Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Luận văn: DẠY - HỌC CA DAO TRONG NGỮ VĂN 10 THEO HƯỚNG TÍCH HỢP VÀ TÍCH CỰC docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.26 MB, 101 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
  




NGUYỄN THỊ PHƯƠNG CHI




DẠY - HỌC CA DAO TRONG NGỮ VĂN 10
THEO HƯỚNG TÍCH HỢP VÀ TÍCH CỰC


Chuyên ngành: LÝ LUẬN PHƯƠNG PHÁP DẠY - HỌC VĂN TIẾNG
VIỆT

Mã số: 60.14.10



LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC





Người hướng dẫn khoa học: TS. Hoàng Hữu Bội






THÁI NGUYÊN – 2007


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
  






NGUYỄN THỊ PHƯƠNG CHI





DẠY - HỌC CA DAO TRONG NGỮ VĂN 10
THEO HƯỚNG TÍCH HỢP VÀ TÍCH CỰC







LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC











THÁI NGUYÊN – 2007
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


QUY ƯỚC VIẾT TẮT


GV : Giáo viên
HS : Học sinh
NXB : Nhà xuất bản
SGK : Sách giáo khoa
PPGD : Phương pháp giảng dạy
THPT : Trung học phổ thông

THCS : Trung học cơ sở
Tr : Trang
VHDG : Văn học dân gian
VHV : Văn học viết
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Mục lục
Mở đầu 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 3
3. Mục đích nghiên cứu 11
4. Đối tượng nghiên cứu 11
5. Nhiệm vụ nghiên cứu 11
6. Phương pháp nghiên cứu 12
7. Giả thuyết của luận văn 12
8. Bố cục của luận văn 12
Nội dung 13
Chương 1: Cơ sở lý luận của việc dạy - học ca dao theo hướng tích
hợp, tích cực 13
1.1. Dạy học ca dao theo cách tiếp cận từ đặc trưng của thể loại ca dao 13
1.1.1. Vận dụng thi pháp ca dao vào dạy học ca dao 13
1.1.2. Đổi mới phương pháp dạy - học ca dao 26
1.1.3. Những ưu điểm của dạy học ca dao theo hướng thi pháp 34
1.1.4. Những hạn chế của dạy học ca dao theo hướng thi pháp 36
1.2. Quan điểm tích hợp và dạy - học ca dao theo hướng tích hợp 37
1.2.1. Quan điểm tích hợp trong dạy - học Ngữ văn 37
1.2.2. Nội dung tích hợp trong dạy - học Ngữ văn ở THPT 39
1.2.3. Vận dụng nội dung tích hợp trong dạy - học ca dao ở lớp 10 43
1.3. Quan điểm tích cực và nội dung dạy-học ca dao theo hướng tích cực 45
1.3.1. Quan điểm tích cực trong dạy - học Ngữ văn 45
1.3.2. Nội dung tích cực trong dạy - học Ngữ văn ở THPT 45

1.3.3. Vận dụng phương pháp dạy học tích cực trong dạy - học ca dao ở
lớp 10 48
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Chương 2: Tổ chức dạy - học ca dao ở lớp 10 theo hướng tích hợp,
tích cực 50
2.1. Việc thực thi chương trình và SGK Ngữ văn 10 ở phần ca dao 50
2.1.1. Nhận thức của giáo viên về dạy học theo hướng tích hợp tích cực 50
2.1.2. Việc thực thi của giáo viên ở giờ dạy ca dao 53
2.2. Chương trình và SGK Ngữ văn 10 56
2.2.1. Một số vấn đề chung về chương trình và SGK mới 56
2.2.2. Chương trình và SGK Ngữ văn 10 58
2.3. Tổ chức dạy - học ca dao ở Ngữ văn 10 theo hướng tích hợp, tích cực 59
2.3.1. Dạy ca dao theo hướng tích hợp 59
2.3.1.1. Tích hợp và Tập làm văn 59
2.3.1.2. Tích hợp với tiếng Việt 60
2.3.2. Dạy học ca dao theo hướng tích cực 60
Chương 3: Thiết kế thể nghiệm 68
3.1. Mục đích thể nghiệm 68
3.2. Nội dung thể nghiệm 68
3.3. Đối tượng thể nghiệm 70
3.4. Thiết kế bài học 70
3.5. §¸nh gi¸ thiÕt kÕ thÓ nghiÖm 89
Kết luận 90
Tài liệu tham khảo 93
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Lời cảm ơn
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Tiến sÜ Hoàng Hữu Bội - người
thầy đã tận tình hướng dẫn em trong suốt quá trình làm luận văn.

Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn,
Phòng đào tạo - Nghiên cứu khoa học trường Đại học Sư phạm - Đại học
Thái Nguyên đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong quá trình học tập, nghiên cứu
và hoàn thành luận văn.

Tác giả luận văn















1
Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Đề tài này được chọn từ yêu cầu giải quyết tiếp vấn đề dạy học tác
phẩm văn chương theo đặc trưng thể loại
Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo đặc trƣng thể loại là một vấn
đề không mới. Đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này. Những
năm đầu thập kỷ bẩy mƣơi của thế kỷ XX ta có thể nói đến cuốn sách “Vấn
đề giảng dạy tác phẩm văn học theo đặc trƣng loại thể” của GS Trần Thanh

Đạm chủ biên (NXB Giáo dục, H, 1971). Trong công trình này, những ngƣời
viết đã chỉ ra những đặc điểm cơ bản của từng loại thể và phƣơng pháp dạy
theo đặc trƣng loại thể. Đây là những đóng góp quan trọng trong công việc
định hƣớng dạy học tác phẩm văn chƣơng trong nhà trƣờng. Thế nhƣng ở
công trình này, các tác giả mới chỉ chú ý đến các thể loại văn học thành văn
còn các thể loại của văn học dân gian, trong đó có ca dao thì chƣa đƣợc quan
tâm đầy đủ. Mặc dù chúng ta đều biết rằng văn học dân gian cũng đƣợc phân
ra các thể loại (tự sự trữ tình, kịch). Dạy một tác phẩm văn học dân gian cũng
nhƣ dạy một tác phẩm văn chƣơng, nhƣng đây là một bộ phận có những đặc
điểm riêng. Cũng là thể loại trữ tình nhƣng ngoài những đặc điểm của trữ tình
nói chung thì trữ tình dân gian còn có những đặc điểm riêng. Vì vậy không
thể không bàn đến dạy học tác phẩm văn học dân gian theo thể loại. Các nhà
nghiên cứu đã bàn đến vấn đề dạy học tục ngữ, ca dao, truyện dân gian ở
trung học phổ thông (THPT). Song vấn đề dạy học ca dao trong sách giáo
khoa Ngữ văn 10 (xuất bản năm 2006) thì chƣa có một công trình nào đề cập
đến một cách công phu và có hệ thống. Đề tài này nhằm góp thêm một tiếng
nói vào lý luận về dạy học tác phẩm văn chƣơng theo đặc trƣng thể loại mà
những ngƣời đi trƣớc đã đặt ra.

