Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

TÍCH hợp KIẾN THỨC LIÊN môn bài 22 VIỆT NAM đất nước CON NGƯỜI môn địa lí lớp 8

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (714.33 KB, 22 trang )

TÍCH HỢP KIẾN THỨC LIÊN MÔN
BÀI 22- VIỆT NAM ĐẤT NƯỚC CON NGƯỜI
MÔN ĐỊA LÍ LỚP 8

I- MỤC TIÊU DẠY HỌC
1- Kiến thức
- Liên hệ với kiến thức môn lịch sử và ngữ văn học sinh trình bày được thể chế
của nước ta trên bản đồ chính trị thế giới là nước Cộng hòa Xã Hội Chủ Nghĩa có
độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.
- Hiểu được nước ta là một nước gắn liền với châu Á- Thái Bình Dương và thuộc
khu vực Đông Nam Á nên thể hiện đầy đủ những đặc điểm chung về tự nhiên,
văn hóa, lịch sử của khu vực.
- Bằng những dẫn chứng lịch sử cụ thể học sinh thấy được vị thế của Việt Nam
ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế.
- Trình bày được những thuận lợi, khó khăn và những thành tưu cơ bản của nước
ta trên con đường xây dựng và phát triển.
- Biết cách để học tốt môn địa lí nhất là phần địa lí Việt Nam.
2- Kĩ năng
- Đọc và phân tích bản đồ hành chính
- Liên hệ thực tế
- Thu thập thông tin qua phương tiện thông tin đại chúng.
- Liên hệ với kiến thức môn toán phân tích và sử lí số liệu thống kê
3- Thái độ
- Liên hệ với kiến thức môn giáo dục công dân, môn âm nhạc và môn mĩ thuật
giáo dục lòng yêu nước, tự tôn dân tộc, ý thức về độc lập, chủ quyền dân tộc.
- Giáo dục đạo lí uống nước nhớ nguồn, sự nạp quan, đoàn kết quốc tế.
II- ĐỐI TƯỢNG DẠY HỌC
- Học sinh khối 8- lớp 8A và 8B
- Số lượng: 69 em.
1



III- Ý NGHĨA BÀI HỌC
- Bài 22: Việt Nam đất nước con người, là bài đầu tiên của phần địa lí Việt Nam
khi mà các em đã được tìm hiểu phần địa lí tự nhiên, kinh tế- xã hội của thế giới,
các môi trường và các châu lục, nên bài học này có ý nghĩa rất quan trọng bởi lẽ
nó nó giúp các em bao quát được những nội dung cơ bản, nắm được những
phương pháp học tập tốt phần địa lí Việt Nam.
- Nôi dung bài học này nêu nên khái quat nhất về vị trí, tự nhiên, kinh tế và con
người Việt Nam trải dài qua hàng ngàn năm lịch sử, những vể đẹp tiềm ẩn của
dân tộc qua những tác phẩm hội họa, âm nhạc, văn học. Từ đó làm phong phú
hơn lòng yêu nước của học sinh vốn đã tiềm ẩn trong mỗi con người Việt Nam.
- Bài học này có vai trò giúp các em tò mò hơn trong việc khám phá thiên nhiên
con người Việt Nam, giúp các em hứng thú hơn trong việc tìm hiểu về quê hương
đất nước mình.
- Ý nghĩa quan trọng của bài học này với các em học sinh, với quá trình tìm hiểu
phàn địa lí Việt Nam thì một yêu cầu cấp thiết là phải tích hợp kiến thức liên môn
trong bài học này. Tuy nhiên việc tích hợp kiến thức liên môn phải đảm bảo
những yêu cầu sau:
+ Tích hợp kiến thức liên môn một cách tự nhiên, không gượng ép, áp đặt và
phiến diện.
+ Tích hợp kiến thức liên môn nhưng không làm bài học quá tải và phù hợp với
nội dung giảm tải của bộ Giáo dục và Đào tạo.
+ Cần phải tích hợp với kiến thức môn học phù hợp mà học sinh đã được học,
trong tầm hiểu biết của học sinh.
+ Tích hợp phải hướng tới việc phát triển các năng lực cơ bản của học sinh, đặc
biệt là năng lực sư dụng kiến thức nhiều môn học để giải quyết các vấn đề các
tình huống trong thực tiễn đặt ra.
+ Tích hợp kiến thức liên môn trong các tình huống có vấn đề để tạo hứng thú
cho học sinh, học sinh phải đào sâu suy nghĩ, vận dụng kiến thức tổng hợp để giải
quyết.


