phẩm với bạn độc luôn tồn tại một
khoảng cách tâm lí. Ở đây có sự khác biệt về tâm lí thế hệ. Tác giả thuộc một thê
hệ, bạn đọc thuộc một thế hệ. Sự khác biệt về tâm lí dẫn đến sự hiểu biết và thông
cảm là vô cùng khó khăn. Khoảng cách ngôn ngữ: ngôn ngữ là một hiện tượng xã

hội, nó vừa ổn định, vừa biến đổi. Trong quá trình phát triển, có những từ, mẫu câu
mất đi hoặc không được sử dụng, có những từ mẫu câu mới xuất hiện. Những biến
đổi này tạo ra khoảng cách về ngôn ngữ. Nó gây cản trở khó khăn cho việc đọc các
văn bản văn học, nhất là văn bản văn học trong quá khứ và các văn bản văn học
nước ngoài được dịch ra Tiếng Việt. Nhưng do sự khác biệt về ngôn ngữ và văn
hóa, nên việc chuyển đổi về ngôn ngữ là vô cùng khó khăn.
Những khoảng cách trên luôn tồn tại, trở thành khó khăn cho quá trình tiếp
nhận. Nhiệm vụ của người dạy TPVH trong nhà trường là bằng cách nào đó giúp
người học rút ngắn các khoảng cách. Khoảng cách càng được rút ngắn thì hiệu quả
tiếp nhận càng được nâng cao.
1.2.1.3 Định hướng tiếp nhận vãn học
Định hướng tiếp nhận văn học trong dạy học là xác định cho bài giảng một
hướng khai triển sao cho đạt được hiệu quả giáo dục và phát triển. Trong dạy học
Ngữ văn, định hướng là xác định những khả năng tác động của tác phẩm, những
khả năng tác động thiết thực ở một lớp, một cấp, một lứa tuổi nhất định để hướng
các em vào giá trị, ý nghĩa khách quan của tác phẩm và tư tưởng nghệ thuật của tác
giả. Từ đó tạo nên sự hòa đồng thẩm mĩ giữa học sinh với tác giả thông qua văn bản
văn chương nhằm giáo dục đạo đức, nhân cách và mở rộng tri thức ở các em. Các
định hướng tiếp nhận văn học: đọc văn bản văn chương, định hướng cắt nghĩa, định
hướng phân tích, định hướng bình giá.
1.2.2 Vẩn để đọc - hiểu tác phẩm văn học
1.2.2.1Khái niệm đọc- hiểu
Theo “Từ điển Tiếng Việt” (2008) thì đọc là “tiếp nhận nội dung của một tập
kí hiệu bằng cách nhìn vào các kí hiệu

Trong tiếp nhận tác phẩm văn chương, đọc

là khâu đầu tiên, là hoạt động tiền đề.

8



GS.TS. Trần Đình Sử trong tạp chí “Văn học và tuổi trẻ” ( tháng 11-2007)
đưa ra khái niệm như sau: “đọc là tổng hòa của nhiều quá trình, nhiều hành vi
nhằm đạt được mục đích và nắm bẳt ỷ nghĩa của văn bản. Đọc bằng mẳt, bằng
miệng ( phát âm), đọc nhận biết, tưởng tượng, ỉỉên hệ, ghi chép, ghi nhớ, tra cứu,
phân tích, so sánh, trao đổi
Theo “Từ điển Tiếng Việt” (2008) thì hiểu là: “Nhận ra ỷ nghĩa, bản chất, lí
ỉẽ của cái gì bằng sự vận dụng trí tuệ