2
1.2. Đề tài này còn được lựa chọn từ thực tiễn dạy học ca dao trong sách
Ngữ văn 10 hiện nay ở trường THPT theo yêu cầu đổi mới phương pháp
dạy học
Hiện nay nền giáo dục nƣớc ta đang thực thi việc đổi mới chƣơng trình,
SGK các cấp học. Năm học 2006 - 2007, SGK Ngữ văn 10 mới chính thức
đƣa vào dạy học đại trà trên toàn quốc. Trong cuốn SGK “Văn học 10, tập 1”
(Sách chỉnh lý hợp nhất) NXB Giáo dục, 2000 có hai chùm bài ca dao: Những
câu hát thân thân; Những câu hát tình nghĩa. Cho đến năm 2006 SGK “Ngữ
văn 10” (sách cơ bản) lại gộp hai chùm bài ca dao Những câu hát thân thân;
Những câu hát tình nghĩa thành chùm Ca dao than thân yêu thương, tình

nghĩa và có thêm một chùm Ca dao hài hước. Trong quá trình thực hiện
chƣơng trình SGK mới, giáo viên và học sinh không phải không gặp những
khó khăn nhất định.
Trong đợt thực tế sƣ phạm vừa qua, chúng tôi đã chú ý tìm hiểu việc
dạy học ca dao trong sách Ngữ văn 10 ở một số trƣờng phổ thông. Chúng tôi
nhận thấy, trên thực tế việc dạy ca dao trƣờng THPT đã có nhiều thuận lợi (đa
số học sinh yêu thích ca dao vì thể loại này có đặc điểm giản dị, dễ hiểu) song
điều đó không có nghĩa là việc dạy học ca dao đã đạt đƣợc hiệu quả nhƣ
mong muốn. Trong những giờ học đó vẫn có những bài học đƣợc khai thác
giống nhƣ bài học ở các thể văn học thành văn. Giáo viên chỉ phân tích một
cách cô lập trên văn bản ngôn từ mà không đặt tác phẩm vào môi trƣờng văn
học dân gian, thời điểm phát sinh… để khai thác. Hoặc có bài lại dạy theo
cách “diễn nôm ca dao”, làm phức tạp hoá sự giản dị dễ hiểu của ca dao. Vấn
đề dạy học ca dao theo hƣớng tích hợp và tích cực là vấn đề mới mẻ. Nhiều
giáo viên lúng túng khi thực thi điều này. Dạy học ca dao nhƣ thế nào để thực
hiện đƣợc nguyên tắc tích hợp và lôi cuốn đƣợc học sinh vào hoạt động liên
tƣởng, tƣởng tƣợng, sáng tạo? Xuất phát từ lý do trên, chúng tôi chọn đề tài:
“Dạy - học ca dao trong Ngữ văn 10 theo hướng tích hợp và tích cực”,
nhằm góp một tiếng nói giải quyết khó khăn cho ngƣời đứng lớp trong đó có
chúng tôi.

3
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Nâng cao hiệu quả dạy học văn nói chung, dạy học ca dao nói
riêng là công việc đầy khó khăn thử thách đối với không chỉ độ ngũ giáo viên
đứng lớp mà còn đối với các nhà chuyên môn, các nhà nghiên cứu.
Trong số những tài liệu chúng tôi có đƣợc, vấn đề phân tích, bình giảng
ca dao và dạy học ca dao đã đƣợc đặt ra và giải quyết ở những công trình sau:
* Cuốn sách “Những đặc điểm thi pháp của các thể loại văn học dân
gian” của GS Đỗ Bình Trị, NXB Giáo dục, 1999 đề cập tới mục đích, ý nghĩa

của việc nghiên cứu thi pháp thể loại: “Thể loại đƣợc gọi là đơn vị cơ sở của
văn học dân gian và là điểm xuất phát tất yếu của công việc nghiên cứu văn
học dân gian. Và mỗi thể loại văn học dân gian có cách nói riêng của nó. Thi
pháp thể loại chính là cách nói riêng ấy. Có nắm đƣợc thi pháp thể loại mới có
kh¶ “giải mã” các tác phẩm thuộc thể loại”. Tác giả cũng chỉ rõ, trong nhà
trƣờng “việc nghiên cứu thi pháp thể loại giúp ngƣời giáo viên không những
có khả năng tự mình hiểu đúng, hiểu sâu hơn các tác phẩm văn học dân gian
trong chƣơng trình, mà có khả năng hoàn thiện hệ thống thao tác phân tích tác
phẩm nhằm luyện tập cho học sinh cách đọc - hiểu tác phẩm ngay chính trong
quá trình các em đƣợc hƣớng dẫn tìm hiểu tác phẩm”.
Nhƣ vậy ở đây một lần nữa tác giả lại nhấn mạnh tới vai trò của thi
pháp thể loại, coi nó là chìa khoá giúp cho ngƣời giáo viên mở cánh cửa văn
học dân gian trong nhà trƣờng. Cũng xuất phát từ đó khi đề cập đến những
đÆc điểm thi pháp của ca dao tác giả cho rằng: sự tổng hoà của những đặc
điểm thi pháp những nhân vật trữ tình, những hoàn cảnh điển hình trong ca
dao, kết cấu ca dao, hệ thống hình ảnh và ngôn ngữ, thể thơ và sự vận dụng
các thể thơ trong ca dao đã tạo nên một phong cách chung bền vững của ca
dao truyền thống.