2


+ Tích hơp kiến thức liên môn phải phù hợp với từng đối tượng học sinh, phù
hợp với điều kiện hoàn cảnh của nhà trường, phù hợp với chuẩn kiến thức- kĩ
năng do bộ ban hành.
+ Cần phải phối hợp và trao đổi kĩ càng với các giáo viên bộ môn có nội dung
tích hợp trong bài học để nội dung tích hợp có sự chuẩn xác.
IV- THIẾT BỊ DẠY HỌC VÀ HỌC LIÊU
- Bản đồ các nước thế giới
- Tranh ảnh tư liệu liên quan đến bài học
- Bảng phụ, phiếu học tập
- Ứng dụng công nghệ thông tin
- Sách vở, dụng cụ học tập
- Chuẩn bị bài học ở nhà
- Sưu tầm tranh ảnh tư liệu liên quan đến bài học
V- HOẠT ĐỘNG VÀ TIẾN TRÌNH DẠY HỌC
1- Ổn định lớp
2- Kiểm tra bài cũ
3- Bài mới
a) Tích hợp với kiến thức môn âm nhạc
Do đặc điểm của bài học này là muốn cung cấp cho học sinh những ấn tượng ban
đâu về vẻ đẹp của đất nước con người Việt Nam. Trong khi đó lại có rất nhiều tác
phẩm âm nhạc nổi tiếng mà học sinh đã được học có chủ đề ca ngợi đất nước con
người Việt Nam. Hơn nữa âm nhạc lại là công cụ để con người gần nhau hơn, để
tâm hồn mỗi người được bay bổng hơn, với những ca tư dễ đi vào lòng người
hơn. Chính vi vậy mà bài học này liên hệ với kiến thức ân nhạc là cần thiết.
- Trước tiên để tạo hứng thú cho học sinh giáo viên có thể hát tặng cả lớp một
đoạn bài hát " Việt nam quê hương tôi" của nhạc sĩ Đỗ Nhuận thay cho lời giới

thiệu bài mới.
Bạn ơi hãy đến quê hương chúng tôi
Ngắm mặt biển xanh xa tít chân trời
Nghe sóng vỗ dạt dào biển cả
3


Vút phi lao gió thổi bên bờ
Buồm vươn cánh vượt sóng ra ngoài khơi
Trong nắng hồng bừng lên sáng ngời
Miền Nam đất nước quê hương chúng tôi
Có rừng dừa xanh xa tít chân trời
Người thiếu nữ dạt dào tình trẻ
Dáng xinh tươi sao chẳng muốn cười
Lòng trai tráng rộng lớn như biển khơi
Với cánh tay dựng lên đất trời
Mùa Xuân đã tới quê hương chúng tôi
Mía ngọt chè xanh bông trắng lưng đồi
Đồng xanh lúa rập rờn biển cả
Tiếng ai ru con ngủ ru hời
Đồng xanh lúa thẳng cánh bay cò bay
Đưa nước về làng quê xóm tôi
Việt Nam yêu dấu xanh xanh lũy tre
Suối đổ về sông qua những nương chè
Dòng sông cuốn dồn về biển cả
Lứa thanh niên vui thỏa cuộc đời
Mùa Xuân tới nguồn sống đang sục sôi
Đất nước tôi Việt Nam sáng ngời
- Giáo viên có thể yêu cầu học sinh nêu tên, nhịp, giọng của một số bài hát nổi
tiếng đã được học có chủ đề ca ngợi đất nước con người Việt Nam, đồng thời

giáo viên có thể yêu cầu cá nhân học sinh hoặc cả lớp hát một đoạn bài hát quen
thuộc.
- Trong phần hướng dẫn về nhà giáo viên có thể yêu cầu học sinh sáng tác lời bài
hát ca ngợi vẻ đẹp quê hương đất nước theo một làn điệu dân ca nào đó.
4