Có thể thấy, hiểu là tiếp nhận các thông tin,

cắt nghĩa các thông tin tiếp nhận từ văn bản.
Như vậy, đọc hiểu là hai khái niệm, đọc là một hoạt động ở đây có chủ thể đối
tượng, chủ thể là bạn đọc, đối tượng là văn bản. Hiểu là mục đích của việc đọc.
Có nhiều quan niệm khác nhau về việc đọc hiểu. Quan niệm thứ nhất: đọchiểu là một phương pháp, nó tồn tại bình đẳng với cá phương pháp khác nhau như
phương pháp diễn giảng, phương pháp thuyết trình, phương pháp dạy học nêu vấn
đề... Quan niệm hai: đọc- hiểu là một kiểu dạy học văn bản, giống như dạy gảng văn
trước đây nhưng nó rộng lớn hơn giảng văn, vì giảng văn chỉ dùng cho kiểu một văn
bản là văn bản nghệ thuật. Còn đọc- hiểu được dùng cho tất cả các loại văn bản
thuộc các phong cách chức năng ngôn ngữ khác nhau.
Trong SGK Ngữ văn thí điểm lớp 10 do Phan Trọng Luận chủ biên chia đọchiểu thành bốn bước và cũng có thể hiểu là bốn cấp độ và mỗi cấp độ có hai mức:
Đọc thông- đọc thuộc. Đọc kĩ- đọc sâu. Đọc hiểu- đọc sáng tạo. Đọc đánh giá- đọc
ứng dụng.
1.2.2.2 Vai trò chức năng của đọc- hiểu
Đọc là hoạt động của con người, chỉ có con người mới có thể đọc được các
văn bản từ ngữ, giải mã các kí hiệu ngôn ngữ. Trong dạy học Ngữ văn hiện nay,
đọc- hiểu là một khâu quan trọng, để phát hiện ra cái hay cái đẹp của tác phẩm văn
chương thì đọc hiểu là yêu cầu đầu tiên. Thông qua đọc- hiểu, HS sẽ được cung cấp
những tri thức về con người, đời sống, xã hội.... bởi thông tin trong các văn bản vô

cùng phong phú và đa dạng. Nhận thức được thế giới, cuộc sống của cin người sẽ
giúp học sinh nhận thức được bản thân mình, các em sẽ hiểu mình cần phải làm gì

9


và làm như thế nào để sống tốt và có ý nghĩa hơn. Như vậy, đọc- hiểu là một
phương thức giáo dục đạo đức và thẩm mĩ góp phần hoàn thiện nhân cách HS.
Bên cạnh đó hoạt động đọc- hiểu rèn luyện cho các em tính chủ động, óc sáng
tạo và năng lực làm văn. Đọc- hiểu còn là một phương pháp dạy học mới, khắc
phục được những hạn chế của phương pháp dạy học truyền thống...
Như vậy, đọc- hiểu trở thành một yêu càu bắt buộc để tiếp nhận một tác phẩm
văn chương, đờng thời nó có vai trò vô cùng quan trọng trong hoạt động dạy và học
Ngữ văn theo tinh thần đổi mới.
1.3 Những đặc trưng cũa thể loại ca dao
1.3.1 Khái niệm về thể loại và thi pháp thể loại
Việc dạy học ca dao theo đặc trưng thể loại là gì, nó có những ưu điểm và hạn
chế như thế nào và dạy học ca dao theo quan điểm tích hợp như thế nào? Đề tài này
sẽ làm rõ hai vấn đề trên. Để làm sáng tỏ hai vấn đề trên tôi dựa vào những thảnh
tựu nghiên cứu về thi pháp của các nhà nghiên cứu văn học dân gian (Hoàng Tiến
Tựu, Nguyễn Xuân Kính, Đồ Bình Trị...) và những tài liệu hướng dẫn thực thi
chương trình và SGK Ngữ văn vừa được đổi mới và thông qua việc khảo sát thực tế
dạy học ca dao theo SGK Ngữ văn 10 vừa mới thực thi đàu năm.
Những điều trình bày dưới đây về các khái niệm thể loại, thi pháp thể loại và
đặc trưng của thể loại ca dao được lấy từ cuốn “Thi pháp ca dao” của tác giả
Nguyễn Xuân Kính , cuốn “Những đặc điểm thi pháp của các thể loại văn học dân
gian ” của tác giả Đỗ Bình Trị và được lấy làm một trong những cơ sở lý thuyết cho
luận văn này.
Theo tác giả Đồ Bình Trị trong cuốn “Những đặc điểm thỉ pháp của các thể
loại văn học dân gian


thể loại là tổng thể các tác phẩm cùng cỏ chung mẩy dấu

hiệu về hệ đề tài, thi pháp, chức năng, phương thức diễn xướng [tr 3].
Theo tác giả Đỗ Bình Trị trong cuốn “Những đặc điểm thi pháp của các thể loại
văn học dân gian

thỉ pháp thể loại là tổng thể các yếu tổ thuộc về hình thức và thủ

pháp nghệ thuật mà các tác phẩm thuộc cùng một thể ỉoại đều thong nhất sử dụng [tì14].
Mỗi thể loại VHDG có cách nói riêng của nó nhằm biểu đạt nội dung riêng.