4
* Cuốn “Bình giảng ca dao” của nhà nghiên cứu VHDG Hoàng Tiến
Tựu (NXB Giáo dục 1992) có nói về “Công việc bình giảng ca dao” nhƣ sau:
- Một bài ca dao đƣợc chọn để bình giảng phải có ít nhất ba điều kiện
sau đây: Thứ nhất, phải là một bài ca dao hay, có giá trị thực sự về nội dung
và nghệ thuật, đồng thời phải có vấn đề, có chỗ để bình giảng, đánh bình
giảng. Thứ hai, phù hợp với khả năng và sở trƣờng của ngƣời bình giảng. Thứ
ba, phù hợp với nhu cầu thị hiếu ngƣời nghe, ngƣời đọc (tr.15).
- Mục đích của việc bình giảng ca dao nói riêng cũng nhƣ việc nghiên cứu
văn học dân gian nói chung, không phải chủ yếu là chứng minh cho cái chung và
sự giống nhau. Càng không phải chỉ là nhƣ thế (mặc dù điều này cũng cần thiết),

mà chủ yếu là tìm tòi, phát hiện và lý giải những cái riêng, những nét đặc thù,
độc đáo, trong sáng tác dân gian của từng dân tộc, từng địa phƣơng, từng thời kỳ
lịch sử, cũng nhƣ cái riêng của từng tác phẩm cụ thể (tr.9).
- Ngƣời làm ca dao cũng nhƣ ngƣời làm thơ, biến ý thành tứ ngƣời bình
giảng ca dao và thơ phải dựa vào tứ mà tìm ra ý, và khi đã hiểu rõ và nắm
vững đƣợc chủ ý (hay chủ đề) của tác giả rồi, ngƣời bình giảng mới có điều
kiện và cơ sở chắc chắn để tiến hành công việc bình giảng và bình luận, khen
chê bài ca dao hay bài thơ một cách kỹ càng, chính xác và tinh tế (tr.28).
- Trong ca dao, ngoài mối quan hệ giữa ý và tứ, còn mối quan hệ giữa
tình và tứ, sự và tình, đều là mối quan hệ quan trọng mà ngƣời bình giảng
không thể quan tâm chú ý (tr.30).
- Muốn hiểu đúng, hiểu rõ, hiểu sâu sắc và thấu đáo một bài ca dao phải
bám sát vào từ ngữ của nó, thông qua từ ngữ để tìm ra ý, tứ, sự, tình ở trong
đó. Và sau khi nắm đƣợc ý, tứ, sự, tình của toàn bài mới có điều kiện đầy đủ
và chắc chắn để nhận rõ ý nghĩa đích thực (nghĩa trong bài) của các từ ngữ đã
đƣợc tác giả sử dụng. Hiện tƣợng “ý tại ngôn ngoại” ở trong ca dao không
phải là hiếm (tr.34).

5
Tác giả đã vận dụng lý thuyết trên vào bình giảng một số bài ca dao
hay trong kho tàng ca dao dân ca Việt Nam. Trong tổng số 48 bài ca dao
tuyển chọn, có 8 bài đƣợc dạy trong chƣơng trình THCS, THPT.
* Cuốn “Thi pháp ca dao” của nhà nghiên cứu văn học dân gian
Nguyễn Xuân Kính (NXB Giáo dục KHXH - Hà Nội 1992), là công trình
nghiên cứu về đặc điểm thi pháp ca dao cổ truyền của ngƣời Việt.
Tác giả đã khái quát đặc điểm thi pháp ca dao nhƣ sau: “Xét về mặt thi
pháp, bên cạnh những điểm giống thơ của các tác giả thuộc dòng văn học viết,
những nét giống vè (một thể loại văn học dân gian), ca dao có những đặc
điểm riêng biệt: Ngôn ngữ ca dao là sự kết hợp giữa ngôn ngữ thơ và ngôn
ngữ đời thƣờng. Đa số các lời ca dao trữ tình là những văn bản biểu hiện.

Cách sử dụng tên riêng chỉ địa điểm trong ca dao về cơ bản khác với cách
dùng loại từ này trong thơ bác học. Về thể thơ, 95% ca dao cổ truyền đƣợc
sáng tác theo thể thơ lục bát. Các tác giả văn học dân gian khác các tác giả
văn học viết ở chỗ họ không chịu khuôn sáng tác vào những luật lệ có sẵn, do
đó thơ ca dân gian có phần hồn nhiên mộc mạc hơn. Mặt khác, hiện tƣợng đó
lại chứng tỏ ngƣời bình dân ít có khả năng tung hoành sáng tạo trong khuôn
khổ nghiêm ngặt của luật thơ. Sự ngắn gọn của các tác phẩm ca dao, phản ánh
đặc điểm, hoàn cảnh; điều kiện sáng tác và sinh hoạt văn hoá văn nghệ dân
gian; mặt khác tính chất này cũng cho thấy tác giả dân gian chƣa có khả năng
xây dựng những tác phẩm thơ với quy mô đồ sộ. Kết cấu một số vế có phần
vần, kết cấu hai tƣơng hợp, kết cấu hai vế đối lập và trong khi sáng tạo lời
mới một dòng hoặc nhiều dòng ca dao có sẵn có thể đƣợc sử dụng… Là
những dạng kết cấu độc đáo và là đặc điểm của ca dao. Thời gian nghệ thuật
trong ca dao là thời gian hiện tại, thời gian diễn xƣớng. Không ít trƣờng hợp
trong đó thời gian miêu tả có tính chất công thức, ƣớc lệ. Không gian nghệ
thuật trong ca dao chủ yếu là không gian trần thế, đời thƣờng, bình dị, phiếm

6
chỉ với những nhân vật chƣa đƣợc cá thể hoá, mang tâm trạng, tình cảm
chung của nhiều ngƣời. Tuy cùng xây dựng các biểu tƣợng trên cơ sở là hiện
thực khách quan, nhƣng nhiều ý nghĩa của các biểu tƣợng trong ca dao khác
hẳn với thơ bác học… Các đặc điểm thi pháp vừa nêu tạo thành một thẻ loại
riêng trong lịch sử văn học Việt Nam: “Thể ca dao” (tr. 233 - 234).
* Cuốn “Mấy vấn đề phương pháp giảng dạy - nghiên cứu văn học
dân gian” của GS Hoàng Tiến Tựu (NXB Giáo dục 1993) đã khẳng định sự
cần thiết xây dựng những quy phạm riêng cho việc dạy học văn học dân gian
ở trƣờng phổ thông. Tác giả đã đề cập đến các phƣơng pháp nghiên cứu văn
học dân gian, làm sáng tỏ vấn đề giảng dạy văn học dân gian theo đặc trƣng
thể loại nhƣ: Dạy truyện dân gian, tục ngữ, ca dao…
Trong chƣơng IV “Mấy vấn đề cụ thể nghiên cứu và giảng dạy ca dao”