- Qua việc nghe, hát, tìm hiểu và sáng tác các bài hát ca ngợi đất nước con người
Việt Nam, học sinh sẽ hứng thú hơn trong việc học tập, học sinh sẽ thêm yêu đất
nước con người đồng thời có thể rèn luyện kĩ năng thưởng thức và cảm thụ về
các tác phẩm âm nhạc, kĩ năng biểu diễn, kĩ năng nói trước đám đông.
b) Tích hợp với kiến thức môn mĩ thuật
- Do vẻ đẹp của đất nước con người Việt Nam không chỉ được thể hiện qua
những tác phẩm âm nhạc mà còn được thể hiện qua những tác phẩm hội họa nổi
tiếng, mà vẻ đẹp của thiên nhiên con người được thu nhận chủ yếu qua đôi mắtcửa sổ tâm hồn. Vì lẽ đó qua năng kính của hội họa thì thiên nhiên con người
Việt Nam sẽ được học sinh tiếp nhận đầy đủ hơn.
- Để có thể giúp học sinh vân dụng kiến thức hội họa vào việc tìm hiểu nội dung
bài học này khi vào bài giáo viên có thể cho học sinh quan sát một số bức tranh
nổi tiếng hay những bức tranh đã học có chủ đề về quê hương đất nước.

Tranh Vịnh Hạ Long

Tranh Cảnh làng quê
5


Tranh Ruộng bậc thang
- Sau bài học giáo viên có thể yêu cầu học sinh về nhà vẽ một bức tranh về vẻ
đẹp quê hương đất nước.
- Qua việc liên hệ với kiến thức cơ bản của môn mĩ thuật, với những tác phẩm

nổi tiếng học sinh sẽ có thêm một kênh để tiếp thu kiến thức của bài học này và
góp phần làm phong phú và giàu có hơn trí tưởng tượng và óc sáng tạo của học
sinh.
c) Tích hợp với kiến thức môn lịch sử
- Do sự phát triển kinh tế xã hội đất nước ta luôn gắn liền với những giai đoạn,
những sự kiện lịch sử cụ thể của dân tộc, bởi vậy khi tìm hiểu về thiên nhiên con
người Việt Nam phải liên hệ thường xuyên và tự nhiên với kiến thức lịch sử của
dân tộc.
- Với bài này để làm sinh động hơn nội dung bài học thì giáo viên cần phải liên
hệ với quốc hiệu của nước ta, các sự kiện lịch sử gắn liền với sự phát triển của
đất nước cụ thể như sau:
- Khi khẳng định quốc hiệu của nước ta hiện nay là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa
Việt Nam thì giáo viên cần liên hệ và nhắc lại các quốc hiệu của nước ta trong
lịch sử.
+ Văn Lang, tồn tại 2671 năm, từ năm 2876 TCN đến năm 258 TCN.
+ Âu Lạc từ năm 257 TCN đến đầu thời kì Bắc thuộc.
+ Vạn Xuân từ năm 544 đến năm 602.
+ Đại Cồ Việt từ năm 968 đến năm 1054.
6


+ Đại Việt tồn tại 743 năm, từ năm 1054 đến năm 1804.
+ Đại Ngu tồn tại dưới thời nhà Hồ, từ năm 1400 đến năm 1406.
+ Việt Nam bắt đầu từ thời nhà Nguyễn từ năm 1804.
+ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ 2- 9- 1945.
+ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ 2- 7- 1976 đến nay.
- Khi nói về vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế giáo viên cần đưa ra những
dẫn chứng cụ thể bằng những mốc thời gian có ý nghĩa lịch sử, khi chúng ta là
thành viên quan trọng và tích cực của nhiều tổ chức khu vực và thế giới.
+ Nước ta có quan hệ ngoại giao, là đối tác chiến lược và toàn diện với nhiều

quốc gia trên thế giới như: Liên Bang Nga, EU, Hoa Kì, Trung Quốc, Nhật Bản,
Hàn Quốc...
+ Là thành viên thứ 149 của Liên Hợp Quốc từ 20- 9-1977.

+ Tham gia phong trào không liên kết từ 1976.

7


+ Là thành viên thứ 7 của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á Asean từ tháng 7
năm 1995.

+ Là thành viên của diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á Thái Bình Dương Apec từ
11- 11- 1998.

8


+ Là thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO từ 11- 1- 2007.