10


Thi pháp thể loại chính là cách nói riêng ấy. Vì vậy, phải nắm được thi pháp thể loại
mới có khả năng giải mã được các tác phẩm cùng thể loại. Dạy học ca dao theo đặc
trang thể loại là đi tìm hiểu tất cả các yếu tố thuộc về hình thức và thủ pháp nghệ
thuật của nó.
1.3.2 Đặc trưng cửa thể loại ca dao
*

về nhân vật trữ tình trong ca dao

Ca dao là loại thơ trữ tình dân gian, bày tỏ tiếng nói tư tưởng tình cảm của con
người, trong ca dao truyền thống, chủ thể trữ tình( tức tác giả) luôn đồng nhất với
nhân vật trữ tình.
Thông qua những nhân vật trữ tình toong ca dao, xu hướng nhân dân muốn
diễn tả những nét bản chất gắn với con người trong thời đại ấy. Những nét bản chất
này thể hiện một cách tập trung ở cảm hứng trữ tình chủ đạo trong ca dao, dù là

nam hay nữ, dù là vợ hay chồng, người làm ruộng hay người làm nghề sông nước...
nhưng đều cảm nhận thân phận mình là thấy buồn, thấy khổ thì sẽ cất lên thành bài
ca than thở về những khổ đau và bất hạnh của kiếp người; nêu cảm nghĩ về những
người mình thương mến, những nơi thân thuộc mà thấy yêu thương thì ắt sẽ cất lên
thành bài ca ân tình ân nghĩa - tình gia đình, tình bạn bè, tình yêu đôi lứa, tình yêu
quê hương đất nước... Chính vì vậy, nói đến ca dao, dân ca người ta nhắc đến những
câu hát than thân và những câu hát tình nghĩa của quần chúng nhân dân, những
người lao động và bị áp bức trong xã hội cũ...
Nhân vật trữ tình thường gắn với những đại từ nhân xưng trong ca dao như:
“anh”, “em”, “qua”, “bậu”, “ta”, “chàng”, “thiếp”, “tôi”...
“Ai làm bầu bí đứt dây
Thiếp ở bên này, chàng ở bên kia”
Hay:
“Bậu nói với qua bậu không hái lựu bẻ đào,
Chớ mận đâu bậu bọc, đào nào bậu cầm tay.”
Và kể cả những hình ảnh xưng hô ẩn dụ như: “mận”, “đào”, “trúc”, “mai”,
“trăng”, “gió”, “thuyền”, “biển” ...Tất cả không hề có dấu ấn cá nhân nên dễ dàng
gợi sự đồng cảm sâu xa ở người đọc:

11


“Thuyền đi có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền”
“Trúc xinh trúc mọc đầu đình
Em xinh em đứng một mình vẫn xinh
* v ề kết cấu của ca dao
Ca dao có kết cấu rất đặc trang, vì vậy dạy học ca dao càn giúp học sinh nắm được
kết cấu của ca dao, để vận dụng nó vào nói và viết những lúc cần thiết(tích hợp).
Ket cấu ca dao rất đa dạng, gồm những kiểu chính:

Lối kết cấu đối đáp là những lời trò chuyện trực tiếp bằng thơ ca:
“Bây giờ mận mới hỏi đào,
Vườn hồng đã có ai vào hay chưa?
Mận hỏi thì đào xin thưa,
Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào.”
Người con trai ướm hỏi cô gái và cô gái trả lời. Dạng kết cấu này chiếm hầu hết
trong kho tàng ca dao, dân ca là mảng đề tài về tình yêu đôi lứa và tình cảm gia đình.
Tuy nhiên trong ca dao, không hẳn mọi bài ca dao đều chia ra rõ ràng lời của
hai nhân vật trữ tình cùng tham gia đối đáp, có những bài ca dao kết cấu chỉ theo
một vế và tự nó đã có đầy đủ đặc tính của kết cấu đối đáp,vì bản thân nó như một
lời trò chuyện:
“Trầu không vôi ắt là trầu nhạt
Cau không hạt ắt là cau tra
Mình không lấy ta ắt là mình thiệt
Ta không lấy mình, ta biết lấy ai?”
“Hoa thơm hoa héo càng thơm
Em giòn rách áo đói cơm càng giòn”
Lặp lại mô tip dân gian cũng là một trong những đặc điểm quan ưọng của
kết cấu ca dao, các công thức mở đầu có tính khuôn mẫu của cùng một cách nghĩ
bộc trực, gần gũi với cuộc sống hàng ngày. Đây chính là một biểu hiện của ca dao
mang sắc thái riêng biệt như: chiều chiều, trèo lên cây, thân em, ước gỉ...tạo ra sự

12


nảy sinh của vô số dị bản ừong ca dao, điều quan trọng hơn là nó thể hiện lối nói,
suy nghĩ, tình cảm của nhân dân lao động.
* về thể thơ trong ca dao
Các thể thơ trong ca dao xét chung đều là những thể thơ dân tộc: lục bát, lục
bát biến thể, song thất lục bát, song thất lục bát biến thể, các thể vãn... Mồi thể loại

này đều có những nét riêng biệt nhất định, phù hợp với tình huống, tâm trạng hoặc
tùy theo các làn điệu. Điều đó chứng tỏ các tác giả dân gian không chịu bó các sáng
tác của mình trong các huôn mẫu có sẵn, tạo nên tính đa dạng của ca dao, sự hồn
nhiên mộc mạc trong ca dao hơn thơ.
Dạy học ca dao giúp các em nắm được những đặc điểm của các thể thơ dân tộc,
được các tác giả dân gian sử dụng để biểu lộ những tình cảm nhất định.
* về hình ảnh biểu tượng
Thế giới biểu tượng trong ca dao khá phong phú và đa dạng. Biểu tượng trong ca
dao là một loại biểu tượng nghệ thuật, xây dựng bằng ngôn từ với những quy ước của
cộng đồng. Có thể phân loại các biểu tượng hết sức phong phú đa dạng của hiện thực
ấy như sau:thế giới các hiện tượng tự nhiên, thiên nhiên (trăng, sao, mây, cỏ, cây, hoa,
lá,rồng, phượng, chim, muông...); thế giới các vật thể nhân tạo(khăn, gương
lược,thuyền, lưới, đò, đình, nhà, cầu, áo....)
Những biểu tượng này trở thành những mô típ quen thuộc, như những ký ức
tư tưởng thẩm mỹ dân gian, cho nên hễ nói lên một biểu tượng nào trong ca dao, ta
có thể dễ dàng cảm nhận được.
* v ề thời gian, không gian nghệ thuật
Dạy học ca dao giúp học sinh nắm bắt được khái niệm về thời gian, không
gian nghệ thuật và các khái niệm liên quan như thời gian diễn xướng, thời gian ước
lệ tượng trưng, không gian tâm lý, không gian ước lệ tượng trưng....
Thời gian nghệ thuật và không gian nghệ thuật là sự thể hiện hiện thực khách quan
được phản ánh vào trong tóc phẩm tạo nên thế giới nghệ thuật cho tác phẩm ấy.
Thời gian nghệ thuật trong ca dao là thời gian hiện tại, thời gian diễn xướng.Thời
gian hiện tại của ca dao bộc lộ qua những từ như: hôm nay, hôm qua:

13


“Bây giờ em mới hỏi anh,
Trầu vàng nhá với cau xanh thế nào?