(35 trang), tác giả đã chỉ ra một số cách dạy ca dao phổ biến hiện nay và nêu
lên những khó khăn đối với việc tìm hiểu một bài ca dao cổ. Theo ông “Quá
trình lĩnh hội và phân tích, lý giải một bài ca dao cổ gồm nhiều khâu, nhiều
bƣớc cụ thể khác nhau”. Những khâu, những bƣớc chủ yếu và quan trọng có
thể đƣợc tóm tắt dƣới dạng những câu hỏi sau:
1. Bài ca dao ra đời trong hoàn cảnh và trƣờng hợp nào? (Vấn đề xác
định đƣợc hoàn cảnh lịch sử, cái “khung” thời gian của tác phẩm).
2. Bài ca dao đƣợc lƣu hành sớm nhất và nhiều nhất ở vùng nào? (Vấn
đề xác định quê hƣơng gốc và địa bàn lƣu hành chủ yếu của tác phẩm).
3. Bài ca dao thuộc thể loại nào? (Vấn đề xác định đặc trƣng thể loại và
tiểu thể loại của nó).
4. Chủ thể và nhân vật trữ tình của bài ca dao là gì? Hay là bài ca dao
của ai? Ngƣời ấy nhƣ thế nào? (Vấn đề xác định chủ thể và nhân vật trữ tình
trong phần lời và trong sự biểu diễn, sử dụng thực tế của bài ca dao).

7
5. Đối tƣợng trữ tình của bài ca dao là gì? Hay là bài ca dao là lời trao
đổi bày tỏ với ai? Ngƣời ấy nhƣ thế nào? (Vấn đề xác định đối tƣợng trữ tình
trực tiếp hay gián tiếp, chung hoặc riêng của mỗi bài ca dao).
6. Nội dung của bài ca dao là gì? (Hay là bài ca dao nói về những điều
gì?). Vấn đề xác định nội dung truyền đạt, phô diễn của bài ca dao.
7. Chủ thể bài ca dao là gì? (Hay vấn đề chủ yếu của bài ca dao muốn
nói gì? Vấn đề phân tích chủ đề bài ca dao thƣờng phải tìm hiểu đầy đủ các
tác phẩm mới xác định đúng đƣợc).
8. Hình thức nghệ thuật bài ca dao nhƣ thế nào? Hay bài ca dao phô
diễn tâm tƣ, tình cảm bằng những phƣơng pháp, phƣơng tiện và thủ thuật nhƣ
thế nào? (Vấn đề phân tích lý giải hình thức nghệ thuật của tác phẩm thƣờng
chỉ có thể nhận thức đƣợc rõ khi đã nắm chắc nội dung và chủ thể của nó).
9. Bài ca dao còn có liên hệ gì với cuộc sống và tâm tƣ tình cảm của
nhân dân hiện nay và mai sau không? Mối liên hệ ấy nhƣ thế nào? Vấn đề ý

nghĩa và giá trị hiện đại của bài ca dao cổ về mặt nội dung cũng nhƣ mặt nghệ
thuật (tr. 134 - 135).
Bên cạnh các công trình chúng tôi nêu trên còn rất nhiều công trình quý
báu giúp chúng tôi hoàn thành luận văn nhƣ cuốn “Văn học Việt Nam - Văn
học dân gian, những công trình nghiên cứu” (của nhiều tác giả, do GS Bùi
Mạnh Nhị chủ biên, NXB Giáo dục, tái bản 2000); cuốn “Giảng văn văn học
dân gian Việt Nam” của hai tác giả Vũ Anh Tuấn và Nguyễn Xuân Lạc -
NXB Giáo dục 1993; Luận án tiến sỹ của Nguyễn Xuân Lạc “Quan điểm tiếp
cận và phương pháp dạy học ca dao ở THPT” (1996); cuốn “Phương pháp
dạy học tác phẩm văn chương” (theo thể loại) của Tiến sỹ Nguyễn Viết Chữ,
NXB ĐHSP, 2005.
Gần đây khi SGK Ngữ văn 10 đã đƣợc thực thi trong nhà trƣờng, có
nhiều cuốn sách tham khảo đã đƣợc xuất bản. Sách tham khảo dạy học Ngữ

8
văn 10 chia làm hai loại: loại sách phân tích, bình giảng các tác phẩm có trong
Ngữ văn 10; loại sách gợi ý về phƣơng pháp dạy học nhƣ cuốn Thiết kế bài
giảng Ngữ văn 10 của TS. Hoàng Hữu Bội, Thiết kế bài học Ngữ văn 10 do
GS. Phan Trọng Luận chủ biên…
2.2. Ca dao là mảnh đất nuôi dƣỡng và lƣu giữ đời sống tinh thần của
nhân dân lao động, vì thế, ca dao từ lâu không chỉ trở thành đối tƣợng nghiên
cứu của các nhà khoa học cơ bản mà còn là đối tƣợng quan trọng của giới
nghiên cứu phƣơng pháp dạy học. Là thể loại trữ tình dân gian ngoài đặc điểm
của loại hình trữ tình nói chung, ca dao còn có những đặc điểm riêng. Do đó,
đứng trƣớc những yêu cầu mới của chƣơng trình và SGK nhiều giáo viên
không tránh khỏi những khó khăn khi dạy - học ca dao. Vấn đề đặt ra là dạy -
học ca dao nhƣ thế nào để vừa bảo đảm yêu cầu tích hợp, vừa phù hợp với
đặc trƣng thể loại và phát huy đƣợc sự tích cực ở ngƣời học là vấn đề cần
quan tâm của mỗi giáo viên Ngữ văn.
* Quan tâm đến vấn đề tích hợp, TS. Đỗ Ngọc Thống ngƣời tham gia