+ Là thành viên không thường trực của hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc nhiệm kì
2008- 2009.

9


+ Hiện đang là thành viên của ủy ban nhân quyền Liên Hợp Quốc.

10



+ Đang tích cực tham gia đàm phán về hiệp định thương mại xuyên Thái Bình
Dương TTP.

- Khi nói về sự phát triển của nền kinh tế xã hội Việt Nam qua các giai đoạn lịch
sử thì giáo viên cần liên hệ với các mốc thời gian, các sự kiện lịch sử đánh dấu
các bước ngoặt cho sự phát triển của đất nước.
+ Năm 1858 thực dân Pháp xâm lược và đô hộ nước ta, nước ta trở thành nước
thuộc địa với nền kinh tế phụ thuộc, nghèo nàn và lạc hậu.

11


+ 2- 9- 1945 nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời còn non trẻ, phải đương
đầu với nhiều khó khăn, vừa kháng chiến vừa kiến quốc.

+ Năm 1954 miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, nhân dân ta bước vào công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và chiến đấu chông đế quốc Mĩ ở
miền Nam nên nền kinh tế còn gặp nhiều khó khăn.

12


+ 30- 4- 1975 miền Nam hoàn toàn giải phóng đất nước được thống nhất, nước ta
lại rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội trầm trọng và kéo dài.

+ Tháng 12- 1986 nước ta thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước đánh
dấu bằng Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng. Sau gần 30 năm thực

13



hiện đường lối đổi mới đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn về mọi
mặt.

d) Tích hợp với kiến thức môn ngữ văn.
- Khi nói đến sự khẳng định chủ quyền của nước ta: Nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ. Đây có thể coi là tuyên ngôn của nước ta trong thời đại ngày nay, bởi vậy
người giáo viên có thể liên hệ với những tác phẩm văn học được coi là những bản
tuyên ngôn độc lập trong lịch sử dân tộc.
+ Bài thơ thần " Nam quốc sơn hà" tương truyền của Lý Thường Kiệt, đây được
coi là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc.
Nam quốc sơn hà nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
+ "Cáo bình Ngô" của Nguyễn Trãi được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai
của dân tộc ta.

14


"Việc nhân-nghĩa cốt ở yên dân, quân điếu phạt chỉ vì khử bạo. Như nước
Việt từ trước, vốn xưng văn-hiến đã lâu. Sơn-hà cương-vực đã chia, phong-tục
bắc nam cũng khác. Từ Đinh, Lê, Lý, Trần, gây nền độc-lập; cùng Hán, Đường,
Tống, Nguyên, hùng-cứ một phương. Dẫu cường nhược có lúc khác nhau, song
hào-kiệt đời nào cũng có.
Vậy nên:
Lưu Cung sợ uy mất vía, Triệu Tiết nghe tiếng giật mình. Cửa Hàm Tử giết

tươi Toa Đô, sông Bạch Đằng bắt sống Ô Mã. Xét xem cổ tích, đã có minh
trưng[1].
Vừa rồi:
Vì họ Hồ chính-sự phiền-hà, để trong nước nhân-dân oán bạn. Quân cuồng
Minh đã thừa cơ tứ ngược[2], bọn gian-tà còn bán nước cầu vinh. Nướng dân đen
trên ngọn lửa hung-tàn, vùi con đỏ xuống dưới hầm tai-vạ. Chước dối đủ muôn
nghìn khóe, ác chứa ngót hai mươi năm. Bại nhân-nghĩa, nát cả càn-khôn, nặng
khoa-liễm[3] vét không sơn trạch. Nào lên rừng đào mỏ, nào xuống bể mò châu,
nào hố bẫy hươu đen, nào lưới dò chim sả. Tàn-hại cả côn-trùng thảo-mộc;
nheo-nhóc thay quan quả điên-liên[4]. Kẻ há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy
no-nê chưa chán. Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục-dịch cho vừa.
Nặng-nề về những nỗi phu-phen, bắt-bớ mất cả nghề canh-cửi. Độc-ác thay! trúc
rừng không ghi hết tội; dơ-bẩn thay ! nước bể không rửa sạch mùi. Lẽ nào trời
đất tha cho, ai bảo thần-nhân nhịn được.
Ta đây:
Núi Lam-sơn dấy nghĩa, chốn hoang-dã nương mình. Ngắm non sông căm nỗi
thế thù, thề sống chết cùng quân nghịch-tặc. Đau lòng nhức óc, chốc là mười
mấy nắng mưa; nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối. Quên ăn vì giận, sách
lược-thao suy-xét đã tinh; ngẫm trước đến nay, lẽ hưng-phế đắn-đo càng kỹ.
Những trằn-trọc trong cơn mộng-mị, chỉ băn-khoăn một nỗi đồ-hồi. Vừa khi cờ
nghĩa dấy lên, chính lúc quân thù đang mạnh.