Cau xanh nhá với trầu vàng,
Tình anh sánh với duyên nàng đẹp đôi.”
“Hôm nay sum họp trúc mai,
Tình chung một khắc, nghĩa dài trăm năm.”
Trong ca dao còn có những cụm từ chỉ thời gian như: ngày đi,ngày về, hôm
qua, đêm qua thì cũng từ thời hiện tại mà nói. Likhatrốp gọi là thời gian diễn xướng.
Ngoài ra thời gian trong ca dao còn là thời gian tâm lý. Đã là thời gian tâm lý thì nó
có muôn vàn cách biểu hiện phụ thuộc vào những cảm nghĩ, tâm tư, cảm xúc...của
nhân vật trữ tình.
“Ngày đi em chửa có chồng,
Ngày về em đã con bế, con bồng, con mang.”
“Ngày đi” không còn là thời gian vật lí mà thời gian đang diễn ra trong tâm
trạng nhân vật, hoàn cảnh chủ quan. Đó là tâm trạng của nhân vật trữ tình trước sự
thay đổi của hoàn cảnh:
“Tôi xa mình ông trời nắng tôi nói mưa,
Canh ba tôi nói sáng, ông ười mưa tôi nói chiều.”
Không gian nghệ thuật: dòng sông, con thuyền, cái cầu, bờao, cây đa, mái
đình...là những không gian vật lí thường gặp trong ca dao.
“Cô kia cắt cỏ bên sông,
Có muốn ăn nhãn thì lồng sang đây.
Sang đây anh nắm cổ tay,
Anh hỏi câu này có lấy anh không. ”
Nhìn chung, trong kho tàng văn học dân gian của người Việt, không gian vật lí
là những không gian bình dị của làng quê, có quy mô vừa phải. Bên cạnh không
gian vật lí, trong ca dao còn xuất hiện không gian xã hội. Ở đây có những mối quan
hệ xã hội hết sức đa dạng giữa con người với con người.
“Gặp nhau giữa chuyến đò đầy,
Một lòng đã hẹn, cầm tay mặn mà.”

14



Cũng giống như thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật trong ca dao trữ
tình cũng là thời gian tâm lí. Nếu xác định được nhân vật trữ tình đang hát ở nơi nào,
địa điểm nào thì ta đoán biết được tâm trạng của nhân vật đang diễn ra như thế nào.
Chẳng hạn, “ngõ sau” là nỗi buồn, nỗi nhớ; “bến sông” là nơi ngóng trông chờ đợi,
“giữa đường” là nơi gặp gỡ, làm quen. Bên cạnh những không gian vật lí, không
gian xã hội có tên gọi, không gian trong ca dao còn là không gian phiếm chỉ. Tính
phiếm chỉ tạo nên sự đồng cảm của những con người mang tâm trạng chung. Đó có
thể là tâm trạng của một cô gái đang yêu, một chàng trai thất tình, một người con xa
quê...tính chất này làm cho người đọc đồng cảm, có chung tâm trạng khi đọc những
câu ca dao ấy lên đều thấy mình trong đó.

* về ngôn ngữ trong ca dao
Dạy học ca dao giúp học sinh nhận biết và cảm thụ được vẻ đẹp của ngôn ngữ
ca dao. Từ đó biết vận dụng vào việc làm văn biểu cảm trong tạo lập văn bản hoặc
dùng ca dao làm ngữ liệu để soi tỏ đặc điểm của Tiếng Việt ( tích hợp với hai phân
môn Làm văn và Tiếng Việt).
Ca dao là sự kết tinh lời ăn tiếng nói hằng ngày của nhân dân lao động.
Ngôn ngữ ca dao là thứ ngôn ngữ tự nhiên, chânchất, giản dị...Tính chất giản dị
đứng là một đặc điểm gây ấn tượng nhất của ngôn ngữ ca dao. Tình yêu mộc mạc của
người bình dân được thể hiện một cách chân thành, đôi khi hài hước hóm hỉnh:
“Cô kia cắt cỏ bên sông
Có muốn ăn nhãn thì lồng sang đây.
Sang đây anh nắm cổ tay,
Anh hỏi câu này: có lấy anh chăng?”
“Hỡi cô gánh cỏ đường vòng
Vai anh không gánh nhưng lòng anh thương
Hỡi cô gánh cỏ đường vòng
Cho anh gánh hộ để làm chồng một vai”.

Ngôn ngữ ca dao mang vẻ đẹp giản dị nhưng cũng rấ t sinh động. Ca dao
biểu hiện cảm nghĩ một cách gợi cảm, miêu tả sự vật một cách gợi hình, điều này

15


thể hiện ở việc sửdụng sáng tạo những từ mô phỏng, từ láy, thanh điệu, các biện
phápso sánh, ẩn dụ, tượng trưng cùng hệ thống động từ và tính từ của

Tiếng Việt.