biên soạn SGK Ngữ văn THCS cũng có nhiều đóng góp đáng ghi nhận. Trong
cuốn “Đổi mới việc dạy và học môn Ngữ văn ở THCS”, NXB Giáo dục 2002,
tác giả có một hệ thống bài viết về quan điểm tích cực và việc dạy học văn
theo hƣớng tích hợp, giúp ngƣời đọc hiểu rõ “việc lấy tên chung của cuốn
sách là Ngữ văn không chỉ đơn thuần là dồn ba phân môn lại thành một cuốn
sách theo kiểu gộp lại mà chúng đƣợc xây dựng theo tinh thần tích hợp”.
Trong bài viết “Dạy học môn Ngữ văn theo nguyên tắc tích hợp”, tác
giả chỉ ra ba biểu hiện của tích hợp là “trong cuốn sách cả ba môn Văn, Tiếng
Việt, Làm văn cùng dựa trên một văn bản chung để khai thác, hình thành, rèn
luyện các kiến thức và kỹ năng của mỗi phân môn”. Trên cơ sở đó tác giả chỉ
ra ƣu điểm của nguyên tắc dạy học tích hợp, tích hợp thể hiện trong việc xây

9
dựng cấu trúc SGK, trong quá trình tổ chức giờ dạy học, thay đổi cách soạn
giáo án, cách kiểm tra đánh giá chất lƣợng của học sinh.
* Tâm huyết với vấn đề đọc hiểu và vấn đế tích hợp GS-TS. Nguyễn
Thanh Hùng, trong bài viết “Tích hợp trong dạy học Ngữ văn” (Tạp chí khoa
học giáo dục số 6, tháng 3 năm 2006) đã chỉ ra bản chất của tích hợp và
“phƣơng hƣớng phối hợp (Integrate) một cách tốt nhất của quá trình học tập
của nhiều môn học cũng nhƣ các phân môn Văn, Tiếng Việt, Làm văn trong
một môn Ngữ văn”. Trên cơ sở phân tích tƣ tƣởng tích hợp tác giả chỉ ra ý
nghĩa của tích hợp: “Tích hợp trong nhà trƣờng sẽ giúp học sinh học tập thông
minh và vận dụng sáng tạo kiến thức, kỹ năng và phƣơng pháp của khối
lƣợng tri thức toàn diện, hài hoà (Hamonie) và hợp lý (Algebra) trong tình
huống khác nhau và mới mẻ trong cuộc sống hiện đại”.
Cũng bài viết này tác giả chỉ ra “Cái gốc của quan niệm tích hợp trong
dạy học Ngữ văn” là “Hiểu một cách đơn giản là dạy học ba phân môn hợp
nhất, hoà trộn vào nhau, học cái này thông qua cái kia và ngƣợc lại”. Tác giả
nêu rõ: “Mục đích bao quát của nguyên tắc tích hợp trong chƣơng trình và
SGK Ngữ văn là điều kiện giáo dục phù hợp, khả thi, phƣơng pháp dạy và

học mới có hiệu quả và cơ sở lý luận tích hợp một cách khoa học cùng với
cách thức và mô hình tích hợp đa dạng để hình thành và phát triển năng lực
đọc hiểu tác phẩm văn chƣơng kết hợp với việc nâng cao dần kỹ năng nghe,
nói, đọc, viết trong văn hoá giao tiếp cho học sinh”.
* Dạy học theo hƣớng tích cực đã đƣợc thử nghiệm từ năm 1993 và
đƣợc giới thiệu cụ thể qua các cuốn sách “Một số vấn đề về phương pháp
giáo dục” (Nguyễn Kỳ và Dƣơng Xuân Nghiên, Vụ giáo viên, H. 1993);
“Phương pháp giáo dục tích cực” (Nguyễn Kỳ, NXB Giáo dục, H. 1994);
Cuốn “Phương pháp giáo dục lấy học sinh làm trung tâm” (Nguyễn Kỳ chủ
biên - NXB Giáo dục, H. 1995) có thể xem là công trình lý luận khá đầy đủ về

10
phƣơng pháp dạy học tích cực đang đƣợc nhiều giáo viên quan tâm. Bên cạnh
đó còn có rất nhiều các bài viết đăng trên các báo và tạp chí cũng đề cập đến
phƣơng pháp này nhƣ: “Dạy học lấy học sinh làm trung tâm” (GS. Trần Bá
Hoành - Nghiên cứu giáo dục, 1/1994); “Bàn về phương pháp giáo dục tích
cực” (PGS. Phạm Viết Vƣợng - Nghiên cứu giáo dục, 10/1995); “Phương
pháp tích cực bàn về học và nghiên cứu khoa học” (GS-VS. Nguyễn Cảnh
Toàn - Nghiên cứu giáo dục, 9/1996)…
Vấn đề mà các công trình về dạy - học tích cực luôn luôn quan tâm là
dùng các phƣơng pháp dạy học đa dạng, kiến thức phải đƣợc trình bày trong
dạng động, nghĩa là giáo viên phải tổ chức cho học sinh hoạt động, dẫn dắt
học sinh chiếm lĩnh tri thức bằng chính hoạt động của chúng. Bên cạnh đó,
phải có hệ thống câu hỏi phong phú (hệ thống câu hỏi phát hiện, câu hỏi mở
rộng, câu hỏi tổng hợp nhận xét đánh giá, câu hỏi nêu vấn đề, câu hỏi gợi mở,
câu hỏi liên tƣởng sáng tạo…) nhằm phát huy cao nhất khả năng tự chiếm
lĩnh tri thức của học sinh.
Cho đến nay, mặc dù vẫn còn những ý kiến khác biệt nhau, các nhà
khoa học và quản lý giáo dục đều khá nhất trí là cần đổi mới mô hình dạy học
thụ động đang chiếm ƣu thế trong nhà trƣờng hiện nay và đổi mới phƣơng

pháp dạy học theo hƣớng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của chủ
thể dạy và học.
Các tài liệu trên đã đặt cơ sở lý luận cho việc dạy học theo hƣớng tích
hợp, tích cực. Đề tài của chúng tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu, tổng hợp những vấn
đề lý thuyết thi pháp ca dao, về tích hợp, về tích cực làm cơ sở cho việc khảo
sát thực tế, để tìm ra những thành công và hạn chế trong dạy - học ca dao theo
hƣớng tích hợp, tích cực. Trên cơ sở đó, đề xuất một số biện pháp phù hợp
với lý luận và thực tế, đồng thời thiết kế chùm “Ca dao than thân, yêu
thương tình nghĩa”, “Ca dao hài hước” ở lớp 10 theo hƣớng tích hợp, tích