15


Lại ngặt vì:
Tuấn-kiệt như sao buổi sớm, nhân-tài như lá mùa thu. Việc bôn-tẩu thiếu kẻ
đỡ-đần, nơi duy-ác hiếm người bàn-bạc. Đôi phen vùng-vẫy, vẫn đăm-đăm con
mắt dục đông[5]; mấy thủa đợi-chờ, luống đằng-đẵng cỗ xe hư tả [6]. Thế mà trông
người, người càng vắng-ngắt, vẫn mịt-mờ như kẻ vọng dương [7]; thế mà tự ta, ta

phải lo toan, thêm vội-vã như khi chửng-nịch [8]. Phần thì giận hung-đồ ngangdọc, phần thì lo quốc-bộ khó-khăn. Khi Linh-sơn lương hết mấy tuần; khi Khôihuyện quân không một lữ. Có lẽ trời muốn trao cho gánh nặng, bắt trải qua bách
chiết thiên ma; cho nên ta cố-gắng gan bền, chấp hết cả nhất sinh thập tử. Múa
đầu gậy, ngọn cờ phất-phới, ngóng vân-nghê bốn cõi đan hồ. Mở tiệc quân, chén
rượu ngọt-ngào, khắp tướng-sĩ một lòng phụ tử. Thế giặc mạnh, ta yếu mà ta
địch nổi; quân giặc nhiều, ta ít mà ta được luôn.
Dọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung-tàn, lấy chí nhân mà thay cường-bạo. Trận Bồđằng sấm vang sét dậy, miền Trà-lân trúc phá tro bay. Sĩ-khí đã hăng, quân
thanh càng mạnh. Trần Trí, Sơn Thọ mất vía chạy tan; Phương Chính, Lý An tìm
đường trốn-tránh. Đánh Tây-kinh phá tan thế giặc, lấy Đông-đô thu lại cõi xưa.
Dưới Ninh-kiều máu chảy thành sông; bến Tụy-động xác đầy ngoài nội. Trần
Hiệp đã thiệt mạng, Lý Lương lại phơi thây. Vương thông hết cấp lo lường, Mã
Anh khôn đường cứu đỡ. Nó đã trí cùng lực kiệt, bó tay không biết tính sao; ta
đây mưu phạt tâm công, chẳng đánh mà người chịu khuất. Tưởng nó phải thay
lòng đổi dạ, hiểu lẽ tới lui; ngờ đâu còn kiếm kế tìm phương, gây mầm tội-nghiệt.
Cậy mình là phải, chỉ quen đổ vạ cho người; tham công một thời, chẳng bỏ bày
trò dơ-duốc. Đến nỗi đứa trẻ ranh như Tuyên-đức [9], nhàm võ không thôi; lại sai
đồ nhút-nhát như Thạnh, Thăng, đem dầu chữa cháy. Năm đinh-mùi tháng chín,
Liễu Thăng từ Khâu-ôn tiếng sang; lại năm nay tháng mười, Mộc Thạnh tự Vânnam kéo đến. Ta đã điều binh giữ hiểm để ngăn lối Bắc-quân; ta lại sai tướng
chẹn ngang để tuyệt đường lương-đạo. Mười tám, Liễu Thăng thua ở Chi-lăng,
hai mươi, Liễu Thăng chết ở Mã-yên. Hai-mươi-lăm, Lương Minh trận vong;
16