“Đôi ta như thể con tằm
Cùng ăn một lá cùng nằm một nong”
“Thiếp xa chàng như rồng nọ xa mây
Như chim chèo bẻo xa cây măng vòi”
Nhờ khéo léo khai thác, sử dụng những giá trị gợi tả dồi dàocủa tiếng dân tộc,
ngôn ngữ ca daocó khả năng tác động mạnh mẽ vào các giác quan, cảm quan, trực
giác và trí tưởng tượng của người tiếp nhận.
Ngôn ngữ ca dao vừa đậm đà bản sắc dân tộc vừa mangsắc thái địa
phương. Chúng ta nhận thấy dấu ấn văn hóa vùng miền nhờ vào ngôn ngữ địa
phương. Ca dao Bắc Bộ thì nhẹ nhàng tình tứ.
“Người về em chẳng cho về,
Em nâng vạt áo, em đề câu thơ.”
Ca dao Nam

Bộ thì bộc lộ một cách rõ ràng, bộc trực, dứt khoát:
“Anh về em nắm vạt áo em la làng,
Anh bỏ chữ thương chữ nhớ giữa đàng cho em.”

Có thể nói, ngôn ngữ rất quan trọng trong việc thể hiện nội dung văn bản, là

chất liệu quan trọng của văn bản nghệ thuật. Ngôn ngữ ca dao vừa mang sắc thái
dân gian gắn với

cách cảm, cách nghĩ của nhân dân lao động, vừa gắnvới những

cảm xúc cá nhân

trong tình huống cụ thể, cái tôi trữ tình trong dângian là cái tôi

phiếm chỉ, cái tôi phổ biến. Ngôn ngữ ca dao đã kế tục phát huy những đặc điểm
ngôn từ tuyệt vời của Tiếng Việt.
Việc dạy học ca dao theo đặc trưng thể loại giúp người dạy và người học soi
chiếu bài ca dao ấy vào đặc trang cơ bản của nó. Ca dao chỉ thực sự sống khi đặt
vào môi trường văn hóa của nó, tức là khai thác ca dao không phải chỉ chú ý đến
các yếu tố ngoài văn bản: các làn điệu dân ca, hình thức diễn xướng...mà còn là tổ
hợp của nhiều nghệ thuật: lời ,nhạc, biểu diễn... Vì thế nhất thiết giáo viên phải đặt
ca dao vào trong chỉnh thể nguyên hợp văn hóa, có như vậy, người dạy mới xác

16


định đúng bản chất của ca dao và người học mới hiểu trọn vẹn và sâu sắc văn bản
ngôn từ ca dao. Dạy học ca dao theo đặc trưng thể loại còn giúp bao quát được văn
bản ca dao một cách toàn diện các yếu tố thuộc về hình thức biểu đạt: ngôn ngữ,
hình ảnh, kết cấu, thời gian, không gian nghệ thuật, thể thơ... Các yếu tố này đan
xen hòa quyện tạo nên một chỉnh thể văn bản ca dao thống nhất, toàn vẹn. Như vậy,
dạy học ca dao theo đặc trang thể loại giúp việc khái quát giá trị mục đích và cách
thức biểu đạt của mỗi văn bản ca dao một cách hiệu quả. Tuy nhiên việc dạy học ca
dao theo đặc trưng thể loại vẫn có những hạn chế nhất định, việc dạy học ca dao
theo thi pháp chủ yếu là để phát hiện những yếu tố hình thức chứa đựng giá ưị nội

dung rõ nhất, sâu sắc nhất có ý nghĩa thẩm mĩ lâu dài. Tuy thế, ca dao còn phản
chiếu nội dung văn hóa dân gian và nghệ thuật diễn xướng dân gian với những dấu
ấn riêng. Do vậy, tiếp cận ca dao theo đặc trưng thể loại là cần thiết, nhưng chưa đủ
để khám phá các bình diện nội dung và ý nghĩa khác trong ca dao.