11
cực để dạy thể nghiệm nhằm rút ra những kết luận khoa học cần thiết và hiệu
quả sƣ phạm cho những thiết kế đó.
Tuy nhiên, dạy - học tác phẩm văn chƣơng đặc biệt là ca dao vừa theo
nguyên tắc tích hợp, vừa đảm bảo đặc trƣng thể loại và phát huy đƣợc tính
tích cực, sáng tạo ở học sinh là vấn đề mới và khó, nên trong quá trình thực
hiện đề tài, chúng tôi mới đƣa ra đƣợc sự định hƣớng nội dung và biện pháp
bƣớc đầu để thực hiện quan điểm tích hợp, tích cực trong dạy học ca dao ở
lớp 10 mà thôi.
3. Mục đích nghiên cứu
Tìm một phƣơng án tối ƣu cho việc vận dụng quan điểm tích hợp và
tích cực trong dạy học ca dao ở lớp 10.
4. Đối tượng nghiên cứu
Cách dạy học ca dao trong SGK Ngữ văn 10 theo yêu cầu mới của
chƣơng trình vừa đƣợc thực hiện. Cụ thể là hoạt động của giáo viên và học
sinh trong giờ học các chùm ca dao ở lớp 10 THPT theo hƣớng tích hợp và
tích cực.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
a. Nghiên cứu trên bình diện lý thuyết
Tìm hiểu khái niệm ca dao, đặc điểm thi pháp ca dao, cách tiếp cận ca

dao theo thi pháp thể loại. Tìm hiểu lí thuyết về tích hợp, tích cực trong dạy
học Ngữ văn.
b. Tìm hiểu thực tiễn dạy học ca dao trong SGK Ngữ văn 10 trong
những năm đầu thực hiện chƣơng trình và SGK mới.
c. Đề xuất một phƣơng án có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả giờ
học theo hƣớng tích hợp, tích cực (thể hiện qua thiết kế dạy học và tổ chức
thể nghiệm sƣ phạm).


12
6. Phương pháp nghiên cứu
a. Phương pháp nghiên cứu tổng hợp lý luận
Tổng hợp các bài viết, các công trình nghiên cứu về ca dao, về phƣơng
pháp dạy học ca dao trong SGK Ngữ văn 10.
b. Phương pháp khảo sát
Khảo sát các giờ dạy - học ca dao ở 2 lớp 10 trƣờng THPT Phú Bình,
huyện Phú Bình; trƣờng THPT Đồng Hỷ - huyện Đồng Hỷ - tỉnh Thái Nguyên
để tìm ra những vấn đề cần giải quyết nhằm nâng cao hiệu quả giờ dạy.
c. Thể nghiệm sư phạm
Thiết kế một số giáo án ca dao trong chƣơng trình và dạy thể nghiệm.
7. Giả thuyết của luận văn
Nếu đổi mới dạy học những chùm ca dao trong Ngữ văn 10 theo hƣớng
tích hợp, tích cực có cơ sở lý luận và thực tiễn thì hiệu quả, chất lƣợng dạy
học ca dao sẽ đƣợc nâng cao.
8. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và thƣ mục tham khảo, luận văn
của chúng tôi gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Cơ sở lý luận của việc dạy - học ca dao theo hƣớng tích
hợp, tích cực.
Chương 2: Tổ chức dạy - học ca dao ở lớp 10 theo hƣớng tích hợp,

tích cực.
Chương 3: Thiết kế thể nghiệm dạy ca dao ở Ngữ văn 10.

13
Phn ni dung
Ch-ơng 1
Cơ sở lý luận của việc dạy - học ca dao
theo HƯớng Tích hợp, tích cực
1.1. Dy hc ca dao theo cỏch tip cn t c trng ca th loi ca dao
1.1.1. Vn dng thi phỏp ca dao vo dy hc ca dao
ti ny phi lm sỏng t hai vn :
- Dy ca dao theo c trng th loi l dy nhng gỡ?
- Dy ca dao theo nguyờn tc tớch hp v tớch cc nh th no?
lm sỏng t c hai vn trờn, trc ht phi xỏc nh rừ c s lý
lun v thc tin ca nú. V c s lý lun, chỳng tụi da vo nhng thnh tu
nghiờn cu v thi phỏp ca cỏc nh nghiờn cu vn hc dõn gian (Hong Tin
Tu, Nguyn Xuõn Kớnh) v nhng ti liu hng dn thc thi chng
trỡnh v SGK Ng vn va c i mi. V c s thc tin, chỳng tụi tin
hnh kho sỏt thc t dy hc ca dao theo SGK Ng vn 10 va mi c
thc thi nm u.
Nhng iu trỡnh by di õy v thi phỏp ca dao ly t cun Thi
phỏp ca dao ca GS - TS. Nguyn Xuõn Kớnh v c ly lm mt trong
nhng c s lý thuyt cho lun vn ny.
* V ngụn ng trong ca dao
Dy hc ca dao theo c trng th loi l bt u t vic giỳp hc sinh
nhn bit v cm th c v p ca ngụn ng ca dao. T ú m bit vn
dng vo vic lm vn biu cm trong to lp vn bn hoc dựng ca dao lm
c liu soi t cho c im ca Ting Vit (tớch hp vi hai phõn mụn Lm
vn v Ting Vit).