hai-mươi-tám, Lý Khánh tự vẫn. Lưỡi dao ta đang sắc, ngọn giáo giặc phải lùi.
Lại thêm quân bốn mặt vây thành, hẹn đến rằm tháng mười diệt tặc. Sĩ-tốt ra oai
tì hổ, thần-thứ đủ mặt trảo nha. Gươm mài đá, đá núi cũng mòn; voi uống nước,
nước sông phải cạn. Đánh một trận sạch không kình-ngạc, đánh hai trận tan-tác
chim-muông. Cơn gió to trút sạch lá khô, tổ kiến hổng sụt toang đê cũ. Thôi Tụ
phải quì mà xin lỗi, Hoàng Phúc tự trói để ra hàng. Lạng-giang, Lạng-sơn thây
chất đầy đường, Xương-giang, Bình-than máu trôi đỏ nước. Gớm-ghê thay ! sắc

phong-vân cũng đổi; thảm-đạm thay ! sáng nhật-nguyệt phải mờ. Binh Vân-nam
nghẽn ở Lê-hoa, sợ mà mất mật; quân Mộc Thạnh tan chưn Cần-trạm, chạy để
thoát thân. Suối máu Lãnh-câu, nước sông rền-rĩ; thành xương Đan-xá, cỏ nội
đầm-đìa. Hai mặt cứu binh, cắm đầu trốn chạy; các thành cùng khấu, cởi giáp
xuống đầu. Bắt tướng giặc mang về, nó đã vẫy đuôi phục tội; thể lòng trời bất
sát, ta cũng mở đường hiếu sinh. Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc
thuyền, ra đến bể chưa thôi trống ngực. Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài
nghìn cỗ ngựa, về đến Tàu còn đổ mồ-hôi. Nó đã sợ chết cầu hòa, ngỏ lòng thúphục; ta muốn toàn quân là cốt, cả nước nghỉ-ngơi.
Thế mới là mưu-kế thật khôn, vả lại suốt xưa nay chưa có. Giang-san từ đây
mở mặt, xã-tắc từ đầy vững nền. Nhật-nguyệt hối mà lại minh, càn-khôn bĩ mà
lại thái. Nền vạn thế xây nên chăn-chắn, thẹn nghìn thu rửa sạch làu-làu. Thế là
nhờ trời đất tổ-tông khôn-thiêng che-chở, giúp-đỡ cho nước ta vậy.
Than ôi!
Vẫy-vùng một mảng nhung-y nên công đại-định, phẳng-lặng bốn bề thái-vũ mở
hội vĩnh-thanh. Bá-cáo xa gần, ngỏ cùng cho biết."
+ Bản "Tuyên ngôn độc lập" của Hồ Chủ Tịch đọc tại quảng trường Ba Đình khai
sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
"Hỡi đồng bào cả nước,Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng.
Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những
quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".

17


Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng
ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng,
dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791
cũng nói: Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn
được tự do và bình đẳng về quyền lợi.

Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được.
Thế mà hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác
ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với
nhân đạo và chính nghĩa.
Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào.
Chúng thi hành những luật pháp dã man. Chúng lập ba chế độ khác nhau ở
Trung, Nam, Bắc để ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân
tộc ta đoàn kết.
Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những
người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong
những bể máu.
Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân.
Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược.
Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn,
thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều. Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ,
nguyên liệu.
Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng.
Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân
buôn trở nên bần cùng.
Chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta
một cách vô cùng tàn nhẫn.
18


Mùa thu năm 1940, phát xít Nhật đến xâm lăng Đông Dương để mở thêm căn cứ
đánh Đồng Minh, thì bọn thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước
Nhật. Từ đó dân ta chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật. Từ đó dân ta càng
cực khổ, nghèo nàn. Kết quả là cuối năm ngoái sang đầu năm nay, từ Quảng Trị
đến Bắc kỳ, hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói.
Ngày 9 tháng 3 năm nay, Nhật tước khí giới của quân đội Pháp. Bọn thực dân

Pháp hoặc là bỏ chạy, hoặc là đầu hàng. Thế là chẳng những chúng không "bảo
hộ" được ta, trái lại, trong 5 năm, chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật.
Trước ngày 9 tháng 3, biết bao lần Việt Minh đã kêu gọi người Pháp liên minh
để chống Nhật. Bọn thực dân Pháp đã không đáp ứng lại thẳng tay khủng bố Việt
Minh hơn nữa. Thậm chí đến khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông
tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng.
Tuy vậy, đối với người Pháp, đồng bào ta vẫn giữ một thái độ khoan hồng và
nhân đạo. Sau cuộc biến động ngày 9 tháng 3, Việt Minh đã giúp cho nhiều
người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam
Nhật và bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ.
Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không
phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước ta
đã nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Sự thật là dân ta lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp.
Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích
thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại
đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa.
Bởi thế cho nên, chúng tôi, lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu
cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, xóa bỏ hết
những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền
của Pháp trên đất nước Việt Nam.