17


Chương 2: VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TÍCH HỢP
TRONG DẠY HỌC CA DAO Ở LỚP 10
2.1 Chương trình ca dao trong SGK Ngữ văn 10
Chương trình THPT, môn Ngữ văn, năm 2002 do Bộ GD&ĐT dự thảo đã ghi
rõ: “Lấy quan điểm tích hợp làm nguyên tắc chỉ đạo để tổ chức nội dung chương
trình, biên soạn SGK và lựa chọn các phương pháp giảng dạy.” “Nguyên tắc tích
hợp phải được quán triệt trong toàn bộ môn học, từ Đọc văn, Tiếng Việt đến Làm
văn; quán triệt trong mọi khâu của quá trình dạy học; quán triệt trong mọi yếu tố
của hoạt động học tập; tích hợp trong chương trình; tích hợp trong SGK; tích hợp
trong phương pháp dạy học của GV và tích hợp trong hoạt động học tập của HS;
tích hợp trong các sách đọc thêm, tham khảo.”
Kế thừa thành tựu của sách giáo khoa cũ, về cấu trúc và nội dung của phần
văn học dân gian có nhiều thay đổi về cấu trúc và nội dung chương trình, trong đó
ca dao được tăng số tiết học và có sự tích hợp. Trong SGK Văn học 10 gồm hai
chùm bài: Những câu hát than thân và Những câu hát tình nghĩa (không học ca dao
hài hước). Trong SGK Ngữ văn 10 gộp hai chùm bài ca dao thành: Ca dao than
thân, yêu thương tình nghĩa và một chùm bài là: Ca dao hài hước.
2.2 Vận dụng quan điểm tích hợp trong dạy học ca dao lớp 10
2.2.1 Thông tin nghệ thuật
Một văn bản nghệ thuật bao gồm nhiều thông tin phong phú và đa dạng. Dạy
học theo quan điểm tích hợp sẽ cung cấp cho học sinh khối lượng kiến thức tổng
hợp. Nó khác với cách dạy truyền thống là chỉ cung cấp cho học sinh những giá trị

về nghệ thuật, tư tưởng và các biện pháp nghệ thuật nổi bật. Thông qua việc xây
dựng các tình huống, nêu các vấn đề, thảo luận nhóm, hệ thống các câu hỏi...trong
bài học, mà người GV giúp HS hoạt động tìm hiểu và chiếm lĩnh các gia trị thông
tin của tác phẩm.
Ca dao phản ảnh tâm tư, tình cảm, thế giới tâm hồn của người lao động. Nó
thường được biểu hiện thành: những câu hát than thân, những câu hát yêu thương
tình nghĩa, những tiếng cười trào lộng, châm biếm...Chủ thể trữ tình luôn luôn đồng

18


nhất với nhân vật trữ tình và thông qua nhân vật trữ tình, người đọc có thể thấy
được nồi tâm tư tình cảm của một con người, của cả một thế hệ, cộng đồng có
chung cảm xúc đó. Cách xưng hô trong ca dao thường gắn với các đại từ nhân xưng
như: “anh, em, nàng,ta...” và thường có những mô tip mở đàu quen thuộc như: thân
em, trèo lên cây, ước gì....
“Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”
Hay
“Thân em như củ ấu gai
Ruột ừong thì trắng vỏ ngoài thì đen
Ai ơi nếm thử mà xem
Nếm ra, mới biết rằng em ngọt bùi”
Mô tip “thân em” xuất hiện trong ca dao để khẳng định đây lời than thân
ngậm ngùi, xót xa của người phụ nữ: thân phận bị phụ thuộc, nhỏ bé, không tự
quyết định được số phận đời mình trong xã hội phong kiến xưa. Đó là lời than
chung của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Xã hội phong kiến phụ quyền tồn
tại hàng nghìn năm với những quan niệm bất công đã đẩy người phụ nữ xuống địa
vị thấp kém nhất ữong gia đình cũng như xã hội. Nỗi niềm ấy được họ gửi gắm vào
những câu ca dao than thân, tuy là “thân em” nhưng nó là đại diện cho tất cả người

phụ nữ xưa. Trong ca dao có biết bao nhiêu những câu hát than thân về cuộc đời, số
phận của người phụ nữ:
“Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào đài các hạt ra ruộng cày”
Hay:
“Thân em như chổi đầu hè
Phòng khi mưa gió đi về chùi chân
Chùi rồi lại vứt ra sân
Gọi người hàng xóm có chân thì chùi”...

19


×