14
Ca dao kết tinh từ lời ăn tiếng nói hàng ngày của quần chúng nhân dân.
Ngôn ngữ ca dao là thứ ngôn ngữ nghệ thuật giản dị, đẹp đẽ trong sáng,
chính xác vì đã đƣợc chắt lọc qua bao thế hệ. M.Gorki khẳng định vẻ đẹp của
ngôn ngữ ca dao là “cái đẹp trong sự giản dị”.
Tình yêu mộc mạc của ngƣời bình dân đƣợc diễn tả chân thành, đôi khi
thẳng băng:
Tiện đây anh nắm cổ tay
Anh hỏi câu này có lấy anh không?
Hoặc nỗi yêu thƣơng kín đáo:
Thò tay mà bứt ngọn ngò
Thƣơng em đứt ruột giả đò ngó lơ.
Ngôn ngữ ca dao mang vẻ đẹp giản dị nhưng cũng rất sinh động,
giàu sức biểu cảm. Điều đó đƣợc thể hiện trong việc dùng một số lƣợng
phong phú và chính xác những động, tính từ, đại từ, đặc biệt là các từ láy gợi
hình, biểu cảm, các biện pháp tu từ so sánh, ẩn dụ…
Đôi ta bắt gặp nhau đây
Nhƣ con bò gầy gặp bãi cỏ non.
Có những câu ca dao có thể trở thành mẫu mực trong việc dùng từ ngữ,
và về mặt gợi cảm, gợi hình, nó không thua bất cứ một câu thơ nào. Điều đó
chứng tỏ các tác giả dân gian cùng rất chú ý việc trau chuốt lời thơ trong ca
dao. Câu ca dao này in dấu ấn của văn học bác học:
Đèn tà thấp thoáng bóng trăng
Ai đem ngƣời ngọc thung thăng chốn này.
Không phải câu ca dao này gợi cảm ở những từ nhƣ “đèn tà”, “bóng
trăng”, “ngƣời ngọc”, mà chính từ láy “thung thăng” đã làm hiển hiện hình

15
bóng ngƣời con gái thanh thản bƣớc đi trong đêm trăng dƣới cái nhìn say
đắm, ngƣỡng mộ của chàng trai. Có thể thấy nhận xét này về từ láy để phân

tích ca dao: “Mỗi từ láy là một nốt nhạc về âm thanh chứa đựng trong mình
một “bức tranh” cụ thể của các giác quan… kèm theo những ấn tƣợng chủ
quan, những cách đánh giá, những thái độ của ngƣời nói với hiện tƣợng đủ
sức thông qua các giác quan hƣớng nội và hƣớng ngoại của ngƣời nghe mà
tác động mạnh mẽ đến họ. Cho nên các từ láy là các công cụ tạo hình rất đắc
lực của văn học, nhất là thơ ca”.
Trong ca dao các đại từ nhân sinh và đại từ phiếm chỉ được sử
dụng với mật độ cao, làm rõ thêm sắc thái dân gian riêng biệt của ca dao.
Đại từ nhân xƣng bộc lộ rõ ràng chủ thể trữ tình của bài ca dao. Đó có thể là
một chàng trai cô gái, hoặc có thể là lời ca chung của cả hai ngƣời: chàng -
nàng, thiếp - chàng, cô mình, anh - em, đôi ta…
“Chàng đi thiếp cũng theo cùng
Đói no thiếp chịu lạnh lùng thiếp mang”.

“Đôi ta nhƣ lửa mới nhen
Nhƣ trăng mới mọc nhƣ đèn mới khêu”.

“Đƣờng xa thì thật là xa
Mƣợn mình làm mối cho ta một ngƣời
Một ngƣời mƣời tám đôi mƣơi
Một ngƣời vừa đẹp vừa tƣơi nhƣ mình”.
Các đại từ phiếm chỉ đƣợc sử dụng đa dạng: ai, cô ấy… Một đại từ “ai”
vừa xa xôi vừa tình tứ, đƣợc sử dụng nhiều lần. Có khi là lời đong đƣa:
Ai đi đâu đấy hỡi ai
Hay là trúc đã nhớ mai đi tìm.

16
Có khi là một lời hờn trách kín đáo:
Khi đi bóng hãy còn đài
Khi về bóng đã nghe ai bóng tròn.

Một từ “cô ấy” đầy ẩn ý:
Áo anh sứt chỉ đã lâu
Mai mƣợn cô ấy về khâu cho cùng.
Ngoài ra ca dao còn sử dụng một số yếu tố thuộc phƣơng thức tự sự,
miêu tả… trong tổ chức ngôn ngữ của mình. Việc biểu lộ vẻ đẹp nhân cách
của con ngƣời thông qua việc miêu tả đặc điểm bông sen trong đầm:
Trong đầm gì đẹp bằng sen
Là xanh bông trắng lại chen nhị vàng…
Hoặc sự kể lể, trần thuật chỉ là cái cớ để nhân vật trữ tình giãi bày tâm
trạng khó nói nhất:
Ơi cô gánh nƣớc quang mây
Cho anh một gáo tƣới cây ngô đồng
Cây ngô đồng không trồng mà mọc
Ngọn ngô đồng cành dọc cành ngang
Quả dƣa gang ngoài xanh trong trắng
Quả mƣớp đắng ngoài trắng trong vàng
Từ ngày anh gặp mặt nàng
Lòng càng ngao ngán dạ càng ngẩn ngơ.
Nhƣ vậy ngôn ngữ rất quan trọng trong việc thể hiện nội dung văn bản,
nó là yếu tố thứ nhất, là chất liệu đầu tiên của mọi tác phẩm nghệ thuật. Ngôn
ngữ ca dao không giống nhƣ ngôn ngữ trong văn học viết, nó vừa mang sắc
thái dân gian gắn với cách cảm, cách nghĩ của cộng đồng, vừa gắn với những

17
cảm xúc cá nhân trong các tình huống cụ thể, cái tôi trữ tình dân gian là cái
tôi phiếm chỉ, cái tôi phổ biến. Cho nên, nói nhƣ Mai Ngọc Chừ “Ngôn ngữ
ca dao Việt Nam đã trở nên những viên ngọc quý óng ánh trong kho tàng văn
học dân gian của dân tộc. Có thể nói ngôn ngữ ca dao đã kế tục phát huy
những đặc điểm ngôn từ tuyệt vời của Tiếng Việt” [4; tr. 24 - 28].
* Về kết cấu trong ca dao