19


Toàn dân Việt Nam, trên dưới một lòng kiên quyết chống lại âm mưu của bọn
thực dân Pháp.
Chúng tôi tin rằng các nước Đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc
bình đẳng ở các Hội nghị Têhêrăng và Cựu Kim Sơn, quyết không thể không
công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam.

Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc
đã gan góc đứng về phe Đồng Minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó
phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!
Vì những lẽ trên, chúng tôi, chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng:
Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước
tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực
lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy."
- Khi nói về sự phát triển của đất nước ta qua các giai đoạn giáo viên có thể dẫn
ra những áng văn, những bài thơ hay ca ngợi quê hương đất nước hay yêu cầu
học sinh về nhà viết một đoạn văn ngắn, sáng tác thơ lục bát hay sưu tầm những
câu ca dao tục ngữ có chủ đề về quê hương đất nước.
e) Tích hợp với kiến thức môn toán.
Khi nói về thành tựu quan trọng của kinh tế nước ta trong thời kì đổi mới giáo
viên đưa ra một bảng số liệu về số dân, GDP, GDP của các khu vực kinh tế qua
một số năm và yêu cầu học sinh dựa vào kiến thức toán học để tính:
Năm
Dân số ( triệu người)
GDP (tỉ đô la)
Nông nghiệp
CN- XD
Dịch vụ

1979
52,7
12
5
4
3


1989
64,4
24
10
8
6

- Thu nhập bình quân theo đầu người.
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân qua các giai đoạn.
- Cơ cấu GDP của các khu vực kinh tế.
20

1999
76,3
70
25
25
20

2009
85,7
101
30
41
40


f) Tích hợp với kiến thức môn Giáo dục công dân.
Đây là bài học đầu tiên của phần địa lí Việt Nam nên giáo viên cần phải liên hệ
với kiến thức môn giáo dục công dân để giáo dục học sinh về tình yêu quê hương

đất nước, những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tinh thần đoàn kết quốc tế cao
cả và những hiểu biết cơ bản về thể chế xã hội chủ nghĩa.
VI- KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP
Việc kiểm tra đánh giá kết quả học tạp của học sinh trong quá trình dạy học
có vai trò đặc biệt vì nó là khâu cuối cùng và cũng là khâu khởi đầu cho một chu
trình khép kín tiếp theo với một chất lượng cao hơn của quá trình dạy học và giáo
dục. Với bài học này giáo viên có thể kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học
sinh bằng các câu hỏi sau:
Câu 1: Trên bản đồ thế giới nước ta được khẳng định như thế nào?
Câu 2: Hãy chứng minh vị thế của nước ta ngày càng được nâng cao trên trường
quốc tế?
Câu 3: Tại sao nói nước ta là quốc gia thể hiện đầy đủ đặc điểm chung về tự
nhiên, văn hóa, lịch sử của khu vực Đông Nam Á?
Câu 4: Nêu những thành tựu và khó khăn của nước ta trên con đường xây dựng
và phát triển?
Câu 5: Để học tốt môn địa lí nói chung và phần địa lí Việt Nam nói riêng cần
phải làm gì?
Câu 6: Vẻ đẹp đất nước con người Việt Nam được bộc lộ quanhuwngx mặt nào?
VII- CÁC SẢN PHẨM CỦA HỌC SINH
* Kiểm tra vấn đáp
- Câu hỏi: + Nước ta trên bản đồ thế giới được biểu hiện như thế nào?
+ Hãy chứng minh vị thế của nước ta ngày càng được nâng cao trên
trường quốc tế?
+ Nêu những thành tựu và khó khăn của nước ta trên con đường xây
dựng và phát triển?
- Kết quả: 3/4 học sinh trả lời tốt
* Kiểm tra viết 45 phút 100% học sinh đạt trên trung bình.
21



22



×