Ca dao có kết cấu rất đặc trƣng, vì vậy dạy học ca dao từ thi pháp là
giúp học sinh nắm đƣợc những cách kết cấu của ca dao. Từ đó vận dụng nó
vào nói và viết những lúc cần thiết (tích hợp).
Kết cấu của văn bản ca dao rất đa dạng, dƣới đây là những đặc điểm
chính trong kết cấu của nó.
1. Lối đối đáp là đặc điểm kết cấu in đậm dấu ấn trong ca dao.
Thực tế không hẳn mọi bài ca dao đều chia ra rõ ràng lời của hai nhân vật trữ
tình cùng tham gia đối đáp. Có những bài ca dao chỉ kết cấu theo một vế. Lối
đối đáp trong ca dao thể hiện bản thân nhân vật trữ tình muốn đƣợc bộc lộ,
giãi bày tâm trạng. Đó là lời trực tiếp giãi bày của hai ngƣời:
Dầu mà không lấy đƣợc em
Anh về đóng cửa cài rèm đi tu
Tu mô cho em tu cùng
May ra thành phật thờ chung một chùa.
Có khi là lời tha thiết yêu thƣơng tôi nghiệp vật trữ tình muốn bộc lộ:
Chàng ơi phụ thiếp làm chi
Thiếp nhƣ cơm nguộn đỡ khi đói lòng.
Cũng có khi đó là lời giãi bày với chính lòng mình, biểu hiện nỗi đau
đớn xót xa không thể chia sẻ, thành một hành động đến ngây thơ, bế tắc:
Trèo lên cây khế nửa ngày
Ai làm chua xót lòng này khế ơi.

18
2. Một đặc điểm khá quan trọng trong kết cấu ca dao là việc sử
dụng lặp lại mô típ dân gian, các công thức mở đầu có tính khuôn mẫu của
cùng một cách nghĩ bộc trực, gần gũi với cuộc sống hàng ngày. Đây chính là
một biểu hiện của tƣ duy cộng đồng làm nên sắc thái riêng biệt của ca dao:
yêu nhau, trèo lên, thân em, ước gì, chiều chiều… tạo sự nảy sinh vô hạn các
dị bản, điều quan trọng hơn là chúng “thể hiện lối nói, lối nghĩ, lối cảm của
quần chúng nhân dân”. Có đặt văn bản ca dào vào hệ thống mô típ đó mới

thấy đƣợc hết cái độc đáo, đặc sắc dân gian của ca dao.
3. Nhìn khái quát, có thể thấy mấy dạng kết cấu cơ bản như sau:
Thứ nhất: nhân vật trữ tình trực tiếp bộ lộ giãi bày tình cảm; thứ hai: nhân
vật thường bóng gió xa xôi lấy thiên nhiên làm cớ để bộc lộ tâm trạng; thứ ba:
sử dụng các ý, các hình ảnh lặp lại nhiều lần khắc sâu vào tâm trạng trữ tình,
đó là kết cấu trùng điệp rất quen thuộc phổ biến trong ca dao.
Nhƣ vậy, dựa vào kết cấu ca dao ta có thể xác định đƣợc nhân vật trữ
tình cùng với nghệ thuật tổ chức, trình bày hệ thống cảm xúc của nó và nét
cảm hứng dân gian đƣợc thể hiện trong các bài ca dao ấy.
Từ những kiến thức này, có thể giúp học sinh biết vận dụng vào việc
tạo lập các văn bản biểu cảm (tích hợp với Làm văn).
* Về thể thơ trong ca dao
Dạy học ca dao từ thi pháp thể loại còn phải làm cho học sinh nắm
đƣợc đặc điểm của thể thơ lục bát trong ca dao cùng với các thể thơ khác
đƣợc các tác giả dân gian sử dụng để bộc lộ tình cảm trong ca dao.
Văn biểu cảm luôn cần đến âm vang của nhạc điệu ngôn từ và dạng
thức văn bản biểu cảm thƣờng là lời nói đƣợc tổ chức trong một hệ thống âm
thanh, vần luật mang tính cách điệu gọi là thể thơ.

19
Đa số ca dao được sáng tác theo thÓ lục bát với đặc trƣng là nhịp đôi
đều đặn, thuận tai, vần bằng (chủ yếu) êm dịu, linh hoạt về thanh điệu, biến
hoá về âm điệu, có sức lôi cuốn tự nhiên lại có thể kéo dài thoải mái nên dƣợc
sử dụng rộng rãi. Vì thế, thể lục bát phù hợp với việc phô diễn cảm xúc tình
cảm của con ngƣời, nhất là đối với ngƣời bình dân xƣa. Chính do vần, thanh,
nhịp ở thể thơ mà tạo thành nhạc tính. Đó là nhạc ngân nga, hoà điệu vào
nhau làm cho câu ca dao bay bổng, thanh thoát, gây ấn tƣợng. Bởi thế, bài ca
dao thƣờng có thể hát lên theo cung bậc xúc cảm. Khi hát ngƣời hát truyền
tình cảm vào đó, nhờ vậy mà những câu ca dao trở lên du dƣơng, có khả năng
lây lan cảm xúc. Trong thơ, thể lục bát cũng đƣợc sử dụng phổ biến và trở

thành thể thơ độc đáo của dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên lục bát trong ca dao
luôn có những nét riêng, vừa mang hồn thơ dân tộc, vừa mang sắc thái dân
gian nhất.
Theo thống kê của Nguyễn Xuân Kính, trong tổng số 973 lời ca dao
sáng tác theo thể lục bát, số lời gồm một cặp lục bát là 620 (63%), số lời hai
cặp là 242 (24%), số lời ba cặp là 70 (7%), bốn cặp là 21 (2%), số lời năm cặp
là 12 (chiếm hơn 1%), gộp các lời từ sáu cặp trở lên là 8 (chiếm gần 1%). Lời
ca dao có vẻ rời rạc, nhƣng thực ra lại rất cô đúc. Hơn nữa mỗi bài ca dao chỉ
cần khắc sâu một nét tâm trạng của con ngƣời. Một tâm trạng băn khoăn với
tình cảm bất ngờ không rõ lý do:
Gió sao gió mát sau lƣng
Dạ sao dạ nhớ ngƣời dƣng thế này.
Và đây là nỗi nhớ không thể nguôn ngoai:
Nhớ ai nhƣ nhớ thuốc lào
Đã chôn điếu xuống lại đào điếu lên.
Lục bát trong ca dao không cố định số chữ trong một câu, tức là có
khả năng biến thể. Khi thay đổi số chữ trong một dòng dẫn đến nhịp thơ thay
đổi, ảnh hƣởng đến nhạc điệu, âm điệu chung của bài ca. Vì thế, chỉ khi nào

×